Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 80 trang )

NGUYỄN QUANG HUY

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

CÁC HẠN CHẾ ĐỂ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

2015 - 2017

NGUYỄN QUANG HUY

HÀ NỘI - 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CÁC HẠN CHẾ ĐỂ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM



NGUYỄN QUANG HUY
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM THỊ GIANG THU

HÀ NỘI -2017

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không
trùng lặp với các đề tài khác./.

Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Huy

3


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài, được sự hướng dẫn giúp đỡ tận
tình của PGS.TS Phạm Thị Giang Thu, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ với đề
tài “Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại theo pháp luật Việt Nam”. Qua đây, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới PGS.TS Phạm Thị Giang Thu, là người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình

và đóng góp ý kiến để tôi hoàn thành luận văn này. Đồng thời tôi cũng xin gửi lời
cảm ơn chân thành đến Viện Đại học mở Hà Nội và khoa Đào tạo Sau đại học, Viện
Đại học mở Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu; xin gửi lời cảm ơn tới cơ quan, đơn vị công tác, các đồng nghiệp đã luôn động
viên, giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành tốt luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Huy

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ ĐỂ BẢO ĐẢM AN
TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ ĐỂ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ........................7
1.1. Những vấn đề lý luận về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại .....................................................................7
1.1.1. Sự cần thiết phải áp dụng các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại...........................................................7
1.1.2. Khái niệm các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại ......................................................................................16
1.1.3. Các biện pháp hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại ......................................................................................19
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.................................................23
1.2.1. Khái niệm và cách thức điều chỉnh của pháp luật về các hạn chế để bảo

đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ..................23
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại.........................................................24
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại .......................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ ĐỂ BẢO ĐẢM AN
TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..................................................34

5


2.1. Thực trạng pháp luật về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ..............................................34
2.1.1. Thực trạng quy định về những hành vi bị cấm đối với ngân hàng thương
mại, công ty kiểm soát của ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm an toàn
trong hoạt động cho vay ...................................................................................34
2.1.2. Thực trạng quy định về các nghĩa vụ đặc biệt của ngân hàng thương
mại, công ty kiểm soát của ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm an toàn
trong hoạt động cho vay ...................................................................................40
2.1.3. Thực trạng quy định về quản lý, kiểm soát việc tuân thủ các hạn chế để
bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại...........50
2.1.4. Thực tiễn thực hiện pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại tại Việt Nam và một số nhận
xét, đánh giá .....................................................................................................56
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực thi pháp
luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại ở Việt Nam.............................................................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................72

PHỤ LỤC .................................................................................................................74

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại
nói riêng luôn được xem là định chế tài chính trung gian quan trọng nhất, vì những
đóng góp không thể phủ nhận của nó đối với quá trình phân bổ các nguồn lực tài
chính hiệu quả cho mục tiêu phát triển kinh tế và thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng
của xã hội. Trong số các nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng, cho vay thường được
xem là nghiệp vụ chủ yếu và tiểm ẩn nhiều rủi ro nhất. Vì lẽ đó, việc nhận diện rủi
ro trong hoạt động cho vay để từ đó dự liệu về các biện pháp phòng chống rủi ro
trong hoạt động cho vay là điều hết sức cần thiết đối với mỗi ngân hàng.
Trong nhiều năm qua, những rủi ro và tổn thất của các ngân hàng thương mại
ở Việt Nam trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay nói riêng
có nguồn gốc sâu xa từ một nguyên nhân là sự thiếu minh bạch trong hệ thống pháp
lý, tính không hoàn thiện của các thể chế kinh tế thị trường, sự yếu kém trong việc
đánh giá thu nhập, kiểm soát rủi ro, chứng minh quyền sở hữu tài sản của người
vay… Điều này dẫn tới hệ quả là khi cho vay, các ngân hàng không có được niềm
tin vững chắc vào các báo cáo tài chính, phương án kinh doanh - trả nợ hay các
nguồn tài chính trả nợ của khách hàng để đưa ra một quyết định cho vay an toàn và
hiệu quả. Trong môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh khốc liệt của cơ chế kinh
tế thị trường, mọi rủi ro tổn thất đều có thể xẩy ra bất chấp những cố gắng và nỗ lực
tự thân trong quản trị rủi ro của các ngân hàng. Vẫn biết rằng việc loại trừ tuyệt đối
các rủi ro trong cho vay là điều không thể, song các ngân hàng luôn hướng tới mục
tiêu hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro này thông qua việc áp dụng những biện
pháp nghiệp vụ và kỹ thuật phòng chống rủi ro tín dụng. Một trong những kỹ thuật
phòng chống rủi ro khá hiệu quả cho các ngân hàng chính là việc áp dụng các hạn

chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Trong nhiều năm gần đây, pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong

1


hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói chung và của các ngân hàng thương
mại nói riêng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, song vẫn còn thể hiện sự bất
cập so với thực tiễn và lý luận, đặc biệt là khả năng áp dụng các quy định này vào
thực tiễn kinh doanh của ngân hàng thương mại. Sự thiếu rõ ràng, minh bạch trong
quá trình giải thích và áp dụng pháp luật khiến cho các quy định này trở nên kém
hiệu quả trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, trong đó
đặc biệt là quyền và lợi ích hợp pháp của ngân hàng thương mại. Chính những bất
cập và yếu kém này của cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hạn chế để
bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại là lý do chính
giải thích sự cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này trong bối cảnh nền kinh tế Việt
Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Nhằm mục tiêu định hướng cho chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã nêu rõ: “Tăng tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong điều
hành chính sách tiền tệ. Hoàn thiện pháp luật về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng
gắn với xử lý nợ xấu. Nâng cao năng lực tài chính, quản trị, điều hành phù hợp với
chuẩn mực quốc tế; xử lý dứt điểm các tổ chức tín dụng yếu kém và tình trạng đầu
tư chéo, sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng; phát triển nhanh và an toàn dịch vụ
tài chính, ngân hàng”. Với một nước đang phát triển như Việt Nam thì ngân hàng
là chủ thể cung cấp nguồn tài chính bên ngoài cực kỳ quan trọng đối với doanh
nghiệp. Ngân hàng thương mại đã đóng góp to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân như cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế quốc dân, tăng trưởng
đầu tư, thúc đẩy tốc độ chu chuyển thanh toán, chu chuyển vốn với vai trò là trung

tâm thanh toán của nền kinh tế, góp phần tham gia thực hiện chính sách tiền tệ của
nhà nước. Như vậy, một ngân hàng yếu kém trong hoạt động, thường xuyên gặp rủi
ro sẽ không chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn tạo nên những rủi ro
nhất định mang tính dây chuyền cho các chủ thể khác và ngược lại. Rõ ràng, khả
năng chống đỡ của ngân hàng càng cao, khả năng hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp

2


sẽ càng lớn. Trong thời gian tới, khi hàng loạt các ngân hàng nước ngoài đẩy mạnh
hoạt động đầu tư tại Việt Nam thì chắc chắn những đòi hỏi về công tác quản trị rủi
ro của ngân hàng sẽ càng trở nên gay gắt hơn, trong đó có vấn đề áp dụng các hạn
chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại,
không chỉ các ngân hàng phải tự chủ động ban hành các quy định nội bộ nhằm thiết
lập các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh, trong đó có yêu
cầu về đảm bảo an toàn như phân loại tín dụng, dự trữ bắt buộc...
Xuất phát từ thực tiễn về các vấn đề liên quan đến bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề: “Các
hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
theo pháp luật Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến đề
tài luận văn, tác giả nhận thấy đã có một số công trình được công bố có liên quan
đến vấn đề hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại. Ở mức độ khái quát, có thể kể đến một số công trình khoa học nước
ngoài tiêu biểu như các bài viết: “Khủng hoảng tiền tệ thế giới năm 1997”, Paul
Krugman - nhà Kinh tế Mỹ đạt giải thưởng Nobel năm 2008 về thuyết thương mại
và kinh tế địa lý; “Những bài học từ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng”, Claudia
Dziobek và Ceyla Pazarbasioglu, IMF, 1998; “Thiết lập mạng an toàn tài chính

quốc gia”, Fred Carns (2011) và Hiroyuki Obata (2011 ). Ở trong nước có Luận văn
thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Hồng Thúy năm 2008 của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội về đề tài: “Pháp luật về hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt
Nam”. Trong công trình này, tác giả đã nghiên cứu rất kỹ về hợp đồng tín dụng tại
các ngân hàng ở Việt Nam và trong đó có một số bàn luận có liên quan đến vấn đề
rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại; Luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Hoàng Thanh Thúy năm 2010 của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội

3


về đề tài: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo đảm tiền
vay tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam”. Trong công trình này, tác giả đã đưa ra
nhiều ý kiến bình luận, đánh giá về vấn đề tranh chấp và việc giải quyết tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, công trình này không có những
ý kiến bàn luận sâu về vấn đề hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại. Ngoài ra còn có bài viết của Nguyễn Văn Bình, “Một số
thách thức đối với hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng trong tình hình mới”,
đăng trên Tạp chí Ngân hàng, tháng 1/2017; một số khóa luận tốt nghiệp cử nhân
luật học hoặc cử nhân kinh tế có đề cập trực tiếp đến vấn đề rủi ro trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại cũng như vấn đề hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng cho đến nay, chưa có công trình nào ở cấp độ
luận văn thạc sĩ luật học trực tiếp nghiên cứu về vấn đề hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện
hành. Vì thế, có thể cho rằng đề tài luận văn mà tác giả lựa chọn đáp ứng được các
yêu cầu về tính thời sự, tính mới và có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm phân tích, đánh giá các vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp lý về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho

vay của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu ở trên, luận văn xác định rõ các nhiệm vụ
nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận về các hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại;
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định và thực tiễn thực hiện các quy định
về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về hạn chế để đảm bảo

4


an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, học thuyết có liên quan đến
vấn đề hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại; các quy định pháp luật về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam; thực tiễn thực hiện các quy định về hạn chế
để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
hiện nay.
Trong khuôn khổ hạn chế của một luận văn thạc sĩ, hơn nữa, do đây là một đề
tài khá rộng nên tác giả xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn này chủ
yếu tập trung vào việc phân tích, đánh giá nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn từ góc độ pháp lý về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại đối với khách hàng là tổ chức và cá nhân (không bao
gồm đối tượng khách hàng vay là tổ chức tín dụng). Về thời gian, luận văn chỉ khảo
cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về hạn chế để bảo đảm an
toàn trong hoạt động cho vay của ngân hành thương mại trong khoảng thời gian
năm năm từ 2013 đến 2017, tại một số ngân hàng thương mại trong nước điển hình

đang hoạt động tại Việt Nam.
5. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Về phương pháp tiếp cận, luận văn được triển khai thực hiện dựa trên quan
điểm, cách tiếp cận từ khía cạnh pháp lý về hành vi của Nhà nước trong quá trình
can thiệp vào hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại nhằm bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng, thông qua đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của ngân hàng thương mại và khách hàng của họ.
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học xã hội và nhân văn, chẳng
hạn như:

5


- Phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp: Được sử dụng
trong toàn bộ nội dung luận văn, từ nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng, rút ra
những vấn đề thuộc về bản chất, các quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu, từ
đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thi hành
các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Được sử dụng nhằm làm rõ sự tương đồng
và khác biệt giữa các biện pháp hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại.
- Phương pháp thống kê, khảo sát: Được sử dụng nhằm chứng minh cho các
nhận định, kết luận khoa học của tác giả trong luận văn khi giải quyết các yêu cầu
đặt ra của đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được kết cấu gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt

động cho vay của ngân hàng thương mại và pháp luật về hạn chế để bảo đảm an
toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ ĐỂ BẢO ĐẢM
AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ ĐỂ
BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề lý luận về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại
Giống như bất kỳ hình thức cấp tín dụng nào, hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cho chính ngân hàng thương
mại và cho cả hệ thống tín dụng cũng như nền kinh tế. Chính vì vậy, việc áp dụng
các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
là điều cần thiết ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
1.1.1. Sự cần thiết phải áp dụng các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại
Để lý giải sự cần thiết phải áp dụng các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại, luận văn cần làm rõ tính rủi ro trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại và ý nghĩa, tác dụng của việc áp dụng các
hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm, đặc trưng và các hình thức cho vay của ngân hàng thương
mại
Cho vay là hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài

người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo
nghĩa chung nhất được hiểu là việc một người thoả thuận để cho người khác được
quyền sử dụng tài sản của mình (vật cùng loại) trong một thời hạn nhất định với
điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối với người đó[4,

