Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án từ thực tiễn tại tòa án nhân dân quận hải an, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA
ÁN TỪ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

NGUYỄN VĂN MẠNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN CẢNH

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA
ÁN TỪ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
NGUYỄN VĂN MẠNH

HÀ NỘI – 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và luận văn là sản
phẩm của nghiên cứu cá nhân của tôi, không sao chép của bất cứ ai. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực
hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn
gốc và được phép công bố.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình!
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2017
Tác giả

NGUYỄN VĂN MẠNH


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Cảnh – người Thầy đã giúp
đỡ tận tình trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Đảng ủy Ban giám hiệu Viện Đại học Mở Hà Nội, Ban chủ
nhiệm Khoa Sau đại học cùng các cán bộ giảng viên trong khoa đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và thực thiện luận văn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2017
Tác giả

NGUYỄN VĂN MẠNH


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC SƠ ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP TRONG
THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN

8

1.1.Tranh chấp trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại

8

1.1.1.Tranh chấp trongthương mại

8

1.1.2.Giải quyết tranh chấp trong thương mại

13

1.1.3. Đánh giá tác động của giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Tòa án 21
1.2. Cơ sở pháp lý của giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Tòa án

23

1.2.1. Pháp luật nội dung giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Tòa án

23

1.2.2. Pháp luật tố tụng giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Tòa án


29

1.2.3. Mối quan hệ pháp luật nội dung và pháp luật hình thức giải quyết tranh
chấp trong thương mại

43

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

45

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
TRONG THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
46
2.1. Tình hình phát sinh tranh chấp trong thương mại trên địa bàn quận Hải An,
thành phố Hải Phòng
46
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế quận Hải An, thành phố Hải Phòng

47

2.1.2. Thực trạng tranh chấp trong thương mại trên địa bàn quận Hải An, thành
phố Hải Phòng
50
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật và giải quyết các tranh chấp trong thương mại
tại Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng
61
2.2.1. Một số vấn đề về công tác giải quyết, xét xử án thương mại tại Tòa án

nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng

61

2.2.2. Những thành tích đạt được và ưu điểm trong hoạt động giải quyết tranh
chấp trong thương mại tại tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng 64


2.2.3. Những khuyết điểm, tồn tại trong hoạt động giải quyết tranh chấp trong
thương mại tại Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng

66

2.2.4. Đánh giá chung về các ưu, khuyết điểm trong hoạt động giải quyết tranh
chấp trong thương mại tại Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng 71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

74

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
75
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thương mại

75

3.1.1. Hoàn thiện về pháp luật nội dung

75


3.1.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng

77

3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân quận Hải An và tăng
cường hiểu biết pháp luật của người dân
83
3.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành Tòa án nói chung và Tòa án
nhân dân quận Hải An nói riêng

85

3.2.2. Thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân quận
Hải An

92

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

95

KẾT LUẬN

97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

BLDS:

Bộ luật dân sự

TAND

:

TNHH :
UBND

Tòa án nhân dân
Trách nhiệm hữu hạn

:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số hiệu
Bảng 1.1

Bảng 2.1

Tên bảng
Thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo cấp
Số liệu giải quyết án kinh doanh thương mại của Tòa án
nhân dân quận Hải An từ năm 2012 đến năm 2017

Trang
31
62


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu
Sơ đồ 1.1
Sơ đồ 1.2

Tên sơ đồ
Thẩm quyền giải quyết các vụ việc về thương mại của Tòa
án
Quá trình tố tụng của vụ án tranh chấp thương mại tại Tòa án

Trang
30
39


PHẦN MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của đề tài
Theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

