Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 96 trang )

NGUYỄN VĂN ĐẠI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THỎA THUẬN TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC
TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN ĐẠI

2015 - 2017

HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

THỎA THUẬN TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN ĐẠI

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN MINH NGỌC
HÀ NỘI – 2017

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ


từ Giáo viên hướng dẫn là Tiến sĩ Trần Minh Ngọc. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các kết quả nghiên cứu chưa được ai công
bố trong các công trình khoa học.
Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2017
Tác giả

LỜI CẢM ƠN


Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ
lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn
của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt khóa học cũng
như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Trần Minh Ngọc đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực
hiện nghiên cứu Luận văn của mình. Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc tới Ban giám hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng
Đào tạo, Khoa Sau đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo mọi điều kiện

thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2017
Tác giả

MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU………………………………………………………………..….…...1
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………..…...1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………………2
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài……………………………………………4
4. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài………………………………….…..4
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài…………………………………….…….5
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn..…………………………..5
1. Kết cấu của luận văn..……………………………………………..………6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ.............................................................................................................7
1.1 Khái quát về trọng tài thương mại quốc tế .................................................7
1.1.1 Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế...................................................8
1.1.2 Đặc điểm của trọng tài thương mại quốc tế...........................................15
1.1.3 Các loại trọng tài thương mại quốc tế........................ ...........................16
1.2 Khái quát về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế............................19

1.2.1 Khái niệm thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế................................19
1.2.2 Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế..........................23
1.2.3 Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.............................25
Chương 2:

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỎA

THUẬN TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ .......................................29
2.1 Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.............................29
2.1.1 Đối tượng của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế ........................29
2.1.2 Hình thức của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế..................33
2.1.3 Nội dungcủa thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế............................37
2.1.4 Năng lực chủ thể của các bên ký kết thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế..................................................................................................................46
2.1.5 Ý chí của các bên khi ký kết thỏa thuận trọng tài thương mại quốc
tế...........................................................................................................................50
2.1.6. Phân định thẩm quyền giữa Trọng tài và Tòa án …………………..…51
2.2 Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.......................................53


2.3 Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài thương mại quốc
tế..........................................................................................................................59
2.4 Thỏa thuận trọng tài vô hiệu......................................................................64
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ……………….…………………......68

3.1 Tình hình hoạt động trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam……..…68
3.1.1 Thực trạng hoạt động trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam…..….68
3.1.2 Nguyên nhân của thực trạng hoạt động trọng tài ở Việt Nam hiện nay.74

3.2 Thực tiễn hoạt động xây dựng thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế
của các Doanh nghiệp ở Việt Nam…………………………………………..77
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định về thỏa
thuận trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam…………...……………....79
3.3.1 Sự cần thiết nâng cao hiệu quả thi hành các quy định của pháp luật Việt
Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế………….………………..….79
3.3.2 Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa
thuận trọng tài thương mại quốc tế....................................................................80
3.3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định về thỏa
thuận trọng tài thương mại quốc tế…………………………………………..…82
3.3.3.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế………………………………...……………………….…..82
3.3.3.2 Một số giải pháp khác nhắm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định
của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế……..….…84
KẾT LUẬN………………………...…………………………………..………86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………..……...….88

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


ADR

: Phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn

TTTT 2010

: Trọng tài Thương mại

PLTTTM 2003


: Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003

UNCITRAL

: Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế

VIAC

: Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

Nghị quyết số 01/2014 : Nghị quyết số 01/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của
Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế trong bối cảnh giao
thương quốc tế hiện nay ngày càng phức tạp và có xu hướng tăng nhanh, đòi hỏi
phải được giải quyết bằng những phương thức có hiệu quả cao cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp. Trong các phương thức giải quyết tranh
chấp lựa chọn (ADR) như trung gian, hòa giải và trọng tài thì trọng tài thương
mại với những ưu thế nổi bật của mình là một sự lựa chọn ưa thích đối với các
bên tham gia tranh chấp. Tác động quốc tế đã có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động trọng tài tại Việt Nam, những điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hiện
đang giữ một vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển hoạt động trọng
tài tại Việt Nam. Việt Nam là thành viên của Công ước New York 1958 từ năm
1995 và hiện đang là thành viên của 50 Hiệp định đầu tư song phương và 11