7


tr.143]. Hoạt động cho vay (nói chung) và hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại (nói riêng) bao gồm các yếu tố cấu thành cơ bản sau đây:
- Chủ thể của quan hệ cho vay bao giờ cũng có hai bên tham gia, bao gồm bên
vay và bên cho vay. Bên cho vay là người có tài sản chưa dùng đến, muốn cho
người khác sử dụng để thoả mãn một số lợi ích của mình, có thể là lợi ích vật chất
hoặc tinh thần. Còn bên vay chính là người đang cần sử dụng loại tài sản đó để thoả
mãn nhu cầu về kinh doanh hoặc tiêu dùng.
- Hình thức pháp lí của việc cho vay chính là hợp đồng tín dụng. Hợp đồng
này được các bên xác lập và thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự do ý
chí và thống nhất ý chí, nguyên tắc tự định đoạt.
- Sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi căn bản là hành vi ứng trước và
hành vi hoàn trả một số tiền nhất định. Hành vi ứng trước tài sản do người cho vay
thực hiện, còn hành vi hoàn trả được thực hiện bởi người vay sau đó một khoảng
thời gian theo sự thoả thuận giữa hai bên.
- Việc cho vay bao giờ cũng dựa trên sự tín nhiệm giữa người cho vay đối với
người đi vay về khả năng hoàn trả tiền vay.
Ngoài những dấu hiệu chung của quan hệ cho vay, hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại còn thể hiện những dấu hiệu đặc trưng như sau:
Thứ nhất, việc cho vay của ngân hàng thương mại là hoạt động nghề nghiệp
kinh doanh mang tính chức năng. Mặc dù theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các tổ
chức khác không phải là tổ chức tín dụng (trong đó có ngân hàng thương mại) cũng
có thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng như một hoạt động kinh doanh

nhưng hoạt động cho vay của các tổ chức này hoàn toàn không phải là nghề nghiệp
mang tính chức năng như đối với các tổ chức tín dụng.
Thứ hai, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng
thương mại nói riêng không chỉ đơn thuần là một nghề kinh doanh mà còn là một
nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện. Điều này thể hiện ở chỗ, hoạt động cho vay

8


chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng (trong đó có ngân hàng thương mại) phải thoả
mãn một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định; phải được Ngân hàng
Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc đăng kí kinh
doanh theo luật định.
Thứ ba, ngoài việc tuân thủ các quy định chung của pháp luật về hợp đồng,
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói
riêng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về ngân hàng, thậm chí kể cả
các tập quán thương mại về ngân hàng. Đặc điểm này bị chi phối bởi tính chất đặc
thù trong nghề nghiệp kinh doanh của các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng
thương mại nói riêng như tính rủi ro cao và sự ảnh hưởng mang tính chất dây
chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội[4, tr.144,145].
Xét về mặt lí thuyết, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng nói chung và
ngân hàng thương mại nói riêng có thể được phân loại dựa vào nhiều tiêu chí khác
nhau và mỗi cách phân loại đó đều đem lại những ý nghĩa, tác dụng nhất định. Cụ
thể là:
- Nếu căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn, hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng có thể phân chia thành ba loại: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho
vay dài hạn.
Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay trong đó thời hạn sử dụng vốn vay
do các bên thoả thuận là đến một năm. Hình thức cho vay này chủ yếu nhằm đáp
ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động kinh doanh hoặc thoả

mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong thời hạn ngắn.
Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay trong đó thời hạn sử dụng vốn vay
do các bên thoả thuận là từ trên một năm đến năm năm. Hình thức cho vay này
thường được sử dụng để thoả mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định của khách hàng
trong kinh doanh hoặc thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở,
phương tiện đi lại…
Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay trong đó thời hạn sử dụng vốn vay do