(bổ sung, phát triển năm 2011) và chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2010
– 2020 được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI thông qua năm 2011, để
hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, một trong những yêu cầu cấp thiết
đối với nước ta là cải cách hành chính và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
cũng như xây dựng một hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động đầu tư, kinh
doanh.
Trong những năm gần đây, khi cả thế giới và Việt Nam đang làm quen và dần
bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 – một cuộc cách mạng hứa hẹn sẽ làm
thay đổi bộ mặt nền kinh tế một cách toàn diện, bởi lẽ cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 bắt nguồn từ việc xuất hiện các cách thức sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ
mới cũng như việc xuất hiện những phương thức, cách thức kết nối các chuỗi sản
xuất thông qua robot hoặc hệ thống mạng không dây,.. Do đó, có thể dễ dàng nhận
thấy rằng các tranh chấp thương mại sẽ ngày càng gia tăng và phức tạp, khó lường
hơn.
Trên thực tế, các tranh chấp thương mại ở Việt Nam hầu hết đều được lựa chọn
giải quyết bằng con đường Tòa án, các bên tham gia hoạt động kinh doanh thương
mại khi giao kết hợp đồng thương mại thường không biết và nêu quy định lựa chọn
trọng tài trong hợp đồng nhưng không chỉ định tổ chức trọng tài hoặc trọng tài viên
cụ thể nên khi xảy ra tranh chấp không được áp dụng thủ tục này nên việc lựa chọn
ưu tiên giải quyết tranh chấp thương mại bằng thủ tục Tòa án là giải pháp hiệu quả
nhất. Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm bằng việc giải quyết tranh chấp thông qua con
đường Tòa án thì cũng không ít những nhược điểm của phương thức này khiến các
doanh nghiệp băn khoăn khi lựa chọn giải quyết tại Tòa án như: thủ tục phức tạp,
rườm rà hay thời gian giải quyết kéo dài, việc bảo mật thông tin không được đảm
bảo. Tuy nhiên, Tòa án là cơ quan tài phán quốc gia, mang tính cưỡng chế nghiêm

1



minh nên việc lựa chọn Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
thương mại vẫn là lựa chọn an toàn cho các doanh nghiệp.
Theo số liệu đánh giá của ngành Tòa án, hàng năm mỗi đơn vị Tòa án cấp quận
huyện nói chung và của quận Hải An, TP. Hải Phòng nói riêngđã thụ lý hàng trăm vụ
án lớn nhỏ liên quan đến tranh chấp trong thương mại. Hầu hết là các tranh chấp từ
hợp đồng mua bán hàng hóa, tranh chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng
dịch vụ, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán…Sự gia tăng của các tranh chấp
trong thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, đòi hỏi sự không ngừng nghiên
cứuđể hoàn thiện các quy định luật pháp, cũng như công tác chuyên môn trong lĩnh
vực giải quyết tranh chấp trong thương mại tại các tòa án nói chung, Tòa án nhân dân
Quận Hải An nói riêng nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên là việc làm cần thiết
hiện nay. Đây cung là lý do để học viên mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận
Hải An, thành phố Hải Phòng” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học,
chuyên ngành Luật Kinh tế.
2.

Tình hình nghiên cứu
Các vấn đề liên quan đến các tranh chấp kinh doanh và thương mại cũng như

việc giải quyết các tranh chấp này luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà quản
lý, các nhà khoa học. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau về các khía cạnh pháp lý liên quan đến tranh chấp kinh tế,thương mại tại Tòa
án. Từ những năm 90, để chuẩn bị cho thành lập Tòa án kinh tế nhiều đề tài nghiên
cứu về mô hình tổ chức Tòa kinh tế và tố tụng kinh tế đã được thực hiện như chuyên
đề "Tòa án kinh tế" của Bộ Tư pháp, đề tài "Mô hình tổ chức giải quyết tranh chấp
kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của Trọng tài kinh tế Nhà nước, Dự án
VIE/94/003 "Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam" của Bộ Tư pháp có phần

nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế; Đề tài khoa học cấp bộ do Tòa
án nhân dân tối cao chủ trì năm 2001 "Tính đặc thù trong thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế, lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn".

