Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Pháp luật giải quyết tranh chấp nhãn hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP NHÃN HIỆU

NGUYỄN ANH BÌNH

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP NHÃN HIỆU

NGUYỄN ANH BÌNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả được nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo chính xác,
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Anh Bình


LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo Viện
Đại học Mở Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô trong Ban Giám hiệu và Khoa
Đào tạo Sau đại học đã luôn giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong quá trình học
tập tại nhà trường.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của TS.
Nguyễn Trí Tuệ đã hướng dẫn em hoàn thành luận văn thạc sĩ này./.
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Anh Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ LÝ LUẬN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP NHÃN HIỆU ................................................................ 5
1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu ........................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu .................................................................................. 5

1.1.2. Chức năng của nhãn hiệu .......................................................................... 7
1.1.3. Phân loại nhãn hiệu ................................................................................... 8
1.2. Lý luận giải quyết tranh chấp nhãn hiệu.......................................................... 15
1.2.1. Khái quát về tranh chấp nhãn hiệu .......................................................... 15
1.2.2. Phân loại các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu ................... 19
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 23
Chương 2. NỘI DUNG CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP NHÃN HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH........................................................................................................ 24
2.1. Các biện pháp xử lý vi phạm về nhãn hiệu ...................................................... 24
2.1.1. Biện pháp hành chính .............................................................................. 25
2.1.2. Biện pháp dân sự ..................................................................................... 26
2.1.3. Biện pháp hình sự .................................................................................... 28
2.1.4. Biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở
hữu trí tuệ ......................................................................................................... 29
2.2. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu ngoài các cơ quan nhà nước ......................... 29
2.2.1. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng thương lượng ............................... 30
2.2.2. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng hòa giải ....................................... 30
2.2.3. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng trọng tài thương mại .................... 31
Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 32
Chương 3. THỰC TRẠNG HÀNH VI XÂM PHẠM NHÃN HIỆU, THỰC
THI PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NHÃN HIỆU Ở VIỆT
NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ........................................ 33
3.1. Thực trạng của hành vi xâm phạm nhãn hiệu .................................................. 33


3.2. Thực trạng thực thi pháp luật giải quyết tranh chấp nhãn hiệu ở Việt Nam ..... 40
3.2.1. Thực trạng thực thi pháp luật giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng các
cơ quan nhà nước .............................................................................................. 40
3.2.2. Thực trạng thực thi pháp luật giải quyết tranh chấp nhãn hiệu ngoài các

cơ quan nhà nước .............................................................................................. 50
3.3. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về nhãn hiệu và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về nhãn hiệu, giải quyết tranh chấp về nhãn hiệu ........................... 52
3.3.1. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về nhãn hiệu ...................... 52
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nhãn hiệu và giải quyết tranh chấp về
nhãn hiệu .......................................................................................................... 57
Kết luận Chương 3 ................................................................................................ 64
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 66


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam còn có
nhiệm vụ vươn ra thị trường quốc tế. Một nền kinh tế nào muốn phát triển cũng gắn
với sự phát triển của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp luôn phải tuân thủ các
quy tắc của thương mại quốc tế, đồng thời phải tự tạo ra sự khác biệt, khẳng định
chính khả năng của mình. Trong tiến trình này hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ có một vị trí vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp.
Xu hướng hội nhập kinh tế và khoa học công nghệ đang diễn ra trên quy mô
toàn cầu. Ngày 11/01/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), mở ra một thời kỳ mới với nhiều thuận lợi và thách
thức cho tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của đất nước. Chủ động trong việc hội
nhập, Việt Nam đã chủ động xây dựng và bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi hệ thống
pháp luật và các chính sách kinh tế cho phù hợp với yêu cầu của quan hệ thương
mại quốc tế, với thông lệ và định chế chung của WTO, nhưng cũng đảm bảo định
hướng phát triển lâu dài và lợi ích của quốc gia.
Quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu nói riêng có thể cho phép các doanh
nghiệp tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của họ so với sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh, cũng như có được mức độc quyền bình đẳng giúp giảm thiểu rủi ro và

bất trắc liên quan đến việc giới thiệu sản phẩm mới hoặc đã được cải tiến ra thị
trường. Trong mối quan hệ này, việc tạo ra một nhãn hiệu có thể mang lại nhiều
thuận lợi, hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. Nhãn hiệu giúp khách hàng nhận ra
sản phẩm (dù là hàng hóa hoặc dịch vụ) của một doanh nghiệp, phân biệt chúng với
các sản phẩm trùng hoặc tương tự do các đối thủ cạnh tranh cung cấp. Khách hàng
hài lòng với một sản phẩm cụ thể rất có khả năng tiếp tục mua hoặc sử dụng sản
phẩm đó trong tương lai. Do vậy, họ cần phân biệt được một cách dễ dàng giữa các
sản phẩm trùng hoặc tương tự và nhãn hiệu làm được điều đó. Nhãn hiệu cũng có
một vai trò then chốt trong chiến lược quảng cáo và tiếp thị của doanh nghiệp nhằm
xây dựng hình ảnh và uy tín về các sản phẩm của họ trong mắt người tiêu dùng.
Ngoài ra, nhãn hiệu còn tạo động lực cho các doanh nghiệp đầu tư vào việc duy trì
1


hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm bảo đảm rằng sản phẩm mang nhãn hiệu có uy
tín đối với khách hàng hiện tại hoặc trong tương lai, khách hàng quen thuộc hay
chưa quen thuộc. Vai trò của nhãn hiệu đối với các doanh nghiệp tại các nền kinh tế
phát triển cũng như tại Việt Nam đã và đang ngày càng được khẳng định.
Trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp đã tạo dựng và đứng
vững trên thị trường, tạo được lòng tin bền vững của người tiêu dùng đối với nhãn
hiệu riêng của mình, từ đó phát triển mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh, đem
lại doanh thu lớn. Bên cạnh đó, không ít những doanh nghiệp đã không đánh giá
tầm quan trọng của nhãn hiệu, cũng như không thành công trong việc xác lập và tạo
dựng nhãn hiệu cho mình. Điều này đã đưa các doanh nghiệp gặp những khó khăn
nhất định khi đưa sản phẩm của mình ra cạnh tranh trên thương trường, nhất là ở thị
trường nước ngoài, thậm chí còn phải bỏ ra những khoản tiền đáng kể vì bị phạt vi
phạm hoặc phải tạo dựng lại nhãn hiệu mới.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật giải
quyết tranh chấp nhãn hiệu” cho luận văn cao học chuyên ngành Luật Kinh tế
của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình khoa học khác nhau nghiên cứu trực tiếp hoặc gián
tiếp về nhãn hiệu, trong đó có thể kể đến: Đinh Văn Thanh và Đinh Thị Hằng,
Nhãn hiệu hàng hoá trong pháp luật dân sự (sách chuyên khảo), Nxb. CAND, Hà
Nội, 2004; Lê Hồng Hạnh, Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn
đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Lê Xuân Thảo, Đổi
mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005;
Nguyễn Thanh Tâm, Quyền sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại (sách
chuyên khảo), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006; Phùng Trung Tập, Các yếu tố của
quyền sở hữu trí tuệ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004; Lê Hoài Dương, “Bảo hộ nhãn
hiệu hàng hoá ở Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 2/2004; Lê Hoài Dương,
“Sự đánh giá tương tự có khả năng gây nhầm lẫn giữa các nhãn hiệu”, Tạp chí Toà
án nhân dân, số 02/2004; Đàm Thị Diễm Hạnh, “Xây dựng khái niệm nhãn hiệu
trong LSHTT”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8 (169) tháng 4/2010; Lê Hồng
2


Hạnh, “Thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hoá”, Tạp chí Luật học, số 6/2003; Lê
Việt Long, “Xâm phạm sở hữu trí tuệ: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2008; Nguyễn Như Quỳnh, “Một số vấn đề về
nhãn hiệu nổi tiếng”, Tạp chí Luật học, số 2/2001; Vũ Thị Hải Yến, “Mối quan hệ
giữa bảo hộ chỉ dẫn địa lí và bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của Luật SHTT Việt
Nam”, Tạp chí Luật học, số 10/2007; Đàm Thị Diễm Hạnh, Nhãn hiệu có khả
năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng dưới góc độ so sánh pháp luật Việt
Nam với pháp luật Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009; Đỗ Thị Hồng, Xác định khả năng phân biệt
của nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,
2008; Nguyễn Văn Luật, Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
hàng hoá ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2005; Vũ Thị Hải Yến, Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với

nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam theo quy định của pháp luật dân sự, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001...
Tuy nhiên, nghiên cứu một cách cụ thể về nhãn hiệu và bảo hộ nhãn hiệu
dưới góc độ thương mại thì chưa có một công trình khoa học nào đề cập một cách
cụ thể. Hơn nữa, các công trình trước đây được nghiên cứu trước khi hoặc ngay sau
khi Luật Sở hữu trí tuệ ra đời nên ít nhiều không còn tính thời sự trong giai đoạn
hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu với ba mục đích chính đó là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về nhãn hiệu, pháp luật giải quyết tranh chấp
đối với nhãn hiệu.
- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về các phương
thức giải quyết tranh chấp đối với nhãn hiệu;
- Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng hành vi xâm phạm nhãn hiệu, thực trạng
thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đối với nhãn hiệu, từ đó đưa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu, pháp luật về giải quyết
tranh chấp đối với nhãn hiệu.
3


4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận về bảo hộ quyền đối
với nhãn hiệu, pháp luật giải quyết tranh chấp đối với nhãn hiệu được quy định
trong pháp luật về sở hữu trí tuệ. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng thực thi
pháp luật về giải quyết tranh chấp đối với nhãn hiệu, từ đó đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu, pháp luật về giải quyết tranh chấp
đối với nhãn hiệu.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các quy định của pháp luật về
vấn đề bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu, pháp luật giải quyết tranh chấp đối với nhãn

hiệu, đồng thời phản ánh thực trạng và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả của việc thực thi pháp luật giải quyết tranh chấp đối với nhãn hiệu.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử nhằm tìm ra mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng một
cách khách quan và logic. Ngoài ra, luận văn cũng vận dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: Phân tích chứng minh, phân tích tổng hợp,
so sánh, diễn giải… để làm sáng tỏ vấn đề, trên cơ sở đó đưa ra được những hạn chế
và một số giải pháp hoàn thiện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu bởi ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về nhãn hiệu và lý luận giải quyết tranh chấp
nhãn hiệu.
Chương 2: Nội dung các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực trạng hành vi xâm phạm nhãn hiệu, thực thi pháp luật giải
quyết tranh chấp nhãn hiệu ở Việt Nam và giải pháp hoàn thiện pháp luật.

4


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ
LÝ LUẬN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NHÃN HIỆU
1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu
1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu
Từ thời kỳ trung cổ, cùng với sự phát triển của giao lưu thương mại, việc sử
dụng nhãn hiệu để phân biệt hàng hóa, sản phẩm cùng loại của các nhà sản xuất đã
có mầm mống của sự phát triển. Đến thế kỷ XIX với sự phát triển không ngừng của

khoa học công nghệ, ngày một nhiều hơn các sản phẩm hữu ích đã được tạo ra phục
vụ nhu cầu của con người. Điều này kéo theo sự phát triển của lưu thông hàng hóa,
sự phong phú của các sản phẩm và sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất làm nảy sinh
yêu cầu cần có những dấu hiệu riêng để nhận biết hàng hóa, dịch vụ của từng đơn vị
sản xuất khác nhau nhưng cùng một chủng loại hoặc có tính chất tương tự bằng
cách nhà sản xuất đã ghi nhãn mác, tên gọi của sản phẩm, phân biệt chúng với sản
phẩm của doanh nghiệp khác.1
Trên bình diện quốc tế, có nhiều quốc gia sớm quan tâm tới nhãn hiệu, cũng
như sớm hình thành, phát triển pháp luật về nhãn hiệu. Nhãn hiệu cổ xưa nhất trên
thế giới còn được sử dụng cho tới ngày nay là nhãn hiệu “Weihenstephaner” cho
sản phẩm bia xuất hiện năm 1040. Một thời gian không quá dài sau đó người ta
thấy một sự phát triển liên tục của pháp luật quốc gia và quốc tế về nhãn hiệu
trong thực tế.2
1

“Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự”, TS Đinh Văn Thanh, LG Đinh Thị Hằng, NXB
Công an Nhân dân, năm 2004, Tr13, 14.
2
Cụ thể, vào năm 1266 đạo luật đầu tiên trên thế giới liên quan đến nhãn hiệu ra đời tại Anh,
(“Bakers Marking Law”). Ở Mỹ, năm 1971 Thomas Jefferson đề xuất xây dựng luật nhãn hiệu dựa
trên các quy định về thương mại của Hiến pháp Mỹ. Luật Nhãn hiệu ban hành tại Pháp năm 1857,
tại Anh năm1862, tại Đức Năm 1874. Năm 1878 Hiệp hội Nhãn hiệu Quốc tế - International
Trademark Association (INTA) được thành lập. Công ước Paris về Sở hữu Công nghiệp là thỏa
thuận quốc tế đầu tiên liên quan đến nhãn hiệu được ký kết năm 1983. Cho tới năm 1994 Hiệp định
về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (sau đây gọi là Hiệp định
TRIPs) của WTO được xác lập cùng với Hiệp định thành lập WTO.

5



Nhãn hiệu (trademark) là một yếu tố mang tính đặc trưng thể hiện sự gắn liền
giữa thị trường thương mại và lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Chức năng phân biệt
nguồn gốc của hàng hóa hay dịch vụ của nhãn hiệu luôn được xem là yếu tố quan
trọng nhất, đóng vai trò trung tâm trong luật nhãn hiệu. Nhiều sản phẩm hàng hóa
đã được người tiêu dùng đồng nhất với tên nhãn hiệu của chúng, chẳng hạn như
nước giải khát Coca Cola, cà phê Nestcafé, quần Jean Levi’s... Những sản phẩm
này thực sự đã trở nên nổi tiếng và được biết đến một cách rộng rãi khắp nơi trên
thế giới.3
Tại Việt Nam, bảo hộ nhãn hiệu được đề cập đến muộn hơn. Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa số 01 được Cục Sáng chế (nay là Cục Sở hữu trí
tuệ) cấp cho Nhãn hiệu “DC & Hình” cho sản phẩm “Động cơ điện ba pha, quạt
trần” của Nhà máy chế tạo Điện cơ vào ngày 29/06/1984. Tuy nhiên, trong nhiều
năm gần đây, cùng với sự ra đời của Bộ luật Dân sự các năm 1995, 2005 và Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 nhãn hiệu ngày càng được biết đến nhiều hơn và được sử dụng
rộng rãi hơn. Ví dụ, nhãn hiệu có thể được gọi thay cho một nhóm sản phẩm như
trường hợp người tiêu dùng gọi OMO thay cho một gói bột giặt; gọi Coca Cola thay
cho một hộp nước giải khát; gọi bánh Kinh Đô thay cho một gói bánh…
Trong thực tế ở Việt Nam, nhãn hiệu có thể được hiểu đơn giản gắn với tên
của một sản phẩm. Về mặt pháp lý, Luật Sở hữu trí tuệ định nghĩa “Nhãn hiệu là
dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”4.
Khái niệm này phù hợp với quy định tại Điều 15.1 Hiệp định TRIPs, theo đó bất kỳ
một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc
dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác,
đều có thể là nhãn hiệu. Điều khoản này của TRIPs còn quy định thêm rằng các dấu
hiệu cụ thể bao gồm các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa
và tổ hợp màu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng
được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa.
3

“Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Châu âu và Hòa Kỳ”, ThS. Phan Ngọc Tâm, Tạp chí

khoa học pháp lý số 04/2006.
4
Điều 4.16, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 theo Luật số 36 /2009/QH12
(sau đây gọi là Luật sở hữu trí tuệ).

6


1.1.2. Chức năng của nhãn hiệu
Thông thường, một nhãn hiệu thực hiện bốn chức năng chính đó là: Chức
năng phân biệt; chức năng thông tin nguồn gốc hoặc xuất xứ của sản phẩm, dịch vụ;
chức năng thông tin về chất lượng sản phẩm, dịch vụ; chức năng tiếp thị, quảng cáo.
- Thứ nhất, chức năng phân biệt của nhãn hiệu.
Nhãn hiệu là dấu hiệu được sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ, nó luôn đi kèm
với sản phẩm và có chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các nhà
sản xuất, cung cấp dịch vụ khác nhau. Nhờ vào tính phân biệt này mà người tiêu
dùng dễ dàng lựa chọn một sản phẩm hoặc sử dụng dịch vụ. Và họ có thể nhận ra
một sản phẩm, dịch vụ mà họ đã được biết đến từ trước hoặc sau những sản phẩm
đã được quảng cáo. Vì chức năng phân biệt này của hàng hóa mà chỉ những dấu
hiệu có khả năng tự phân biệt mới có khả năng được đăng ký bảo hộ. Hay nói cách
khác, mục đích của việc đăng ký bảo hộ là để bảo đảm chắc chắn rằng chỉ có những
dấu hiệu có tính phân biệt mới được sử dụng và sự mập mờ giữa các nhãn hiệu
được ngăn chặn.
- Thứ hai, chức năng thông tin nguồn gốc hoặc xuất xứ sản phẩm, dịch vụ
của nhãn hiệu.
Nguồn gốc và xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ là những thông tin quan trọng
được người tiêu dùng đặc biệt quan tâm. Người ta không thể mua một sản phẩm
hàng hóa khi trên sản phẩm, hàng hóa đó không ghi rõ nguồn gốc xuất xứ. Vì vậy,
nhãn hiệu là thành tố quan trọng góp phần làm rõ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó
xuất phát từ một nguồn gốc nhất định. Qua đó, người tiêu dùng cũng biết được ai là