9


các bên thoả thuận là từ trên năm năm. Giống như đối với hình thức cho vay trung
hạn, hình thức cho vay này cũng thường được sử dụng để thoả mãn nhu cầu mua
sắm tài sản cố định của khách hàng trong kinh doanh hoặc thoả mãn nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng như: mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại, đầu tư bất động sản...
- Nếu căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay, hoạt động cho vay của
tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng có thể phân chia
thành hai loại: Cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản.
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: Là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ trả
nợ tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba. Để xác
lập và thực hiện việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, giữa tổ chức tín dụng (trong
đó có ngân hàng thương mại) và khách hàng vay (hoặc có thể liên quan đến người
thứ ba trong trường hợp bảo đảm tiền vay bằng biện pháp bảo lãnh) phải ký kết cả
hai loại hợp đồng, bao gồm hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (hợp
đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh). Tuy nhiên, do pháp luật
không cấm các bên có thể thoả thuận lập hợp đồng tín dụng trong đó có điều khoản
về bảo đảm tiền vay nên trong trường hợp này các thoả thuận về bảo đảm tiền vay
được xem là bộ phận hợp thành của hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.
Thực tế cho thấy vì lý do phòng chống rủi ro pháp lý trong kinh doanh, các ngân

hàng thương mại thường ít khi sử dụng phương thức thỏa thuận một điều khoản về
bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng mà sẽ ký kết một hợp đồng bảo đảm
riêng, tách biệt hoàn toàn với hợp đồng tín dụng.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: Là hình thức cho vay trong đó nghĩa
vụ hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản của khách hàng vay hoặc
của người thứ ba. Để thực hiện việc cho vay theo hình thức này, thông thường các
bên chỉ cần giao kết một hợp đồng duy nhất là hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, trong
trường hợp tổ chức tín dụng cho vay có bảo lãnh bằng tín chấp thì mặc dù khoản
vay này không thể xem là khoản vay có bảo đảm bằng tài sản nhưng người bảo lãnh

10


bằng tín chấp vẫn phải xác lập văn bản cam kết bảo lãnh bằng uy tín của mình và
gửi cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay có thể được tổ chức tín dụng chấp nhận
cho vay.
- Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng đối với khách hàng được chia
thành hai loại: Cho vay kinh doanh và cho vay tiêu dùng.
Cho vay kinh doanh: Là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền
vay sẽ được bên vay sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của
mình. Nếu sau khi được giải ngân mà người vay lại sử dụng vốn vào mục đích khác
với thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay có quyền áp dụng các chế tài
thích hợp như đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước thời hạn…
Cho vay tiêu dùng: Là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền vay
sẽ được bên vay sử dụng vào việc thoả mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như
mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, thậm chí bao gồm
cả việc sử dụng vốn vay vào mục đích học tập của sinh viên, học viên…[4,
tr.146,147].
- Nếu căn cứ vào phương thức cho vay, hoạt động cho vay của tổ chức tín

dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng đối với khách hàng được chia
thành các loại gồm: Cho vay từng lần; cho vay theo hạn mức tín dụng; cho vay đầu
tư dự án; cho vay hợp vốn; cho vay trả góp; cho vay theo hạn mức tín dụng dự
phòng; cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng; cho vay
theo hạn mức thấu chi...
Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay theo đó mỗi lần vay vốn, khách
hàng và tổ chức tín dụng phải thực hiện thủ tục vay vốn và kí kết hợp đồng tín dụng
theo quy định.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Với phương thức này, tổ chức tín dụng và
khách hàng xác định và thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong khoảng thời gian
nhất định đồng thời kí kết hợp đồng tín dụng cho cả thời gian duy trì hạn mức tín

11


dụng đó.
Cho vay theo dự án đầu tư: Với phương thức này, tổ chức tín dụng cho khách
hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn: Theo phương thức này, một nhóm tổ chức tín dụng cùng
cho vay đối với dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có
một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của Quy chế này và Quy chế đồng tài
trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo
nhiều kì hạn trong thời hạn cho vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ
chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự

phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Theo
phương thức này, tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn
vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và
rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín
dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách
hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả
thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản
thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán.