Hiệp định thương mại tự do đa phần trong đó đều có điều khoản giải quyết tranh
chấp đầu tư bằng trọng tài. Bên cạnh những đóng góp trong sự tăng trưởng nền
kinh tế, những công ước, hiệp định này đảm bảo rằng các doanh nghiệp trong
nước sẽ phải làm quen với “văn hóa” sử dụng trọng tài như là phương thức giải
quyết tranh chấp tối ưu của đối tác, nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam nằm trong
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với rất nhiều các quốc gia xây dựng luật
trọng tài của mình dựa trên Luật Mẫu UNCITRAL, đồng thời cũng là khu vực có
nhu cầu sử dụng dịch vụ trọng tài ngày càng tăng như là một hệ quả của việc
tăng cường đầu tư và các hoạt động thương mại quốc tế.
Tuy vậy, thời gian vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn dè dặt
khi chọn trọng tài thương mại quốc tế để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
thương mại quốc tế, một mặt do hiểu biết còn hạn chế, mặt khác do hệ thống
pháp luật về trọng tài thương mại Việt Nam còn một số bất cập làm giảm tính
hấp dẫn của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc
tế. Những doanh nghiệp lựa chọn trọng tài thì chưa đánh giá đúng vai trò của
thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế nên trong quá trình soạn thảo, ký kết


thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế còn nhiều thiếu sót dẫn đến những tranh
chấp không đáng có sau này. Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế là yếu tố
cơ bản cần thiết, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động trọng tài thương mại
quốc tế kể từ lúc khởi đầu trọng tài cho đến khi công nhận và cho thi hành phán
quyết trọng tài thương mại quốc tế. Hiệu quả của hoạt động tố tụng trọng tài phụ
thuộc một phần không nhỏ vào thỏa thuận trọng tài. Sự cần thiết hoàn thiện các
chế định pháp lý về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế theo đó cũng là một
yếu tố tất yếu và là hạt nhân quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý
về trọng tài thương mại quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc
tế, tác giả thấy cần phải có một công trình nghiên cứu về lĩnh vực trọng tài
thương mại quốc tế trong đó tập chung chủ yếu vào chuyên đề thỏa thuận trọng

tài thương mại quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Trong điều kiện đó, tác giả chọn đề tài “Thỏa thuận trọng tài thương
mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình với
mong muốn được làm rõ hơn quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này,
đồng thời so sánh với pháp luật một số quốc gia về cùng vấn đề để thấy được
những tiến bộ, hạn chế của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương
mại quốc tế, từ đó có sự điều chỉnh, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
các quy định pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế và
hướng hoàn thiện.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế là vấn đề pháp lý đã được nghiên
cứu trong thời gian trước đây và được đề cập trong một số công trình nghiên cứu
khoa học cũng như bài đăng trên tạp chí. Từ khi Pháp lệnh TTTM 2003 có hiệu
lực đến Luật TTTM 2010, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế được công bố. Tiêu biểu như:
Nguyễn Thị Thúy Hằng (2004), Luận văn thạc sỹ “Thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế”;


Bài viết của tác giả Nguyễn Đình Thơ (2006) “Một số vấn đề về thỏa
thuận trọng tài” tạp chí Tòa án nhân dân số 20/2006, tr 15-20;
Nguyễn Đình Thơ (2007) Luận án tiến sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật
về trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”;
Bài viết của GS-TSKH Đào Trí Úc viết về “Những vấn đề cơ bản của
Luật Trọng tài” đăng trong tài liệu hội thảo “Góp ý dự thảo Luật trọng tài” do
Hội Luật gia Việt Nam phối hợp với Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam tổ chức tháng 11/2008 tại Hà Nội;
Vũ Quỳnh Anh (2008), Khóa luận tốt nghiệp “ Những vấn đề pháp lý cơ
bản về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam”;
Trần Minh Ngọc (2009), Luận án tiến sỹ luật học “Giải quyết tranh chấp

thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế”;
Hoàng Linh (2009), Khóa luận tốt nghiệp “Tìm hiểu một số vấn đề pháp lý
về thỏa thuận trọng tài”;
Trần Thị Ngọc Anh (2011), Khóa luận tốt nghiệp “Thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
ở Việt Nam”.
Các công trình trên đây dù nghiên cứu ở các mức độ khác nhau về thỏa thuận
trọng tài thương mại nhưng đã góp phần tạo dựng nên hệ thống cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc nghiên cứu sau này. Tuy nhiên, thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế là thỏa thuận trọng tài thương mại mang yếu tố quốc tế, vượt qua biên giới
quốc gia, thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế, không phải là thỏa thuận
trọng tài trong phạm vi thuần túy quốc gia. Do đó, trong số các công trình nghiên
cứu khoa học đã được liệt kê ở trên thì chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên
cứu thật sự đầy đủ, toàn diện về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế the pháp
luật Việt Nam hiện hành. Trong bối cảnh Pháp luật về trọng tài thương mại quốc

tế đã có sự thay đổi, Luật TTTM 2010 đã có hiệu lực được hơn 6 năm và đã bộc
lộ một số hạn chế qua thực tiễn thi hành, Luận văn này, tác giả nghiên cứu, đánh


giá chi tiết về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế trên cơ sở tìm hiểu, so
sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới nhằm thấy được những điểm
tích cực cũng như hạn chế các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa
thuận trọng tài thương mại quốc tế, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm
nâng cao việc thực thi pháp luật trọng tài thương mại nói chung, pháp luật về
thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế, bao gồm: hiệu lực của thỏa