người sẽ chịu trách nhiệm đối với sản phẩm mà mình mua, cả về chất lượng và công
dụng của nó.
- Thứ ba, chức năng thông tin về chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Đây là một thông tin rất quan trọng đối với người tiêu dùng, nó chỉ ra cho
khách hàng biết sản phẩm mang nhãn hiệu có cùng đặc tính và chất lượng như các
sản phẩm khác mang cùng nhãn hiệu mà trước đó khách hàng đã mua hoặc nghe
đến. Chính chức năng này đã giúp cho người mua có thể đưa ra quyết định nhanh
chóng và hiệu quả hơn về sản phẩm mà họ dự định mua. Đồng thời giúp cho chủ sở
7


hữu nhãn hiệu phân biệt và tách sản phẩm của mình với các sản phẩm của các hãng
hoặc cơ sở sản xuất khác.
- Thứ tư, chức năng tiếp thị, quảng cáo của nhãn hiệu.
Nhãn hiệu được sử dụng không chỉ để phân biệt hàng hóa, dịch vụ hay để chỉ
một cơ sở sản xuất kinh doanh riêng biệt hoặc một chất lượng đặc thù của một loại
hàng hóa mà còn nhằm khuấy động việc bán hàng. Đó cũng là lí do để nói rằng
nhãn hiệu được sử dụng kết hợp với việc tiếp thị, quảng cáo (nhãn hiệu xuất hiện
trong các đoạn phim quảng cáo, trên báo chí, phương tiện giao thông công cộng...).
Chính nhờ chức năng này của nhãn hiệu mà các doanh nghiệp có thể quảng bá cho
sản phẩm, dịch vụ của mình nhằm lôi cuốn người tiêu dùng. Một nhãn hiệu thực
hiện được chức năng này thì cần phải được lựa chọn chu đáo. Nó phải lôi cuốn
người tiêu dùng, tạo ra sự quan tâm, tạo cảm giác tin tưởng.
Như vậy, với những chức năng quan trọng đó của nhãn hiệu thì việc các
doanh nghiệp, chủ sở hữu nhãn hiệu dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng cũng
như bảo hộ nhãn hiệu là hoàn toàn cần thiết.
1.1.3. Phân loại nhãn hiệu
Phân loại nhãn hiệu có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Dựa
trên các tiêu chí khác nhau, có các cách phân loại nhãn hiệu khác nhau. Thông
thường, phân loại nhãn hiệu có thể dựa trên một số tiêu chí sau:

a/ Dựa vào đối tượng mang nhãn hiệu có thể chia nhãn hiệu thành hai loại là nhãn
hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ.
- Nhãn hiệu hàng hóa (Trademarks) là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa
cùng loại của các nhà sản xuất khác nhau. Thông thường, nhãn hiệu hàng hóa chỉ
dùng cho hàng hóa là sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên hoặc sản phẩm do con người
sản xuất, chế tạo ra. Điều này không có nghĩa là nhãn hiệu hàng hóa phải thông tin
cho người tiêu dùng về người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc thậm chí người
bán sản phẩm. Nhãn hiệu hàng hóa tùy từng loại hình hàng hóa mà nó có thể được
gắn trực tiếp lên hàng hóa hoặc các bao bì, sản phẩm hàng hóa giúp người tiêu dùng
có thể nhận biết để phân biệt hàng hóa này với hàng hóa của cơ sở sản xuất kinh
doanh khác nhau.
8


Ví dụ: Nhãn hiệu Vfresh cho sản phẩm nước uống, nhãn hiệu Cocacola cho
sản phẩm nước uống.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, người tiêu dùng đang đứng trước sự
bùng nổ của các loại nhãn hiệu hàng hóa khác nhau. Do vậy, để người tiêu dùng
chọn đúng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp mình thì việc xây dựng, đăng ký
và bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa cho doanh nghiệp mình có ý nghĩa vô cùng
quan trọng.
- Nhãn hiệu dịch vụ là dấu hiệu để phân biệt dịch vụ cho các chủ thể kinh
doanh khác nhau cung cấp. Sản phẩm gắn nhãn hiệu dịch vụ là những sản phẩm vô
hình do một người hay một tổ chức doanh nghiệp đứng ra thực hiện nhằm phục vụ
nhu cầu của mọi người trong xã hội. Nhãn hiệu dịch vụ thường gắn trên các bảng
hiệu dịch vụ để người có nhu cầu hưởng thụ dịch vụ đó có thể nhận thấy dễ dàng.
Tuy nhiên, nhãn hiệu dịch vụ ở đây phải là những hoạt động mua bán hàng hóa mà
nó chỉ là một hoạt động góp phần hình thành nên dịch vụ của hàng hóa mua bán.
Ngày nay, trong điều kiện đời sống kinh tế vật chất ngày càng được nâng cao thì

các loại hình dịch vụ ngày càng trở nên phong phú (ví dụ các dịch vụ pháp lý, bảo
hiểm, thông tin liên lạc...) tăng cả về số lượng, chất lượng và mức độ cạnh tranh
giữa các loại dịch vụ cũng trở nên gay gắt.
Ví dụ: Cũng là dịch vụ vận chuyển hàng không nhưng thông qua nhãn hiệu
người sử dụng biết và phân biệt được dịch vụ của Vietnam Airlines và Vietjet
Airline.