12


Ngày nay, trong điều kiện quốc tế hoá cao độ hoạt động ngân hàng và sự bùng
nổ mạnh mẽ của các dịch vụ tài chính, việc phân loại như trên đây về các hình thức
cho vay của tổ chức tín dụng sẽ chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế, để cạnh
tranh với sức hấp dẫn vốn có của thị trường chứng khoán - với ý nghĩa là kênh dẫn
vốn trực tiếp trong nền kinh tế, các tổ chức tín dụng đang có xu hướng ngày càng
mở rộng các sản phẩm mới về dịch vụ tài chính, trong đó bao gồm cả việc đa dạng
hoá mạnh mẽ các hình thức cho vay đối với khách hàng.
1.1.1.2. Tính rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro được hiểu là những nguy cơ tiềm tàng có
thể dẫn đến thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho một chủ thể hoặc một nhóm chủ
thể nhất định. Một trong đặc tính của rủi ro là tính khó xác định, nghĩa là chúng ta
khó xác định được rủi ro có thể xảy ra hoặc không xảy ra, xảy ra lúc nào, thiệt hại ở
mức độ nào? Do vậy, trong hoạt động của con người nói chung và hoạt động kinh

doanh nói riêng cần tìm ra những biện pháp để hạn chế thấp nhất rủi ro hoặc khi xảy
ra có thể hạn chế tối đa những thiệt hại.
Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, hoạt động từ lĩnh vực tín
dụng (bao gồm các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân
hàng và các hoạt động nghiệp vụ khác) là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất
nhưng đồng thời cũng là hoạt động gặp nhiều rủi ro nhất. Những rủi ro từ hoạt động
tín dụng cũng gây thiệt hại lớn cho ngân hàng thậm chí có thể làm phá sản ngân
hàng. Rủi ro tín dụng, hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những khả năng mà theo đó
ngân hàng thương mại không thể cho vay hoặc cho vay nhưng không thể thu hồi
đầy đủ và đúng hạn các khoản tín dụng đã cấp cho khách hàng khi đến hạn thanh
toán.
Xét về phương diện lý thuyết, các rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại được thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, bản chất của rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại là vấn đề nợ xấu khi đến hạn thanh toán nhưng người vay không trả được nợ

13


vay cho ngân hàng, có thể dẫn đến nguy cơ mất vốn. Đây là rủi ro lớn nhất đối với
ngân hàng thương mại khi cấp tín dụng cho khách hàng nói chung và cho vay đối
với khách hàng nói riêng. Về lý thuyết, nguy cơ rủi ro mất vốn có thể bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất
vẫn là do quy trình quản lý rủi ro của ngân hàng thương mại chưa đáp ứng được yêu
cầu theo chuẩn mực quốc tế, dẫn đến khả năng khách hàng không trả nợ vay khi đến
hạn mà ngân hàng vẫn không thể thu hồi được vốn. Điều này đặt ra vấn đề là Nhà
nước phải can thiệp như thế nào để hạn chế các rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại.
Thứ hai, đặc trưng của rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại là có ảnh hưởng mang tính chất dây chuyền đến quyền và lợi ích hợp pháp của

nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội, bao gồm: lợi ích của người gửi tiền tại ngân
hàng; lợi ích của Nhà nước và nền kinh tế; lợi ích của những người vay tiền khác tại
ngân hàng thương mại; lợi ích của các chủ sở hữu ngân hàng. Do tính chất dây
chuyền của rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại nên Chính
phủ thường có những động thái can thiệp mạnh mẽ vào hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại thông qua việc quy định các giới hạn an toàn đối với hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại như: cấm ngân hàng cho vay đối với một số chủ
thể nhất định có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, cấm ngân hàng cho vay đối với
một khách hàng vượt quá tỷ lệ 15% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng thương
mại, buộc các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro theo tỷ lệ do pháp luật quy
định...
Thứ ba, các rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại tuy là
khó dự đoán trước nhưng về lý thuyết cũng như trên thực tế, các ngân hàng thương
mại luôn luôn ý thức được các rủi ro này để từ đó chủ động kiểm soát rủi ro nhằm
phòng ngừa các nguy cơ mất vốn. Việc chủ động kiểm soát rủi ro của ngân hàng
thương mại có thể được thực hiện bằng nhiều giải pháp như: xây dựng và vận hành
một cách hiệu quả quy trình kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại; tuân thủ triệt để các quy định của Nhà nước về hạn chế để bảo đảm an