thuận trọng tài thương mại quốc tế, luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế, phân định thẩm quyền giữa trọng tài và Tòa án, thỏa thuận
trọng tài vô hiệu v.v. từ đó tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của
pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế. Luận văn cũng
sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật Việt Nam
về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.
4. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế đã giới hạn trong
phần phạm vi nghiên cứu để từ đó nêu ra những thực trạng và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thi hành, hoàn thiện những quy định này trong thời gian
tới. Để đạt được mục đích này cần hoàn thành những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu tổng quát những vấn đề lý luận chung về trọng tài
thương mại quốc tế và thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế, làm rõ một số
vấn đề lý luận liên quan đến khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thỏa thuận trọng
tài thương mại quốc tế.
Thứ hai, phân tích, đánh giá quy định của pháp luật trọng tài thương
mại Việt Nam về vấn đề thỏa thuận trong tài thương mại quốc tế bao gồm hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế, thỏa thuận trong tài không thực
hiện được, phân định thẩm quyền giữa tòa án và trọng tài, luật áp dụng trong


thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế, thỏa thuận trọng tài vô hiệu…so sánh
với pháp luật trọng tài thương mại của một số quốc gia trên thế giới qua đó thấy
được những ưu điểm, tồn tại, bất cập của pháp luật liên quan đến vấn đề này.
Thứ ba, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trọng tài
Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử của nghiên cứu Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh về Nhà nước và pháp luật; quán triệt đường lối chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật luật đáp ứng yêu cầu hội
nhập kinh tế. Các phương pháp cụ thể bao gồm: phương pháp thu thập, phân
tích, liệt kê, tổng hợp các tài liệu, phương pháp diễn giải, quy nạp và phương
pháp so sánh.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Thứ nhất, làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế.
Thứ hai, phân tích đánh giá những quy định của pháp luật trọng tài Việt
Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế, so sánh với các Điều ước quốc
tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về vấn đề này. Từ đó rút ra
những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Thứ ba, nêu nguyên nhân, yêu cầu, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
và thực thi có hiệu quả các quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế
theo pháp luật trọng tài Việt Nam hiện hành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế.


Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định
của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ



1.1 Khái quát về trọng tài thương mại quốc tế
Trên thế giới cũng như Việt Nam tồn tại bốn phương thức cơ bản giải
quyết tranh chấp thương mại, bao gồm: thương lượng, trung gian hòa giải, trọng
tài và tòa án. Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để giải
quyết bất hòa giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Giải quyết tranh
chấp thông qua trọng tài ngày càng trở nên phổ biến ở các nước, nhất là trong
các tranh chấp thương mại quốc tế. Thực tiễn giải quyết tranh chấp trên thế giới
cho thấy trọng tài ngày càng “đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các
tranh chấp giữa các bên”.
Quy định sơ khai về trọng tài ở Hy Lạp trong luật mua bán hàng hóa cho
phép các lái buôn được tự phân xử bất hòa của mình không cần có sự can thiệp
của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh chấp, không
chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao đổi hàng hóa,
có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu.
Trong hệ thống luật của Anh, văn bản pháp luật đầu tiên về trọng tài phải
kể đến Luật Trọng tài 1697, nhưng vào thời điểm luật được thông qua, đây đã là
một phương thức rất phổ biến (phán quyết đầu tiên của trọng tài ở Anh được đưa
ra vào năm 1610). Tuy nhiên các quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống
luật Common law thể hiện một hạn chế cơ bản là bất cứ bên tham gia tranh chấp
nào cũng có thể khước từ việc thực hiện phán quyết của trọng tài nếu thấy phán
quyết đó bất lợi cho mình. Hạn chế này đã được khắc phục trong Luật năm 1697.
Trong Hiệp ước Jay năm 1794, Anh và Mỹ đã thống nhất đưa các vấn đề còn
đang tranh chấp liên quan đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết ở trọng tài.
Việc giải quyết tranh chấp này kéo dài 7 năm, và được coi là kết thúc thành
công. Từ đầu thế kỷ XX, các nước (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt đầu thông qua
các đạo luật quy định và khuyến khích việc phân xử ở cấp trọng tài thay cho kiện
tụng ở tòa án vốn được cho là kém hiệu quả hơn.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng phát triển, dẫn tới việc hình thành những