9


b/ Dựa vào dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu thì có ba loại nhãn hiệu:
- Nhãn hiệu chữ: Đây là loại nhãn hiệu được sử dụng khá phổ biến, bao gồm
các chữ cái, có thể kèm theo cả chữ số; từ có thể có nghĩa hoặc không có nghĩa; có
thể là tên gọi, từ tự đặt...; Ngữ có thể là một cụm từ hoặc một khẩu hiệu trong kinh
doanh... Dấu hiệu chữ được sử dụng làm nhãn hiệu khi chữ cái, chữ số, chữ không
thuộc các ngôn ngữ thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng
và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu.
Ví dụ: NIKE, VITAL,...
- Nhãn hiệu hình: Bao gồm hình vẽ, ảnh chụp, biểu tượng, hình khối (hình
không gian ba chiều). Tuy nhiên, những dấu hiệu hình cũng chỉ được đăng ký làm
nhãn hiệu khi nó không phải là những hình và hình học đơn giản như hình vuông,
hình tròn, hình bình hành...hoặc hình vẽ, hình ảnh quá rắc rối phức tạp khiến người
tiêu dùng không dễ nhận thức và không dễ ghi nhớ được đặc điểm của hình; hoặc
hình vẽ, hình ảnh mang tính mô tả chính hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Ví dụ: Nhãn hiệu gắn vào máy điện thoại, máy tính của APPLE.

10


- Nhãn hiệu kết hợp: Là nhãn hiệu được kết hợp cả từ ngữ và hình ảnh.

Những nhãn hiệu này có thể được thể hiện trắng đen hoặc kết hợp cả màu sắc. Sự
kết hợp này cũng tạo thành một tổng thể gây ấn tượng, dễ nhận biết, có khả năng
phân biệt và đáp ứng được yêu cầu của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Chính vì thế
loại nhãn hiệu này cũng thường được nhà sản xuất lựa chọn.
- Ví dụ: Nhãn hiệu thời trang cao cấp Chanel

c/ Một số loại nhãn hiệu đặc biệt khác:
Khác với nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng
nhận là nhãn hiệu do nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh cùng sử dụng. Nhãn hiệu
tập thể và nhãn hiệu chứng nhận có thể chứa các dấu hiệu mang tính chất mô tả:
chất lượng, xuất xứ địa lý, tính chất...
+ Nhãn hiệu tập thể (Collective marks): Là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng
hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.5
Nhãn hiệu tập thể được áp dụng đối với hàng hóa và dịch vụ. Nhãn hiệu tập
thể là nhãn hiệu của một tập thể các nhà sản xuất (thường là một hiệp hội, hợp tác
xã, tổng công ty...), trong đó, tổ chức tập thể xây dựng quy chế chung về việc sử
dụng nhãn hiệu tập thể (như các chỉ tiêu chung về chất lượng, nguồn gốc sản phẩm,
phương pháp sản xuất...) và các thành viên có quyền sử dụng nhãn hiệu nếu hàng
hóa, dịch vụ của họ đáp ứng được các tiêu chuẩn đó. Quyền sở hữu nhãn hiệu tập
thể tùy từng trường hợp có thể là cá nhân hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp cho tập
thể đó. Chủ nhãn hiệu tập thể có nghĩa vụ kiểm soát sự tuân thủ theo quy chế sử
dụng nhãn hiệu của các cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể. Trong
một nhãn hiệu tập thể thì nhiều người cùng có thể sử dụng một loại nhãn hiệu.
Nhưng khi tập thể sử dụng nhãn hiệu mà với tư cách nhân danh tập thể thì lúc này
nhãn hiệu sẽ được xem là một nhãn hiệu bình thường mà không được xem là nhãn
5

Khoản 4 Điều 17, Luật sở hữu trí tuệ.


11


hiệu tập thể, vì nhãn hiệu chỉ do một chủ thể duy nhất, nhân danh bản thân sử dụng.
Nhãn hiệu tập thể có tác dụng thông báo cho người sử dụng về những khía cạnh đặc
trưng của sản phẩm mà nhãn hiệu tập thể được sử dụng. Trong trường hợp như vậy,
việc tạo ra một nhãn hiệu tập thể không chỉ hỗ trợ tiếp thị sản phẩm ở thị trường
trong nước và có thể trên thị trường quốc tế mà còn cung cấp cơ sở cho việc hợp tác
giữa những nhà sản xuất trong nước. Khi đó, nhãn hiệu mới có thể trở thành một
công cụ hữu hiệu cho phát triển trong nước. Ví dụ: Nhãn hiệu tập thể Gốm Bàu
Trúc của Ninh Thuận.
+ Nhãn hiệu chứng nhận (Certification marks)
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ
chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng
hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc
tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.6
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu do các tổ chức có chức năng kiểm soát,
chứng nhận chất lượng, đặc tính... của hàng hóa, dịch vụ đăng ký, sau đó tổ chức này
có quyền cấp phép sử dụng cho bất kỳ chủ thể sản xuất, kinh doanh nào nếu hàng
hóa, dịch vụ của họ đáp ứng các tiêu chuẩn do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận đặt
ra. Chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của quy chế
sử dụng nhãn hiệu trong quá trình chứng nhận hàng hóa, dịch vụ đủ tiêu chuẩn mang
nhãn hiệu và có nghĩa vụ kiểm soát sự tuân thủ quy chế sử dụng nhãn hiệu của các cá
nhân, tổ chức có quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận tương ứng.
Ví dụ: Nhãn hiệu chứng nhận trà B'lao