2


Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các bài viết nghiên cứu có đề cập đến vấn đề này,
có thể kể tên như “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế
bằng Tòa án và Trọng tài” của GS.TSKH Đào Trí Úc; "Về cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay" của PGS.TS Phạm Hữu Nghị;
“Tăng cường vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế" của TS.
Phan Chí Hiếu; “Giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án Việt Nam” của tác giả Đinh
Ngọc Hiện trong Chuyên đề các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt
Nam, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Thông tin khoa học pháp lý số
5.
Ngoài ra, cũng có một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ cũng đề cập đến các
nội dung nhất định của việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án như Luận văn
Thạc sĩ của Trần Thị Như Mơ về “Giải quyết các tranh chấp thương mại theo pháp
luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” năm 2016; Luận văn Thạc sĩ của
Võ Thị Ngọc Quyền “Giai đoạn chuẩn bị xét xử trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại” năm 2016; Luận án Tiến sĩ của Đặng Thanh Hoa về “Thủ tục
rút gọn giải quyết tranh chấp thương mại trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”
năm 2015; Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Văn Hợp “Lý luận và thực tiễn giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án” năm 2015; Luận văn Thạc sĩ của
Tăng Thị Nhớ “Hoàn thiện thủ tục pháp lý về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Tòa án” năm 2014; Luận văn Thạc sĩ của Đinh Thị
Trang “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục tố
tụng tòa án ở Việt Nam hiện nay” năm 2013; Luận văn Thạc sĩ “Thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện

nay” năm 2013; Luận văn Thạc sĩ của Võ Quốc Hùng “Giải quyết tranh chấp
thương mại bằng Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp ở Việt Nam” năm 2005.
Có thể thấy, giải quyết các tranh chấp trong thương mại tại Tòa án nhận được
rất nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu, các công trình của các tác giả đi trước là
nền tảng lý luận quan trọng cho học viên tiếp tục nghiên cứu, thực hiện Luận văn
thạc sĩ luật học của mình. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đa phần đều chỉ

3


dừng lại ở việc đưa ra những nhận định so sánh các phương thức giải quyết loại hình
tranh chấp trong thương mại, hoặc phân tích một giai đoạn của quá trình giải quyết
tranh chấp trong thương mại tại Tòa án, hoặc là nghiên cứu theo hướng lý luận, chưa
chỉ rõ các hoạt động áp thực tiễn áp dụng cũng như nghiên cứu một cách toàn diện
và tổng thể quá trình giải quyết các tranh chấp trong thương mại tại Tòa án. Hơn nữa,
trong giai đoạn hiện nay – là bước chuyển giao của nhiều Bộ luật, luật quan trọng,
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang ngày ngày được đặt ra, đòi hỏi nhu cầu tiếp
tục nghiên cứu và đưa ra những đường hướng giải quyết cho những vấn đề đó để phù
hợp và cập nhật với pháp luật hiện hành cũng như tạo cơ chế ổn định, hợp lý và
thống nhất trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
Chính vì vậy, từ những quan điểm và kiến thức đúc rút được của các tác giả đi
trước trong vấn đề này, tác giả mong muốn được tiếp tục nghiên cứu một cách hệ
thống để làm rõ những vấn đề còn bỏ ngỏ cũng như đánh giá và phân tích chuyên sâu
về thực tiễn giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án quận Hải An, thành phố
Hải Phòng. Từ đó, tác giả hy vọng sẽ có thể có được cái nhìn bao quát và chân thực
hơn đối với việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án và đưa ra được những
giải pháp hữu ích nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động thiết
thực của Tòa án quận Hải An nói riêng và hệ thống Tòa án tại Việt Nam nói chung.
3.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giải

quyết các tranh chấp trong thương mại; trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng
và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án
nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được học viên xác
định cụ thể như sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận của tranh chấp thương mại và giải quyết
các tranh chấp đó; đánh giá các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại đang được

4


sử dụng hiện nay, chỉ ra các ưu điểm và nhược điểm của từng phương thức giải quyết
tranh chấp cũng như mối liên hệ giữa chúng với nhau.
Thứ hai, đánh giá thực trạng giải quyết các tranh chấp ở Tòa án quận Hải An,
Hải Phòng trong thời gian qua. Từ đó chỉ rõ các bất cập trong các quy định pháp luật
hiện hành về tổ chức và hoạt động của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp
thương mại hiện nay.
Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết
các tranh chấp thương mại cũng như các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án quận Hải An nói riêng và hệ thống tòa án
Việt Nam nói chung.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh


chấp thương mại và pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thương mại, cụ thể gồm:
- Các quy định pháp luật về giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án;
- Các bản án, quyết định đã được xét xử tại Tòa án nhân dân quận Hải An,
thành phố Hải Phòng về giải quyết tranh chấp thương mại từ năm 2015 đến nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Việc giải quyết tranh chấp thương mại được thực hiện bởi rất nhiều các cơ
quan, tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả sẽ tập trung
nghiên cứu quá trình giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Tòa án.
- Về không gian:
Trong phạm vi của luận văn, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu và đánh giá hoạt động
giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại cảu ngành tòa án nói chung
vàcủa Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng nói riêng.