tổ chức trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các hợp
đồng thương mại quốc tế. Tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài ngày càng được thừa nhận rộng rãi, đặc biệt là trong các thập kỷ gần
đây. Các quốc gia sửa đổi luật pháp về trọng tài cho phù hợp với tình hình
thực tế; các điều ước quốc tế về trọng tài đang có thêm những thành viên mới;
trọng tài trở thành một môn học trong chương trình đào tạo ngành luật; các
doanh nghiệp ngày càng tin tưởng vào một phương thức giải quyết tranh chấp
linh hoạt, công bằng, với phán quyết được công nhận rộng rãi trên phạm vi
thế giới.
Ngày nay, ở tất cả các nước trên thế giới, trọng tài là một cơ chế giải
quyết tranh chấp độc lập và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn xét
xử quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế.
1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế
Trọng tài thương mại quốc tế là một trong những hình thức giải quyết
tranh chấp phổ biến hiện nay trên thế giới. Trọng tài thương mại quốc tế trước
hết nó mang những đặc điểm chung của một trọng tài. Để tìm hiểu trọng tài
thương mại quốc tế là gì, trước hết cần nắm được khái niệm về trọng tài?
Cũng như các thuật ngữ khoa học pháp lý khác, khái niệm “Trọng tài”
được đề cập nhiều trong luật quốc tế, được nghiên cứu trên rất nhiều bình diện
khác nhau cũng như nhiều cách tiếp cận trong khoa học pháp lý.
Định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu trong Công ước La-Hay năm
1899, theo đó: “Trọng tài là nhằm để giải quyết những bất đồng giữa các bên thông
qua một người thứ ba do chính các bên lựa chọn trên cơ sở tôn trọng luật pháp”.
Công ước La-Hay 1907 quy định: “Trọng tài quốc tế có đối tượng giải quyết
là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của những trọng tài viên
do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở của sự tôn trọng luật pháp”.
Trong tác phẩm kinh điển của một số học giả nổi tiếng, theo Okezie
Chukwumerije: “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên với
nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các bên lựa chọn hoặc bởi việc



dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất định được lựa chọn bởi chính các
bên”. [1] Tương tự như vậy, James and Nicholas cho rằng: “Trọng tài được coi như
là một tiến trình tư được mở ra theo sự thỏa thuận của các bên nhằm giải quyết một
tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ phát sinh bởi một hội đồng trọng tài gồm
một hoặc nhiều trọng tài viên”. [2]
Luật mẫu của UNCITRAL – Một văn bản được nhiều nước tiếp nhận khi
xây dựng luật trọng tài, Điểm a, khoản 2, Luật Mẫu định nghĩa : “Trọng tài nghĩa
là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức trọng tài
thường trực”. [3]
Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ lại cho rằng: “Trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người xem
xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên
tranh chấp thi hành”.
Điều 3, Luật trọng tài Hàn Quốc cho rằng “Trọng tài” có nghĩa là một thủ
tục để giải quyết bất kỳ tranh chấp luật riêng, không phải bởi việc xét xử của tòa
án, nhưng bằng việc trao các trọng tài viên hoặc các trọng tài theo thỏa thuận của
các bên. [4]
Mặc dù có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm trọng tài theo
các học giả cũng như của một vài quốc gia trên thế giới, tuy nhiên có thể hiểu
rằng: Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của
một bên thứ ba trung lập do các bên thỏa thuận chọn để giải quyết tranh chấp
giữa họ và quyết định của bên thứ ba này có giá trị bắt buộc thi hành. [5]
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy được một vài đặc điểm cơ bản của
trọng tài như sau:
1

Okezie Chukwumerije (1994), Choice of law in international commercial arbitration, Quorum Books
westport, conecticut law. Trang 2.

2
Markhuleatt – James and Nicolas gouldv (1996), International commercial arbitration: A hand book, LLP
London – New York – Hong Kong.,trang.3
3
Liên Hợp quốc (1985), Đạo luật mẫu về thương mại quốc tế về Luật thương mại quốc tế
4
Arbitration act of korea
5
Luận văn thạc sỹ luật học Trần Phương Chi, Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế theo PL VN
hiện hành,2014, trang 5


Thứ nhất: Quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài diễn ra trên cơ
sở thỏa thuận trọng tài được thiết lập bởi các bên tranh chấp.
Thứ hai: Thủ tục trọng tài được xác định bởi các bên và thường là một thủ
tục xét xử kín được điều khiển bởi Hội đồng trọng tài ba người hoặc một người.
Thứ ba: Quyết định của trọng tài về vụ tranh chấp có giá trị bắt buộc các bên
phải thực hiện. [6]
Vậy “Trọng tài thương mại quốc tế” được hiểu như thế nào? Trọng tài
thương mại quốc tế mang những đặc điểm chung của một trọng tài. Nhưng một
trọng tài chỉ được coi là trọng tài thương mại quốc tế nếu nó chứa đững cả hai
yếu tố “thương mại” và yếu tố “quốc tế”.
Ở Việt Nam, hiện chưa có văn bản nào quy định rõ ràng thế nào là trọng
tài thương mại quốc tế. Từ định nghĩa của Luật Thương mại 2005 về trọng tài
thương mại có thể hiểu: Trọng tài thương mại quốc tế phải chứa đựng cả hai yếu
tố “thương mại” và yếu tố “quốc tế”.
a) Về tính “thương mại”
Yếu tố “thương mại” là yếu tố quan trọng khi tìm hiểu về khái niệm trọng
tài thương mại quốc tế bởi trọng tài thương mại quốc tế chỉ giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Thực tế hiện nay, trên bình diện

quốc tế chưa có một định nghĩa thống nhất về “thương mại”. Thuật ngữ này trở
thành một từ loại trong ngôn ngữ học, nó được dùng để phân biệt các vụ trọng tài
quốc tế liên quan đến tranh chấp kinh doanh hoặc thương mại với các vụ trọng
tài quốc tế giữa các quốc gia về các vấn đề tranh chấp biên giới và các vấn đề
chính trị khác…, nó cũng dùng để phân biệt các vụ trọng tài quốc tế liên quan
đến tranh chấp kinh doanh hoặc thương mại với các vụ trọng tài liên quan đến