6

Khoản 17, Điều 8, Luật SHTT


12


Nhãn hiệu chứng nhận trà B'Lao đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu số 136763 ngày 9/11/2009, trước đó vào ngày 27/2/2008
UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành quy chế quản lý và sử dụng nhãn hiệu chứng
nhận "Trà B'Lao" gồm 4 loại Trà xanh ướp hương, trà xanh, trà đen chế biến và Trà
ôlong được sản xuất, chế biến và kinh doanh trên địa bàn thị xã Bảo Lộc và huyện
Bảo Lâm. Phương pháp đánh giá các đặc tính chất lượng của sản phẩm trà B'Lao
phải được thực hiện đúng theo quy định trong tiêu chuẩn Việt Nam. Các doanh
nghiệp đã được cấp phép sử dụng nhãn hiệu trà B'Lao đều có quyền gắn nhãn hiệu
chứng nhận trên bao bì cho loại sản phẩm đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng nhãn hiệu do mình sản xuất, kinh doanh; có quyền khai thác, sử dụng và
hưởng lợi ích kinh tế phát sinh từ nhãn hiệu chứng nhận, đồng thời được nhà nước
bảo hộ quyền sử dụng hợp pháp nhãn hiệu chứng nhận trà B'Lao.
Mặc dù nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận có rất nhiều điểm giống
nhau, nhưng vẫn có những điểm khác nhau cơ bản. Sự khác biệt giữa nhãn hiệu
chứng nhận và nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu tập thể chỉ có thể do các thành viên
của tổ chức tập thể sử dụng, trong khi nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử dụng
bởi bất kỳ ai có sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được các tiêu chuẩn định sẵn. Nhãn hiệu
chứng nhận hầu như không được đề cập đến trong các điều ước quốc tế, kể cả Hiệp
định Trips. Về chức năng, nếu như nhãn hiệu tập thể dùng để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ của các thành viên tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ
của người khác không phải là thành viên tổ chức thì chức năng chính của nhãn hiệu
chứng nhận lại là để chứng nhận cho hàng hóa và dịch vụ của chủ sở hữu được phép
sử dụng. Chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận có thể chuyển nhượng nhãn hiệu của
mình cho tổ chức khác có thẩm quyền kiểm định nhưng ngược lại, chủ sở hữu nhãn
hiệu tập thể không được phép chuyển nhượng nhãn hiệu trừ trường hợp chuyển
quyền sở hữu cùng chuyển nhượng toàn bộ cơ sở sản xuất, cung cấp dịch vụ.

Nếu dựa vào mức độ được biết đến thì có thể chia nhãn hiệu thành hai loại
nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.
+ Nhãn hiệu nổi tiếng không chỉ thực hiện tốt chức năng phân biệt của nhãn
hiệu mà còn là cam kết về chất lượng và những phẩm chất khác của sản phẩm, của
13


nhà sản xuất sản phẩm đối với người tiêu dùng. Nó chiếm lĩnh cả một thị trường
rộng lớn, vượt qua khỏi phạm vi của một quốc gia sản xuất ra loại hàng hóa, sản
phẩm đó. Nhãn hiệu nổi tiếng là một trong những thành quả đầu tư và là tài sản có
giá trị rất lớn của các doanh nghiệp sở hữu nó, đôi khi nhãn hiệu nổi tiếng còn tạo ra
thương hiệu cho mỗi quốc gia, vùng miền. Cũng chính vì vậy mà tình trạng nhãn
hiệu nổi tiếng bị sao chép, quyền của chủ nhãn hiệu nổi tiếng bị xâm phạm diễn ra
khắp nơi trên toàn thế giới.
Một số nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới với giá trị được định giá lên tới hàng
tỷ USD (Theo Bảng xếp hạng giá trị thương hiệu thế giới năm 2017 của tạp chí
Forbes công bố, giá trị thương hiệu của nhà sản xuất iPhone được định giá 170 tỷ
USD, tăng 10% so với năm 2016. Xếp ở vị trí thứ 2 là Google với giá trị thương
hiệu ở mức gần 102 tỷ USD, tăng 19,3 tỷ USD so với năm 2016. Với giá trị thương
hiệu 87 tỷ USD, Microsoft giành vị trí thứ 3; tiếp theo là Facebook với giá trị 73,5
tỷ USD. Hãng Coca-Cola đã vượt qua top 5 với giá trị 56,4 tỷ USD).7
Khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2009 quy định: "Nhãn hiệu nổi tiếng là
nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam". Quy
định nhãn hiệu nổi tiếng được xác định thông qua thủ tục công nhận của các cơ quan
nhà nước thẩm quyền, chứ không phải thông qua việc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu
như các loại nhãn hiệu thông thường khác. Tại Việt Nam, cà phê Trung Nguyên là
một ví dụ thành công mang lại của một nhãn hiệu nổi tiếng đã được xây dựng trên thị
trường trong và ngoài nước. Chỉ trong vòng mấy năm, từ một xưởng sản xuất nhỏ ở
Buôn Ma Thuột, với một chiến lược xây dựng và phát triển, Trung Nguyên đã có mặt
ở khắp mọi miền đất nước, chiếm thị phần lớn và trở thành một nhãn hiệu cà phê nổi

tiếng được nhiều người tiêu dùng trong và ngoài nước biết đến.
+ Nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi. Hiện nay chưa có một văn
bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể thế nào là nhãn hiệu được sử dụng và
thừa nhận rộng rãi, mặc dù tại điểm g khoản 2 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005 và trong văn bản hướng dẫn thi hành luật này cũng đã đề cập tới thuật ngữ:
"Nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi".
7

/>
14


Một số quốc gia trên thế giới đã phân biệt nhãn hiệu dưới hai cấp độ: Nhãn
hiệu nổi tiếng (Well - known marks) là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi trong phạm
vi quốc gia và nhãn hiệu rất nổi tiếng (Famous marks) là nhãn hiệu được biết đến
rộng rãi trên thị trường quốc tế, mang tính toàn cầu. Như vậy, phải chăng nhà làm
luật nước ta cũng có ý muốn phân biệt hai cấp độ là: Nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn
hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi. Nếu như nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu
được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam thì nhãn hiệu
được sử dụng và thừa nhận rộng rãi có thể được người tiêu dùng biết đến nhưng
trong phạm vi hẹp hơn, có thể là trong một bộ phận người tiêu dùng... Nhưng chắc
chắn mức độ được người tiêu dùng biết đến sẽ thấp hơn so với nhãn hiệu nổi tiếng.
Ngoài ra dựa vào mối liên quan giữa sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương
tự mang nhãn hiệu trùng hoặc tương tự nhau ta còn thấy xuất hiện loại nhãn hiệu
liên kết. Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng
hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc
có liên quan với nhau.
Việc đăng ký nhãn hiệu liên kết mang lại nhiều lợi ích cho chủ nhãn hiệu. Đó
là chủ nhãn hiệu sẽ không cần phải xây dựng uy tín cho từng mặt hàng, từng nhãn
hiệu riêng biệt, do đó tiết kiệm được các chi phí quảng cáo, khuyếch trương. Nhãn