5


- Về thời gian:
Việc nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở thực tiễn từ các số liệu và Bản
án thu thập được tại Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng từ năm
2012 đến năm 2017. Khi nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan đến tranh chấp
thương mại, với văn bản cũ nhất có giá trị pháp lý từ năm 1997 đến những văn bản
mới được ban hành.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy

vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp
luật; dựa trên việc sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp...

để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài:
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng trong tất cả các chương để phân tích,
đánh giá các tài liệu, số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu;
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh, đối chiếu, đánh giá các quy
định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án với các phương thức
giải quyết tranh chấp khác, từ đó rút ra các ưu, nhược điểm của các phương thức giải
quyết này, tạo có cơ sở để hoàn thiện hơn về pháp luật và nâng cao hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án ở Việt Nam.
- Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn: Được sử dụng ở tất cả các chương
của Luận văn. Cụ thể, tác giả đã sử dụng lý luận về quy trình lập pháp, thực tiễn
pháp luật ở Việt Nam để phân tích, đánh giá và từ đó khái quát lên thành vấn đề có
tính lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án (CHƯƠNG 1). Kết hợp
lý luận và thực tiễn quá trình giải quyết tranh chấp thương mại tại quận Hải An, tác
giả đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết loại tranh chấp này trên thực
tiễn tại Tòa án quận Hải An, thành phố Hải Phòng và góp phần hoàn thiện hệ thống
lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án ở Việt Nam nói chung
(CHƯƠNG 2, III).
6.

Kết cấu của luận văn
6


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm
ba chương, đó là:
CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp trong thương mại và pháp
luật giải quyết tranh chấp trongthương mại tại Tòa án
CHƯƠNG 2: Thực trạng giải quyết các tranh chấp trong thương mại tại Tòa án
nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng
CHƯƠNG 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp

trong thương mại tại Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

7


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP TRONG
THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
1.1. Tranh chấp trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại
1.1.1. Tranh chấp trongthương mại
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp trongthương mại
Theo cách hiểu thông thường, tranh chấp phát sinh khi có mâu thuẫn, bất đồng
giữa các bên trong một quan hệ nào đó mà họ tham gia, thông thường tranh chấp liên
quan đến quyền và lợi ích [31]. Trên thực tế, với quá trình phát triển vô cùng đa dạng
của đời sống, ngày càng nhiều các quan hệ kinh tế xã hội nảy sinh kéo theo đó là các
tranh chấp cũng gia tăng đáng kể. Nhà nước trong quá trình quản lý xã hội của mình
phải đưa ra những chế định để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội và đáp ứng
được nhu cầu giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách công bằng và hợp lý nhất.
Những tranh chấp này nảy sinh từ rất nhiều các quan hệ xã hội khác nhau nên đối với
mỗi loại hình tranh chấp, chúng chịu sự điều chỉnh của các ngành luật đặc thù liên
quan đến nó. Ví dụ như các tranh chấp nuôi con, về cấp dưỡng là những tranh chấp
phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân gia đình và chịu sự điều chỉnh của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014; về thừa kế tài sản, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các
tranh chấp liên quan khác chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự năm 2015.
Tranh chấp kinh tế, nếu hiểu theo nghĩa rộng, có thể hiểu là những tranh chấp
có liên quan đến lợi ích kinh tế của các bên như tranh chấp về tài sản trong quá trình
ly hôn; tranh chấp về tiền lương giữa người lao động và người sử dụng lao động;
tranh chấp về quyền sở hữu tài sản. Có thể thấy, một đặc trưng của các tranh chấp
kinh tế theo nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ này có thể vì mục
đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc không. Tuy nhiên, trong phạm vi hẹp, tranh chấp kinh

tế được hiểu là những tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận trong lĩnh vực kinh tế. Đối với vấn đề này, pháp luật nước ta qua các thời kỳ
có những quy định khác nhau với xu hướng là ngày càng mở rộng nội hàm của nội
dung tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế. Thuật ngữ “tranh chấp kinh tế” được sử dụng