14


toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại; chủ động và linh hoạt
trong việc áp dụng các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay theo hợp đồng
tín dụng...
1.1.1.3. Ý nghĩa của việc áp dụng các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại
Về phương diện lý thuyết, việc áp dụng các hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có ý nghĩa, tác dụng cơ bản như sau:
Thứ nhất, đối với ngân hàng thương mại, việc áp dụng các hạn chế để bảo đảm

an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có tác dụng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chính ngân hàng thương mại - trong đó quan trọng
nhất chính là quyền chủ nợ của ngân hàng thương mại phát sinh từ hợp đồng tín
dụng đã ký kết với khách hàng. Có ý kiến cho rằng việc Nhà nước áp dụng các hạn
chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại là sự
can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh và quyền tự do kinh doanh của ngân
hàng thương mại. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng bản chất của hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất lớn cho chính ngân hàng
cho vay và cho cả hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế, từ đó có ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế nên Nhà nước phải can thiệp để bảo vệ lợi ích chung của nền
kinh tế. Thực tế này đã và đang diễn ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả ở các
quốc gia phát triển chứ không riêng gì những quốc gia đang phát triển như Việt
Nam.
Thứ hai, đối với Nhà nước và nền kinh tế, việc áp dụng các hạn chế để bảo
đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại chính là giải pháp
để giúp Nhà nước kiểm soát và quản lý hiệu quả hơn đối với một nền kinh tế luôn
chịu sự tác động trực tiếp bởi các yếu tố rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng. Sở dĩ như vậy là bởi vì, hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại nói riêng luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất lớn cho
chính ngân hàng thương mại và cho cả hệ thống ngân hàng, cho nền kinh tế và đời

15


sống xã hội, điều đó đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi Nhà nước phải quy định và
áp dụng các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại. Đây cũng là một trong những nội dung quản lý của nhà nước đối với
nền kinh tế theo định hướng thị trường.
Thứ ba, đối với bên thứ ba (bao gồm: người gửi tiền tại ngân hàng, người vay
tiền của ngân hàng, chủ sở hữu ngân hàng...), việc áp dụng các hạn chế để bảo đảm

an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có ý nghĩa, tác dụng
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba trước nguy cơ rủi ro từ hoạt động
cho vay của ngân hàng mang lại. Điều này thể hiện ở chỗ:
Đối với người gửi tiền tại ngân hàng, việc rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại có thể dẫn đến sự rủi ro cho những người gửi tiền tại ngân
hàng, bởi lẽ nếu ngân hàng thương mại không thu hồi được nợ vay thì cũng đồng
nghĩa với việc họ không có tiền để thanh toán cho người gửi tiền khi chủ thể này
yêu cầu thanh toán cả gốc và lãi tiền gửi.
Đối với người vay tiền tại ngân hàng, việc rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại sẽ tác động trực tiếp đến việc ngân hàng thương mại có sẵn
sàng chấp nhận và giải ngân cho khách hàng vay mới được hay không, trong khi
những khoản vay cũ đang lâm vào tình trạng nợ xấu và có có khả năng thu hồi.
Đối với chủ sở hữu ngân hàng, việc rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại dẫn đến làm giảm lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng thương
mại, thậm chí làm giảm vốn và mất vốn điều lệ của ngân hàng thương mại, từ đó
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu ngân hàng những người đã chấp nhận bỏ tiền ra để thành lập ngân hàng.
1.1.2. Khái niệm các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Để làm rõ hơn bản chất của các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại, thiết nghĩ cần làm rõ khái niệm và bản chất của
các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.