hiệu liên kết tạo uy tín cho những sản phẩm dịch vụ mới của doanh nghiệp bởi nhãn
hiệu đã từng được biết đến và chiếm được sự tín nhiệm của người tiêu dùng. Nhãn
hiệu liên kết cũng hạn chế tối đa việc các chủ sở hữu sản xuất kinh doanh khác lợi
dụng uy tín của nhãn hiệu mà đăng ký nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn cho người
tiêu dùng và thiệt hại cho chủ nhãn hiệu. Trên thị trường, chúng ta có thể thấy nhiều
nhãn hiệu liên kết, ví dụ như: Toyota camry 2.4; Toyota Corolla Altis; Toyota Land
Cruiser Prado... Đây được coi là nhãn hiệu liên kết, do công ty Toyota Việt Nam
đăng ký cho các sản phẩm cùng loại là ô tô.
1.2. Lý luận giải quyết tranh chấp nhãn hiệu
1.2.1. Khái quát về tranh chấp nhãn hiệu
Việc tìm hiểu khái niệm tranh chấp nhãn hiệu có vai trò quan trọng trong
việc định dạng, phân loại tranh chấp để từ đó lựa chọn phương thức giải quyết tranh
15


chấp nhãn hiệu cho phù hợp. Do đó, việc xác định khái niệm tranh chấp nhãn hiệu
sẽ phụ thuộc vào hai yếu tố: (i) Bản chất pháp lý của nhãn hiệu; và (ii) Tính chất
của luật điều chỉnh nhãn hiệu.
Nhãn hiệu là tài sản vô hình, tuy nhiên nhãn hiệu vẫn có đặc tính của “vật
quyền”, đó là quyền loại trừ. Trong cuốn “Hết quyền đối với nhãn hiệu trong pháp
luật, thực tiễn quốc tế và Việt Nam”, tác giả Nguyễn Như Quỳnh viết: “Nhãn hiệu
trao cho chủ sở hữu nhãn hiệu quyền ngăn chặn các chủ thể khác sao chép sản phẩm
mang nhãn hiệu được bảo hộ, đặc biệt quyền ngăn cấm chủ thể khác sử dụng nhãn
hiệu không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu”8.
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam quan niệm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các
quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, quyền tài sản của chủ sở hữu quyền
tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và giống cây trồng. Theo quy định tại Điều 20
LSHTT, quyền tài sản của quyền tác giả gồm các quyền: Làm tác phẩm phái sinh;
biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm ... Ngoài các quyền tài sản,
tác giả còn có quyền nhân thân được quy định tại Điều 19 LSHTT (đặt tên tác

phẩm, đứng tên ...). Đối với quyền sở hữu công nghiệp, tác giả các đối tượng của
quyền sở hữu công nghiệp có các quyền như quyền được ghi tên trong các văn bằng
bảo hộ, quyền được hưởng thù lao đối với các đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp mà mình là tác giả ...
Điều 4 LSHTT quy định:“Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân
đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng".
Theo Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), tài sản trí tuệ bao gồm các đối
tượng được tạo ra bởi “trí tuệ” của con người như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn ... Các đối tượng này được coi là tài sản bởi
chúng có thể sinh lời, chính khả năng mang lại lợi ích vật chất của các đối tượng
này đã quyết định chúng là tài sản và được coi là tài sản trí tuệ. Giá trị của tài sản trí
tuệ được xác định bởi tính chất, đặc điểm, chức năng ... và nhu cầu của thị trường
trong từng thời điểm nhất định.
Nguyễn Như Quỳnh (2012), “Hết quyền đối với nhãn hiệu trong pháp luật, thực tiễn quốc tế và Việt Nam”,
Nxb Chính trị QUốc gia, Hà Nội, trang 88.

8

16


Tài sản trí tuệ được quy định tại khoản 1 Điều 4 LSHTT. Tuy nhiên, khái
niệm về tài sản trí tuệ với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu chưa được cụ thể
hoá trong BLDS. Điều 163 BLDS quy định về các loại tài sản trong đó có quyền tài
sản. Điều 181 BLDS quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và
có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.
Như vậy, theo quy định của BLDS, quyền sở hữu trí tuệ với tư cách là bộ
phận của quyền sở hữu tài sản là quyền khai thác thương mại các đối tượng sở hữu
trí tuệ, quyền khai thác này được trị giá bằng tiền. Từ các quy định của LSHTT và

BLDS có thể đưa ra khái niệm về tài sản trí tuệ như sau:
Tài sản trí tuệ là đối tượng của quyền sở hữu là kết quả của hoạt động sáng
tạo của cá nhân được thể hiện dưới một hình thức khách quan, khi khai thác, sử
dụng sẽ đem lại cho chủ sở hữu những lợi ích vật chất trị giá được bằng tiền.
Quyền sở hữu trí tuệ với tư cách là một quyền dân sự của cá nhân, tổ chức,
bao gồm quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với các sản phẩm trí tuệ (tài sản trí
tuệ), đó là kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo được thể hiện bằng các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí,
giống cây trồng và các đối tượng khác khi khai thác thương mại sẽ đem lại cho chủ
sở hữu giá trị kinh tế nhất định.
Tùy theo quyền được thiết lập trên từng đối tượng, pháp luật đặt ra quy chế
khác nhau cho việc bảo hộ, bắt đầu từ thời điểm xác lập quyền. Đăng ký là một căn
cứ rõ ràng nhất và chắc chắn nhất đối với việc xác định quyền sở hữu trí tuệ phát
sinh. Vì vậy, việc bảo hộ nhãn hiệu chỉ có được thông qua đăng ký, trừ nhãn hiệu
nổi tiếng. Pháp luật các nước đều có quy định về đăng ký nhãn hiệu, đăng ký nhãn
hiệu có giá trị làm phát sinh quyền loại trừ. Đây là hiệu lực chủ yếu và quan trọng
nhất của đăng ký. Đạo luật về nhãn hiệu của Ấn Độ năm 1999 quy định: “Phụ thuộc
vào các quy định khác của Đạo luật này, đăng ký nhãn hiệu, nếu có giá trị, ban cho
chủ sở hữu nhãn hiệu quyền loại trừ đối với việc sử dụng nhãn hiệu liên hệ tới hàng
hóa hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu đã được đăng ký và ngăn cản sự vi phạm nhãn hiệu
theo cách thức quy định trong Đạo luật này” (Điều 28)9.
9