8


khá phổ biến trong nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây và được ghi nhận trong Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994.
Tiếp đó, thuật ngữ “tranh chấp thương mại” ra đời và được ghi nhận lần đầu
trong Luật thương mại năm 1997 [33, tr.5]. Với nội hàm khá hẹp, tranh chấp thương
mại được quy định tại Điều 238 là các “tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại” [7]. Có thể thấy,
với quy định như vậy, các tranh chấp thương mại sẽ bị bó hẹp trong khuôn khổ các
tranh chấp phát sinh từ quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện hợp
đồng thương mại. Song trong nền kinh tế thị trường mở cửa và nhiều thành phần
kinh tế hiện nay, tranh chấp kinh tế không chỉ đơn thuần là tranh chấp về hợp đồng,
mà còn nhiều loại tranh chấp khác, phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh
như: tranh chấp giữa công ty và các thành viên công ty; giữa các thành viên công ty
với nhau, các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu, thương mại
dịch vụ, đầu tư và các tranh chấp về sở hữu trí tuệ…
Một trong những dấu mốc quan trọng đánh dấu sự mở rộng về nội hàm của
thuật ngữ thương mại và tranh chấp thương mại đó chính là việc Việt Nam tham gia
ký kết hiệp định thương mại với Hoa Kỳ vào ngày 13/7/2000. Theo đó, tại Khoản 4,
Điều 9 CHƯƠNG 1 của Hiệp định đã đưa ra khái niệm “tranh chấp thương mại là
tranh chấp phát sinh giữa các bên trong giao dịch thương mại” với giao dịch thương
mại bao gồm các hoạt động thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ quyền sở hữu
trí tuệ và các hoạt động trong lĩnh vực đầu tư [27]. Tiếp đó, quan niệm này đã được
kế tục trong các văn bản quy phạm pháp luật sau này như Pháp lệnh trọng tài năm

2003, Luật thương mại năm 2005.
Thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh,thương mại” xuất hiện trong Điều 29 của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và tiếp tục được giữ nguyên trong lần sửa đổi vào
năm 2011 với việc liệt các nhóm tranh chấp trong hoạt động thương mại bao gồm:
(1) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (bao
gồm: Mua bán hàng hóa; Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi;

9


Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng; Tư vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hóa, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy
tờ có giá khác; Đầu tư tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác).
(2) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
(3) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
(4) Các tranh chấp khác về thương mại mà pháp luật có quy định.
Với việc xuất phát từ các hoạt động và hành vi thương mại, để hiểu rõ nội hàm
của các tranh chấp trong thương mại thì ta phải hiểu rõ được về các hoạt động
thương mại là như thế nào. Theo đó, tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 có
quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác.”
Nội hàm khái niệm này đã được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
tổng kết đưa vào Nghị quyết số 03/3012/NQ-HĐTP để hướng dẫn thi hành một số
nội dung của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011. Theo đó, “hoạt động kinh
doanh, thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng

hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại. Hoạt động kinh doanh,
thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại
mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh, thương mại”. Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt
động kinh doanh, thương mạiđược hướng dẫn cụ thể là “mong muốn của cá nhân, tổ
chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi
nhuận từ hoạt động thương mại đó.”
Tiếp đó, để hoàn chỉnh hơn về các hoạt động thương mại tạo cơ sở để giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