6

[Wipo arbitration and mediation center – arbitration rules,
/>2004-07-13]

at:


các vấn đề như sự chiếm hữu tài sản, lao động và vấn đề tài sản trong quan hệ
hôn nhân và gia đình. [7]
Mặc dù Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết
định trọng tài nước ngoài đã nỗ lực ghi nhận một sự giải thích về thuật ngữ
“thương mại” nhưng lại dành cho các nước thành viên quyền bảo lưu đối với
khái niệm này.
Luật Mẫu của UNCITRAL không nêu định nghĩa chính thức về khái niệm
“thương mại” mà chỉ giải thích thuật ngữ thương mại tại phần chú thích Điều I
với phạm vi “các vấn đề phát sinh từ tất cả các mối quan hệ có bản chất thương
mại dù là có hợp đồng hay không”. Những quan hệ mang tính chất thương mại
bao gồm các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối, đại
diện hoặc đại lý thương mại, thuê mua xây dựng công trình; tư vấn kỹ thuật; li
xăng; đầu tư; tài chính ngân hàng; bảo hiểm; hợp đồng thăm dò, khai thác; liên
doanh và các hình thức hợp tác kinh doanh; vận tải hành khách, hàng hóa bằng
đường hàng không, đường sắt, đường bộ hoặc đường biển.

Bên cạnh đó, các quốc gia cũng có những định nghĩa khác nhau về “thương
mại”. Bộ luật thương mại Cộng hòa Pháp hiện hành không đưa ra bất kỳ định
nghĩa nào về “thương mại” nhưng tại Điều L110-1 đã liệt kê khá nhiều hành vi
thương mại được thể hiện bởi các thương nhân, bao gồm: mua bán hàng hóa để
bán lại, mua bán bất động sản để bán lại, mọi hoạt động trung gian về mua, thuê
hoặc bán công trình xây dựng, cho thuê tài sản….Bộ luật thương mại số 48 của
Nhật Bản năm 1899 quy định thuật ngữ thương mại được đùng để chỉ những
hoạt động mua bán nhằm mục đích lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị
trường như dịch vụ vận tải, cung ứng điện hay khí đốt, ủy thác, bảo hiểm, ngân
hàng… [8]

7

Alan Redfern và Martin Hunter (2004), Pháp luật và thực tiến trọng tài thương mại quốc tế, Trung tâm
thương mại và công nghiệp Việt Nam (dịch và hiệu đính), Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.

8

Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2012), Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành, Khóa luận tốt nghiệp, trang 9.


Hiện nay, ngày càng có nhiều quốc gia mở rộng phạm vi giải quyết của trọng tài
không chỉ đối với các tranh chấp thương mại mà còn đối với các quan hệ có tính
chất dân sự. Một số quốc gia như Anh, Mỹ, Nhật, Thụy Điển, Trung Quốc ….khi
ban hành đạo luật trọng tài mới đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài, theo đó
trọng tài không chỉ giải quyết các tranh chấp thương mại truyền thống mà còn có
thể giải quyết các tranh chấp về lao động và dân sự khác trừ các tranh chấp bắt
nguồn từ những quan hệ liên quan đến lợi ích công và trật tự công. [9]
Ở Việt Nam, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 giải thích hoạt động

thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác (Khoản 1 Điều 3).
b) Về tính “quốc tế”
Thuật ngữ “quốc tế” được sử dụng để phân biệt sự khác nhau giữa các vụ
trọng tài thuần túy quốc gia hoặc trong nước với các vụ trọng tài, ở một phương
diện nào đó, vượt qua biên giới quốc gia và được gọi là quốc tế hoặc theo thuật
ngữ được dùng bởi thẩm phán Jessup, “vượt qua phạm vi quốc gia”. [10] Yếu tố
quốc tế của trọng tài được xác định phụ thuộc vào bản chất của tranh chấp và đặc
điểm chủ thể tham gia tranh chấp. [ 11]
- Về căn cứ dựa vào bản chất của tranh chấp:
Theo giáo trình Tư pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội, xuất bản
năm 2006 thì “Trọng tài quốc tế là một phương pháp giải quyết tranh chấp có
yếu tố nước ngoài, mà trong đó các bên tranh chấp thỏa thuận, lập ra hoặc chỉ
định một bên thứ ba và giao cho bên thứ ba đó quyền được phán xét tranh chấp
của họ, phán xét này buộc các bên phải thực hiện”.
Theo Từ điển Luật học, nhà xuất bản Tư pháp năm 2006 định nghĩa:
“Trọng tài quốc tế là cơ quan hoặc phương thức giải quyết tranh chấp phát
9

Trường đại học Luật Hà Nội (2008) Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 351.
Alan Redfern và Martin Hunter (2004), Pháp luật và thực tiến trọng tài thương mại quốc tế, Trung tâm
thương mại và công nghiệp Việt Nam (dịch và hiệu đính), Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, trang 14.
11
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005., tr44.
10


sinh từ các quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế mà
pháp luật cho phép giải quyết bằng trọng tài”.