Đạo luật về nhãn hiệu của Ấn Độ năm 1999

17


Xuất phát từ việc tiếp cận tranh chấp nhãn hiệu xảy ra trên thực tế, có thể đưa
ra khái niệm tranh chấp nhãn hiệu như sau:

“Tranh chấp nhãn hiệu được hiểu là những mâu thuẫn, bất hòa và xung đột về
quyền và lợi ích giữa hai hay nhiều chủ thể liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ đối
với một hoặc nhiều nhãn hiệu phát sinh trong quá trình đăng ký và/ hoặc sử dụng
nhãn hiệu đó, mà một hoặc nhiều bên cho rằng việc đăng ký và/ hoặc sử dụng nhãn
hiệu của một tổ chức, cá nhân khác ảnh hưởng hoặc xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của mình”.
Để đánh giá mức độ xung đột giữa các nhãn hiệu từ đó rút ra được mức độ
ảnh hưởng, xâm phạm đối với nhãn hiệu khác, cần đánh giá xem xét mức độ trùng
hoặc tương tự giữa các nhãn hiệu tranh chấp theo hai phương diện chính của nhãn
hiệu đó là dấu hiệu và sản phẩm dịch vụ được gắn dấu hiệu đó. Đồng thời, một cơ
sở quan trọng không kém khi xem xét một tranh chấp nhãn hiệu đó là nhận thức của
người tiêu dùng về việc phân biệt được các nhãn hiệu khác nhau của các tổ chức
khác nhau (ví dụ đối với nhãn hiệu nổi tiếng, được biết đến rộng rãi thì khó nhầm
lẫn hơn những nhãn hiệu mới, chưa được biết đến rộng rãi).
Tranh chấp nhãn hiệu có các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, tranh chấp nhãn hiệu không phải lúc nào cũng xảy ra do chủ ý xâm
phạm quyền sở hữu nhãn hiệu của một bên đối với bên kia mà những xung đột về
quyền và nghĩa vụ đối với nhãn hiệu có thể xảy ra do những thực tế khách quan khác.
- Thứ hai, tranh chấp nhãn hiệu có tính “đa quốc gia” và có thể phát sinh từ
các mối quan hệ trải rộng trên nhiều quốc gia khác nhau, do các chủ thể có quốc
tịch khác nhau, địa điểm xảy ra tranh chấp có thể cùng một lúc tại nhiều vùng trên
thế giới.
- Thứ ba, tranh chấp quyền sở hữu nhãn hiệu nhằm xác định một nhãn hiệu
thuộc quyền sở hữu của một người nhất định, đồng thời loại trừ quyền sở hữu nhãn
hiệu này ở các chủ thể khác, hoặc loại trừ quyền sở hữu một nhãn hiệu tương tự gây
nhầm lẫn đối với nhãn hiệu của mình ở một chủ thể khác.
- Thứ tư, tranh chấp một nhãn hiệu có thể xảy ra đồng thời giữa nhiều chủ
thể, thường là các đối thủ cạnh tranh trong cùng một lĩnh vực.
18



1.2.2. Phân loại các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu
Pháp luật Việt Nam coi tranh chấp nhãn hiệu là tranh chấp dân sự (Khoản 4,
Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Các tranh chấp này không có các phương
thức giải quyết ngoài tòa án phong phú và đa dạng, linh hoạt như giải quyết các tranh
chấp thương mại. Chúng tôi cho rằng tranh chấp về nhãn hiệu thực chất là tranh chấp
về quyền sở hữu. Tuy nhiên, Bộ luật TTDS năm 2015 có sự phân biệt tranh chấp
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ và các tranh chấp về quyền sở hữu tài
sản nói chung. Đối với tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ - do
xác định các tranh chấp này liên quan đến mục đích thương mại, lợi nhuận nên Bộ
luật TTDS năm 2015 coi đây là các tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, việc tranh
chấp liên quan tới vi phạm nhãn hiệu như đã phân tích, khó có thể xác định được
tranh chấp nào liên quan đến mục tiêu lợi nhuận và tranh chấp nào không liên quan
đến mục tiêu không lợi nhuận. Suy cho đến cùng, nhãn hiệu liên quan đến chỉ dẫn
thương mại, liên quan đến hoạt động kinh doanh và cạnh tranh nên việc xác định có
hay không liên quan đến mục tiêu lợi nhuận không phải là yếu tố quan trọng để xác
định tính chất thương mại hay dân sự của tranh chấp nhãn hiệu. Do đó, trên thế giới,
ngoài các phương thức giải quyết nhãn hiệu thông qua nhà nước còn có các phương
thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu không thông qua nhà nước.
Trên thế giới, hiện nay tồn tại một số phương thức giải quyết tranh chấp nhãn
hiệu bằng các cơ quan Nhà nước mà thường được gọi là các biện pháp thực thi
quyền sở hữu trí tuệ (enforcement of intellectual property rights). Các biện pháp này
bao gồm: biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện pháp dân sự và kiểm soát
biên giới. Mỗi biện pháp có cách thức tác động riêng và có chế tào đặc trưng đối với
các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Biện pháp hành chính và biện pháp kiểm
soát biên giới được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, còn các biện pháp hình sự
và biện pháp dân sự được thực hiện bởi cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, việc tổ chức
thực thi các biện pháp này lệ thuộc vào pháp luật và cơ cấu tổ chức bộ máy nhà
nước của từng quốc gia.
Bên cạnh các phương thức này còn có nhiều phương thức giải quyết tranh

chấp khác ngoài tòa án được sử dụng. Trên thực tế, Hoa Kỳ là quốc gia có nhiều
19


×