10


tiếp thu những quan điểm tích cực từ Bộ luật cũ sửa đổi năm 2011 về các hoạt động
kinh doanh, thương mại mà có phát sinh tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án. Bộ luật tố tụng dân sự mới đã sửa đổi và bổ sung một số điều khoản như loại
bỏ phần liệt kê về các hoạt động phát sinh trong hoạt động thương mại của các chủ
thể có đăng ký kinh doanh và vì mục tiêu lợi nhuận tại Khoản 1 để tạo sự linh hoạt
cho pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc trên thực tiễn. Ngoài ra, Bộ luật
mới cũng bổ sung thêm các hoạt động giữa người chưa phải là thành viên công ty
nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty
tại Khoản 3 Điều 30; giữa công ty với người quản lý trong công ty TNHH hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần tại Khoản 4
Điều 30 [4].
Có thể thấy, với nội hàm của hoạt động trong lĩnh vực thương mại như vậy,
pháp luật Việt Nam đã thể hiện sự tiệm cận hơn với pháp luật quốc tế, đặc biệt là với
các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển.Điều này không chỉ làm mở rộng,
bao quát được bản chất của các loại tranh chấp phát sinh trong điều kiện kinh tế hiện
nay mà còn thể hiện sự phù hợp với pháp luật quốc tế hiện đại.

Đơn cử như ở Anh nói riêng và cộng đồng Anh ngữ nói chung, thuật ngữ
"Commerce" không đồng nhất với "trade", mà nó bao gồm cả "trade", "bank",
"insurrance", "transport",... hay nói một cách khác thương mại bao gồm cả việc mua,
bán, các sản phẩm vô hình có tính chất đặc thù khác. Hoạt động thương mại là hoạt
động "thường xuyên, độc lập và mưu cầu lợi nhuận", và theo luật thương mại của
Pháp, hoạt động thương mại bao gồm: Mua bán động sản với mục đích bán lại để
kiếm lời; Hoạt động trung gian trong việc mua bán động sản và bất động sản; Cho
thuê động sản và bất động sản; Chế tạo và chuyên chở; Hoạt động đổi tiền và ngân
hàng; Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp [34].
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: Tranh chấp trong thương mại là
những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại
hoặc có liên quan đến lĩnh vực thương mại mà trong đó, một hoặc các bên cho rằng

11


quyền hoặc nghĩa vụ của mình bị xâm phạm và yêu cầu bên còn lại thực hiện trách
nhiệm nhưng bên còn lại không chấp nhận yêu cầu đó.
Hiện nay, có rất nhiều các thuật ngữ pháp lý khác nhau để chỉ các tranh chấp
phát sinh trong thương mại. Tuy nhiên, trong phạm vi của Luận văn, tác giả sẽ sử
dụng thuật ngữ “tranh chấp trong thương mại” để luận văn có tính thống nhất và
phù hợp với Luật thương mại năm 2005.
1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp trong thương mại
Thứ nhất, chủ thể chủ yếu của tranh chấp trong thương mại là thương nhân
Tranh chấp trong thương mại diễn ra chủ yếu giữa các thương nhân với nhau.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân
cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại. Điều này xuất phát từ đặc điểm
của từng mối quan hệ thương mại cụ thể [32]. Có mối quan hệ thương mại phải được
giao kết giữa các thương nhân với nhau, tuy nhiên cũng có những mối quan hệ
thương mại có thể được giao kết giữa thương nhân với cá nhân, tổ chức không phải

là thương nhân cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại như tranh chấp giữa
công ty và thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách công ty; … như
theo quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp trong thương mại là hành vi vi phạm
hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật
Trong nhiều trường hợp, tranh chấp trong thương mại phát sinh do các bên có
vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi
phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Nội dung
của tranh chấp trong thương mại là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của
các bên trong hoạt động thương mại. Các quan hệ thương mại có bản chất là các
quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế
của các bên. Ngoài ra, tranh chấp trong thương mại còn chịu chi phối của các yếu tố

12


cơ bản của hoạt động này như: mục đích sinh lợi, các yêu cầu về thời cơ kinh doanh
và yêu cầu giữ bí mật thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, có thể lựa chọn nhiều phương thức giải quyết tranh chấp
Tranh chấp trong thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ
quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, góp phần ngăn ngừa sự vi
phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã
hội. Hiện nay tranh chấp trong thương mại được giải quyết bằng các phương thức
khác nhau như: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án. Mỗi phương
thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành.
Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà
mỗi phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung
tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.
1.1.2. Giải quyết tranh chấp trong thương mại