16


Trong pháp luật thực định, hiện tại không có một định nghĩa chính thức nào về
các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, khi quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân
hàng (trong đó có hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại), nhà làm luật đã
liệt kê một số quy định cơ bản bao gồm:

(i) Các trường hợp không được cấp tín dụng;
(ii) Các trường hợp hạn chế cấp tín dụng;
(iii) Giới hạn cấp tín dụng;
(iv) Giới hạn góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng;
(v) Tỷ lệ đảm bảo an toàn;
(vi) Dự phòng rủi ro;
(vii) Quyền và trách nhiệm của công ty kiểm soát...
Với cách liệt kê trên đây về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại, có thể nhận thấy rằng khái niệm các hạn chế để
bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại là một chủ đề
rất rộng, liên quan đến nhiều nội dung khác nhau nhưng có cùng chung mục đích
giống nhau, đó là bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế thị trường.
Trong khoa học pháp lý, mặc dù đã có một số ý kiến đề cập đến thuật ngữ này
nhưng chỉ là những bàn luận có liên quan đến các hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại chứ chưa phải là những định nghĩa có
tính cách chính thức để có thể tham khảo.
Từ thực tiễn trên đây về kết quả nghiên cứu, tìm hiểu khái niệm các hạn chế để
bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại trong pháp luật
thực định cũng như trong khoa học pháp lý, theo ý kiến của tác giả, có thể đưa ra
định nghĩa về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân

17


hàng thương mại như sau:
Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại là tổng thể các quy định của Nhà nước được áp dụng đối với ngân hàng
thương mại và các chủ thể khác có liên quan nhằm hạn chế nguy cơ rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.

Định nghĩa nêu trên đã phản ánh phần nào bản chất của các hạn chế để bảo
đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại trên các khía cạnh
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, mục đích của việc thiết lập các hạn chế này là để nhằm bảo đảm an
toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại trong điều kiện cạnh tranh
khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, việc thiết lập các hạn chế để bảo đảm
an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại còn nhằm mục đích
đảm bảo sự vận hành an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế, từ
đó góp phần đảm bảo sự an toàn cho nền kinh tế và đời sống xã hội.
Thứ hai, chủ thể thiết lập các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại chính là Nhà nước - với tư cách là chủ thể quản lý
các hoạt động kinh tế trong lãnh thổ của mỗi quốc gia, trong đó có hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại. Bởi vì, chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành
pháp luật để đặt ra các hạn chế nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại. Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại thì chính ngân hàng thương mại cũng có
vai trò rất quan trọng trong việc thiết kế và vận hành các quy trình, quy chế nội bộ
về quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay của mỗi ngân hàng thương mại. Trong
trường hợp này, cần phân biệt rõ ranh giới giữa thẩm quyền quản lý nhà nước về
ngân hàng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với quyền tự do kinh doanh của
ngân hàng thương mại.
Thứ ba, nội dung của các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại bao gồm các quy định về: Các trường hợp không được

18


cấp tín dụng; các trường hợp hạn chế cấp tín dụng; giới hạn cấp tín dụng; giới hạn
góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng; tỷ lệ đảm bảo an toàn; dự phòng rủi ro;
quyền và trách nhiệm của công ty kiểm soát, các hạn chế đối với ngân hàng thương

mại trong kinh doanh bất động sản...
Trên nguyên tắc, các quy định này được áp dụng chung và thống nhất đối với
tất cả các loại hình tổ chức tín dụng, trong đó có ngân hàng thương mại, ngoại trừ
các ngoại lệ đã được quy định trong luật (nếu có) đối với một số trường hợp cụ thể
theo quan điểm của nhà làm luật.
1.1.3. Các biện pháp hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Như đã đề cập ở trên, việc quy định các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại luôn được các quốc gia trên thế giới quan
tâm và ghi nhận trong các đạo luật của nước mình, trong đó có đạo luật về ngân
hàng.
Qua khảo sát thực tiễn pháp luật của các quốc gia về vấn đề này cho thấy, các
hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
thường được thiết kế bao gồm hai nhóm biện pháp cơ bản sau đây:
Nhóm thứ nhất, Nhà nước quy định những hành vi bị cấm đối với ngân hàng
thương mại, công ty kiểm soát của ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm an toàn
trong hoạt động cho vay.
Việc quy định các hành vi bị cấm được xem là giải pháp tốt và khá hiệu quả
nhằm thiết lập các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại. Các hành vi bị cấm này chủ yếu hướng đến chủ thể cho vay là
ngân hàng thương mại, bởi vì các rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay được cho
rằng chủ yếu phát sinh từ những hành vi cho vay không đạt chuẩn của ngân hàng
thương mại trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Về phương diện lý thuyết, Nhà nước có thể quy định các hành vi bị cấm sau

19


×