Một sự giải thích cho thuật ngữ “trọng tài quốc tế” cũng được tìm thấy
tại Điều 1492 của Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp (có hiệu lực từ ngày
14/5/1981), theo đó, trọng tài quốc tế được hiểu đơn giản là trọng tài giải quyết
tranh chấp quyền lợi trong thương mại quốc tế.
Những định nghĩa trên đều đề cập đến bản chất quốc tế của tranh chấp, tuy
nhiên nó mang nghĩa khá rộng, nhưng có thể hiểu những tranh chấp sẽ mang bản
chất quốc tế nếu liên quan tới bất kì yếu tố nước ngoài nào như: nơi giao kết hợp
đồng ở nước ngoài, nơi thực hiện hợp đồng ở nước ngoài, đối tượng hợp đồng
nằm ở nước ngoài…
- Về căn cứ vào đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp:
Yếu tố này thường được xác định dựa vào hai dấu hiệu chính, đó là quốc
tịch của chủ thể hoặc trụ sở thương mại của các chủ thể hay nơi cư trú thường
xuyên của họ. Cách tiếp cận này đã được ghi nhận trong Điều I.1(a) Công ước
Châu Âu 1961 về Trọng tài thương mại quốc tế:
“Công ước này sẽ được áp dụng với:
(a) Thỏa thuận trọng tài được kí kết với mục đích giải quyết tranh chấp phát
sinh từ thương mại quốc tế giữa các cá nhân hoặc pháp nhân có nơi cư trú
thường xuyên hoặc trụ sở ở các nước ký kết khác nhau…”
Pháp luật Thụy Sĩ cũng có quy định về việc xác định quốc tịch của các
bên chủ thể tham gia tranh chấp có phải là “quốc tế ” hay không được quy định
tại Điều 176(1) Đạo luật Tư pháp quốc tế của Liên bang Thụy Sĩ. Theo đó thì
trọng tài là “quốc tế” khi vào thời điểm thỏa thuận trọng tài được xác lập, ít nhất
có một bên trong thỏa thuận không thường trú hoặc sinh sống thường xuyên ở
Thụy Sĩ .
Với vai trò là văn bản được xây dựng chuyên áp dụng đối với trọng tài
thương mại quốc tế, định nghĩa về thuật ngữ “quốc tế” có ý nghĩa quan trọng
trong Luật mẫu của UNCITRAL. Ngoài việc sử dụng riêng lẻ từng yếu tố hoặc


là bản chất của tranh chấp, hoặc là đặc điểm của chủ thể tranh chấp thì Luật Mẫu

đã sử dụng cả hai yếu tố trên để định nghĩa trọng tài là “quốc tế” khi nào? Cụ
thể: Điều 1.3 Luật Mẫu định nghĩa trọng tài là “quốc tế” nếu:
- Các bên tham gia thoả thuận trọng tài, tại thời điểm ký kết thoả thuận
trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau; hoặc
- Một trong những địa điểm mà các bên có trụ sở kinh doanh được đặt ở
ngoài quốc gia gồm: Nơi xét xử trọng tài nếu được xác định trong hoặc theo thoả
thuận trọng tài; Nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại
được thực hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có quan hệ mật thiết nhất;
- Các bên đã thoả thuận rõ ràng rằng đối tượng của thoả thuận trọng tài
liên quan đến hơn một quốc gia.
Quy định trên của Luật mẫu còn cho thấy ngoài hai yếu tố về bản chất
tranh chấp và đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp thì còn một yếu tố được
sử dụng trong định nghĩa đó là về địa điểm mà đối tượng của tranh chấp có mối
quan hệ gần gũi nhất có thể là nước ngoài đối với các bên. Đây là một sự giải
thích khá rộng về tính “quốc tế” của trọng tài thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, trên đây chỉ là sự tìm hiểu những góc độ tiếp cận khác nhau
của thuật ngữ “quốc tế”. Còn để xác định một vụ trọng tài cụ thể nào đó có phải
là “quốc tế” hay không lại phụ thuộc vào pháp luật của quốc gia liên quan.
Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng: Trọng tài thương mại
quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận của các bên
tham gia tranh chấp nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
thương mại có yếu tố yếu tố quốc tế giữa các bên chủ thể (chủ yếu là giữa các
thương nhân) với nhau bởi một hội đồng trọng tài gồm một hoặc số lẻ trọng tài
viên, theo một quy trình tố tụng mà các bên lựa chọn và nó kết thúc với một phán
quyết có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với các bên.
1.1.2 Đặc điểm của trọng tài thương mại quốc tế