1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp trong thương mại
Giải quyết tranh chấp trong thương mại chính là đưa ra các biện pháp để làm
hài hòa những bất đồng lợi ích giữa các bên, hoặc tạo ra phương án phù hợp nhất để
các bên có thể tiếp tục hoạt động thương mại một cách bình thường, ổn định [33, tr.
12].
Giải quyết tranh chấp trong thương mại về mặt pháp lý chính là việc cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền xem xét và ra quyết định xử lý các tranh chấp trong thương
mại trên cơ sở xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong vụ việc tranh chấp nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày
01/07/2016 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc giải
quyết các vụ việc liên quan đến thương mại bao gồm: giải quyết các tranh chấp về
thương mại (quy định tại Điều 30) và giải quyết các yêu cầu về thương mại (quy định
tại Điều 31). Trong phạm vi của Luận văn, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu hoạt động
giải quyết các tranh chấp trong thương mại theo quy định tại Điều 30 của Bộ luật.

13


1.1.2.2. Bản chất của việc giải quyết tranh chấp trong thương mại
Bản chất của việc giải quyết tranh chấp trong thương mại là đưa ra các giải
pháp hoặc chế tài nhằm hóa giải tranh chấp giữa các bên. Các giải pháp và chế tài
này rất đa dạng và các bên có thể thỏa thuận lựa chọn cách thực phù hợp nhất với
mục đích của mình.
Khác với tranh chấp dân sự, các bên trong tranh chấp thương mại không phải
lúc nào cũng khởi kiện với mục đích đi tìm công lý thông qua việc chứng minh bên
mình đúng, bên kia sai mà đôi khi các bên trong tranh chấp với mục đích mong
muốn bên kia tiếp tục thực hiện hợp đồng, bù đắp một khoản vật chất do việc thực
hiện không đúng hoặc không thực hiện hợp đồng của bên kia gây ra. Bởi lẽ, hoạt
động kinh doanh, thương mại cần được diễn ra liên tục, nhanh chóng và không gián

đoạn trong một khoảng thời gian nhất định. Việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng có
thể gây ra hậu quả rất lớn về mặt kinh tế.
Chính vì vậy, các tranh chấp trong thương mại có thể lựa chọn nhiều phương
thức giải quyết khác ngoài Tòa án, đặc biệt là giải quyết bằng trọng tài thương mại là
do xuất phát từ những yêu cầu liên quan mật thiết đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các bên đương sự, bao gồm:
(1) Nhanh chóng và dứt khoát hạn chế tối đa sự gián đoạn của quá trình sản
xuất kinh doanh.
(2) Đảm bảo dân chủ trong quá trình giải quyết tranh chấp
(3) Bảo vệ uy tín của các bên trên thương trường
(4) Đảm bảo các yếu tố bí mật trong kinh doanh
(5) Đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp
pháp của các bên.
Thuật ngữ “giải quyết tranh chấp trong thương mại” được đề cập và ghi nhận
tại Mục 2, Chương VII Luật thương mại năm 2005. Khác với Luật thương mại năm
1997, Luật thương mại năm 2005 có sự thay đổi về thuật ngữ, không còn sử dụng
thuật ngữ “giải quyết tranh chấp thương mại” nữa mà thay vào đó, Luật thống nhất
sử dụng thuật ngữ “giải quyết tranh chấp trong thương mại”. Ngoài ra, để quá trình

14


giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực này được linh hoạt hơn, Luật thương mại
2005 không đưa ra định nghĩa nào cụ thể cho các tranh chấp thương mại như quy
định tại Điều 238 Luật thương mại năm 1997. Việc này tạo điều kiện rất nhiều cho
các Tòa án trong quá trình giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại, mở
rộng phạm vi xét xử cho các Tòa án cũng như hạn chế được việc nảy sinh mâu thuẫn
về nội hàm giữa các thuật ngữ được sử dụng tại các văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau.
1.1.2.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại

Thứ nhất, phương thức giải quyết bằng thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án, trong đó các
bên của tranh chấp tự mình gặp nhau để trao đổi, thỏa thuận về xung đột, tranh chấp
giữa họ. Thương lượng có thể được thực hiện dưới bất ký hình thức nào, từ gặp mặt
trực tiếp cho đến hình thức văn bản và cả các thông điệp dữ liệu điện tử. Đây là
phương thức thường được sử dụng để giải quyết những tranh chấp trong thương mại
giúp các bên có thể trao đổi, cung cấp thông tin cho nhau nhằm mục đích giúp các
bên hiểu nhau hơn, qua đó các bên có thể xóa bỏ những hiểu nhầm, mâu thuẫn hoặc
đơn giản hơn là tiếp tục thực hiện những hợp đồng hoặc cùng nhau khắc phục những
hậu quả của hành vi sai phạm nào đó đã xảy ra.
Điểm đặc biệt của phương thức giải quyết tranh chấp này là chủ thể tham gia
giải quyết chỉ bao gồm các bên của tranh chấp và không xuất hiện bất kỳ bên thứ ba
nào, các bên không phải chịu bất kỳ nguyên tắc tắc pháp lý hay quy định về tố tụng
nào.Kết quả của việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng phụ thuộc hoàn toàn
vào các bên và không có bất kỳ thiết chế nào đảm bảo cho sự thi hành thỏa thuận đạt
được sau thương lượng.
Về ưu điểm:
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng là phương thức đơn giản,
nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm. Việc giải quyết thông qua thương lượng có thể
diễn ra tại bất ký đâu và bất kỳ lúc nào mà không phải chịu bất kỳ sự ràng buộc nào

15


ngoài ý chí của các bên. Vì không có sự xuất hiện của bên thứ ba trong giải quyết
tranh chấp nên chi phí mà các bên dành cho phương thức giải quyết tranh chấp này là
rất thấp. Ngoài ra, phương thức thương lượng còn có một ưu điểm nữa, đó là giúp
bảo vệ bí mật kinh doanh cũng như uy tín của các bên. Trong hoạt động kinh doanh,
các bên chủ thể phải mất rất nhiều thời gian mới có thể xây dựng được uy tín cho
mình, vì thế họ rất coi trọng việc bảo vệ uy tín cho mình nên hình thức giải quyết

tranh chấp bằng thương lượng thường là phương thức giải quyết tranh chấp đầu tiên
được áp dụng.
Về nhược điểm:
Nhược điểm lớn nhất của phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại
bằng thương lượng chính là việc thi hành thỏa thuận đạt được thông qua thương
lượng không chịu sự cưỡng chế từ bất kì cơ quan nào. Vì vậy, nếu như thỏa thuận đã
đạt được mà một trong các bên không tự nguyện thi hành thì bên kia không thể dùng
các biện pháp cưỡng chế để ép buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Việc thực hiện
thỏa thuận đạt được từ thương lượng xuất phát hoàn toàn từ thiện chí của các bên.
Chính vì nhược điểm này mà trên thực tế các tranh chấp trong thương mại được giải
quyết thành công theo phương thức này có tỷ lệ chưa cao.
Thứ hai, phương thức giải quyết bằng hòa giải
Hòa giải là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án.
Khác với thương lượng, đây là phương thức có sự tham gia của người thứ ba là bên
trung lập nhưng hạn chế tối đa sự can thiệp của bên thứ ba vào kết quả giải quyết
tranh chấp giữa các bên. Bên thứ ba trong phương thức hòa giải thông thường sẽ là
các hòa giải viên. Các bên trong tranh chấp có toàn quyền quyết định xem tranh chấp
được giải quyết theo hướng nào, quyền và nghĩa vụ của các bên trong tranh chấp sẽ
được giải quyết ra sao. Hòa giải không nhằm phân định ai đúng ai sai trên cơ sở các
bằng chứng và quyền, nghĩa vụ pháp lý để ra phán quyết như trọng tài hay Tòa án,
bên cạnh đó hòa giải viên cũng không đưa ra các giải pháp mà chỉ giúp các bên
thương lượng tìm được lợi ích chung, hướng đến giải pháp mà cả hai bên đều chấp
nhận và tự nguyện tuân thủ.
16


×