So với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như thương lượng,
trung gian hòa giải, tòa án thì trọng tài thương mại quốc tế có những đặc trưng cơ

bản sau:
Thứ nhất, trọng tài thương mại quốc tế là một cơ quan tài phán tư: Mặc
dù Tòa án và trọng tài có điểm giống là cùng mang tính chất tài phán tuy nhiên
điểm khác biệt cơ bản là trọng tài mang tính chất “quyền lực tư”. Trọng tài chỉ
có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi có sự thỏa thuận của các bên tranh chấp
còn xét xử của Tòa án là đại diện cho quyền lực công. Tòa án có thẩm quyền giải
quyết đương nhiên theo luật định đối với các vụ tranh chấp phát sinh trong các
lĩnh vực nếu các bên không có thỏa thuận khác. [12]
Thứ hai, hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại quốc tế
mang tính chất tài phán, có nghĩa là trọng tài được quyền đưa ra phán xét cuối
cùng để giải quyết tranh chấp và phán quyết này có giá trị bắt buộc đối với các
bên; trường hợp các bên không tự nguyện thì hành phán quyết trọng tài thì sẽ bị
cưỡng chế thi hành. Điều này làm cho trọng tài hoàn toàn khác với phương thức
thương lượng hay trung gian hòa giải. Trong phương thức thương lượng hay
trung gian hòa giải, các bên tranh chấp phải tự bàn bạc, thỏa thuận để thống nhất
phương án giải quyết tranh chấp bất đồng giữa họ và tự nguyện thực hiện
phương án đó.
Thứ ba, lựa chọn trọng tài thương mại quốc tế để giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế nhằm đảm bảo bí mật cho các nhà kinh doanh tham gia vào
tranh chấp. Các nhà kinh doanh luôn mong muốn rằng tranh chấp liên quan đến
bí mật thương mại cũng như công việc kinh doanh của họ được giữ bí mật bởi
nếu những yếu tố đó của họ nếu bị xét xử dưới sự theo dõi của công luận sẽ ảnh
hưởng tới công việc kinh doanh tương lai của họ. Nếu như với Tòa án chỉ dựa
vào trình tự tố tụng đã được quy định trong pháp luật quốc gia, xét xử và đưa
phán quyết về vụ việc một cách công khai thì với phương thức giải quyết tranh
12

Luận văn thạc sĩ luật học – Phạm Chí Dũng, khoa Luật đại học quốc gia HN, Thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của trọng tài theo pháp luật một số nước trong khu vực Châu Á và kinh nghiệm đối với Việt
Nam, trang 22



chấp thương mại quốc tế bằng phương thức trọng tài thì tại phiên tòa xét xử chỉ
tiến hành với sự có mặt của các bên, thực hiện theo phương thức xét xử kín, tách
rời khỏi sự chú ý của công luận. Do đó, khi lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, các vụ tranh chấp liên quan đến bí mật kinh doanh,
khiếm khuyết của hàng hóa, sự kém chất lượng của sản phẩm sẽ được bảo đảm
giữ bí mật.
Thứ tư, các phán quyết trọng tài thương mại quốc tế có giá trị chung thẩm. Về
nguyên tắc, phán quyết trọng tài là chung thẩm, nó buộc các bên phải thi hành. Đa số
các phán quyết trọng tài đều được thi hành với sự trợ giúp của nhà nước trừ những
trường hợp phán quyết bị hủy bởi Tòa án do chủ yếu vi phạm các thủ tục tố tụng
trọng tài. Tòa án không thể xét xử lại vụ tranh chấp nếu đã có phán quyết của trọng tài
mà chỉ có thể hủy phán quyết trọng tài trên cơ sở xem xét các thủ tục tố tụng trọng tài
có được chấp hành đầy đủ hay không? Trong khi đó, các quyết định của Tòa án
thường bị kháng cáo lên nhiều cấp xét xử và hậu quả có thể phán quyết mới của Tòa
án cấp cao hơn có nội dung khác với phán quyết ban đầu đã được đưa ra.
1.1.3 Các loại trọng tài thương mại quốc tế
Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam
hiện nay đều công nhận trọng tài thương mại quốc tế có hai loại chủ yếu: Trọng tài
vụ việc (Ad-hoc) và Trọng tài thường trực (hay trọng tài quy chế).

[13]

Mỗi loại

trọng tài đều có ưu, nhược điểm riêng vốn bắt nguồn từ chính bản chất của nó.
Tùy từng vụ việc, hoàn cảnh cụ thể mà các bên tham gia tranh chấp sẽ quyết định
hình thức trọng tài nào là phù hợp hơn với tranh chấp thực tế đang tồn tại giữa họ.
Cụ thể:

* Trọng tài vụ việc (ad hoc arbitration)
Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài do các bên tranh chấp tự thành lập
để giải quyết vấn đề họ yêu cầu, sau khi giải quyết xong vụ tranh chấp thì hội
đồng trọng tài tự giải tán (ad-hoc tiếng Latin có nghĩa là dùng cho việc này, cho
thời gian này). Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài vụ việc có thể
13

Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp.


được tiến hành theo quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài quy chế hoặc không
theo quy tắc của tổ chức trọng tài nào mà thủ tục tố tụng do các bên tự quy ước
với nhau. Đặc điểm của hình thức trọng tài này là không có trụ sở cố định, không
lệ thuộc vào bất kì quy tắc nào.
Về ưu điểm: ưu điểm của trọng tài Ad-hoc là thủ tục giải quyết rất gọn
nhẹ và linh hoạt, thời gian xét xử ngắn, hai bên dễ dàng đi đến thỏa thuận chung,
ít chi phí. Hơn nữa, quy trình giải quyết bí mật là điều được các thương nhân
quan tâm.
Về nhược điểm: nhược điểm của trọng tài Ad-hoc đó là nó phụ thuộc rất
lớn vào sự hợp tác của các bên, vì không có quy tắc tố tụng riêng nên nó phụ
thuộc vào hệ thống pháp luật nơi xét xử của trọng tài; Trong trọng tài vụ việc,
không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành tố tụng trọng tài và giám sát các
trọng tài viên, do đó, kết quả phần lớn phụ thuộc vào năng lực của các trọng tại
viên mà hai bên đã thống nhất lựa chọn. Vì không có biểu phí có định như trong
Trọng tài thường trực, các bên phải thỏa thuận trực tiếp về vấn đề phí với Trọng
tài viên, các bên có thể phải thỏa thuận trả thù lao theo giờ, hay theo ngày làm
việc, việc đó dẫn tới có thể thù lao, chi phí cuối cùng sẽ còn cao hơn chi phí mà
các bên phải trả nếu đưa tranh chấp tới một tổ chức trọng tài.
Ở Việt Nam, trước đây chưa có quy định cụ thể về hình thức trọng tài đặc
biệt này, tuy nhiên kể từ khi Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 (Điều 26) có

hiệu lực cho đến luật Trọng tài thương mại 2010 hiện hành đã kế thừa các quy
định của Pháp lệnh trọng tài 2003 cũng như xu hướng chung của pháp luật trọng
tài đa số các quốc gia trên thế giới thì cũng đều đã thừa nhận sự tồn tại của loại
trọng tài vụ việc này tại Điều 41.
* Trọng tài quy chế (trọng tài thường trực)
Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài có tổ chức, được thành lập và
hoạt động thường xuyên theo một quy chế nhất định (Điều lệ, Quy tắc tố tụng
của trung tâm trọng tài), có cơ quan thường trực và hoạt động theo quy tắc


riêng. Ngoài quy tắc riêng, mỗi tổ chức trọng tài còn có danh sách Trọng tài
viên của riêng mình.
Về ưu điểm: Trọng tài thường trực có rất nhiều ưu điểm, do có quy tắc tố
tụng được quy định chặt chẽ, công khai nên quá trình giải quyết tại trung tâm
trọng tài này được thực hiện theo các trình tự, thủ tục rất nghiêm túc. Các tổ
chức trọng tài thường xuyên sửa đổi quy chế để phù hợp với các thay đổi trong
hệ thống pháp luật của các nước và thực tiễn giao dịch thương mại quốc tế. Hầu
hết các tổ chức trọng tài đều có những chuyên gia hỗ trợ cho quá trình trọng tài,
đội ngũ trọng tài viên có trình độ cao, am hiểu trong nhiều lĩnh vực khác nhau
(thương mại, hàng hải, thanh toán quốc tế, luật quốc tế, xây dựng, ngân
hàng….) khiến cho quá trình tố tụng được diễn ra một cách nhanh chóng và có
hiệu quả cũng như có thể thiết lập một hội đồng trọng tài công bằng, khách
quan, đảm bảo được quyền lợi chính đáng cho các bên.
Cùng với rất nhiều ưu điểm về loại trọng tài này, do đó các tổ chức trọng
tài phi chính phủ thường trực đã được thành lập ở rất nhiều nước trên thế giới.
Tại một số nước như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam….trọng tài thường trực
được tổ chức dưới hình thức các trung tâm trọng tài bên cạnh Phòng thương mại
và công nghiệp, cũng có những nước trọng tài thường trực được tổ chức dưới
dạng công ty hoặc hiệp hội trọng tài như ở Nhật, Mỹ (Hiệp hội trọng tài Mỹ
AAA, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản JCAA), Anh (Tòa án trọng tài quốc tế Luân

Đôn LCIA). [14]
Ở Việt Nam, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) được thành lập theo quyết định
số 204/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993, trên cơ sở hợp nhất Hội
đồng trọng tài hàng Hải và Hội đồng trọng tài ngoại thương. VIAC có nhiệm vụ
xét xử các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế và từ ngày 15/4/1996,
Trung tâm được phép mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh
14
Luân văn thạc sĩ luật học – Phạm Chí Dũng, khoa Luật đại học quốc gia HN, Thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài theo pháp luật một số nước trong khu vực Châu Á và kinh nghiệm đối với Việt Nam, tr13.


×