Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Pháp luật về nhượng quyền thương mại vào thị trường việt nam của các doanh nghiệp nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 95 trang )

NGUYỄN VĂN CƯỜNGLUẬT KINH TẾ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

2015 - 2017

PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀO
THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NƯỚC NGOÀI

NGUYỄN VĂN CƯỜNG

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀO
THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NƯỚC NGOÀI

NGUYỄN VĂN CƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107



TS. NGUYỄN BÁ BÌNH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Cường


LỜI CẢM ƠN

Được sự đồng ý của Viện Đại học Mở Hà Nội và của TS. Nguyễn Bá Bình,
tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về nhượng quyền thương mại vào thị trường Việt
Nam của các doanh nghiệp nước ngoài” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ
luật học của mình.
Để hoàn thành công trình này, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên
hướng dẫn trực tiếp: Tiến sĩ Nguyễn Bá Bình đã tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi, kể
từ khi hình thành ý tưởng đến khi hoàn thiện. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy
cô trong trường Viện Đại học Mở Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô Khoa Sau đại học

đã luôn có những nhắc nhở kịp thời để tôi có thể hoàn thiện luận văn đúng thời hạn,
cảm ơn Nhà trường đã tạo mọi điều kiện tốt nhất.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên tôi thực hiện nghiên cứu một đề tài có tính chuyên
sâu, còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót mà bản thân còn chưa nhận thấy được. Tôi rất mong được sự góp ý của các thầy
cô và các bạn để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Cường


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG
MẠI ........................................................................................................................ 6
1.1. Định nghĩa nhượng quyền thương mại...................................................... 6
1.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại ................................................ 10
1.3. Phân loại các hình thức nhượng quyền thương mại ............................... 13
1.4. Tác động của hoạt động nhượng quyền thương mại .............................. 13
1.4.1. Đối với bên nhượng quyền ................................................................... 14
1.4.2. Đối với bên nhận quyền ....................................................................... 16
1.4.3. Đối với nền kinh tế .............................................................................. 17
1.5. Lược sử pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động nhượng quyền
thương mại của doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam ................................. 19
1.6. Kết luận Chương 1 ................................................................................... 22

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀO THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM CỦA
DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI..................................................................... 24
2.1. Qui định của pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại của
doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam ............................................................ 24
2.1.1. Chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp
nước ngoài ở Việt Nam.................................................................................. 24
2.1.2. Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp
nước ngoài ở Việt Nam.................................................................................. 33
2.1.3. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp
nước ngoài ở Việt Nam.................................................................................. 37
2.1.4. Hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp
nước ngoài ở Việt Nam.................................................................................. 48


2.2. Qui định của pháp luật đối với Bản giới thiệu về nhượng quyền thương
mại.................................................................................................................... 49
2.2.1. Yêu cầu về chuyển giao bản giới thiệu nhượng quyền .......................... 50
2.2.2. Yêu cầu về nội dung của bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại . 50
2.3. Đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại ....................................... 57
2.4. Kết luận Chương 2 ................................................................................... 60
CHƯƠNG 3: HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI CỦA
DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ............................................................................................ 62
3.1. Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam ................................................................................. 62
3.1.1. Hệ thống Subway ................................................................................. 63
3.1.2. Domino’s Pizza ................................................................................... 72
3.2. Một số đánh giá và đề xuất về pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động
nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam ...... 75

3.2.1. Những mặt tích cực ............................................................................. 75
3.2.2. Những mặt hạn chế còn tồn tại và một số đề xuất hoàn thiện pháp luật
Việt Nam điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam................................................................................ 76
3.3. Kết luận Chương 3 ................................................................................... 83
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 85


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Được xem như là một trong những phương thức kinh doanh hữu hiệu, mang
lại danh tiếng và lợi nhuận cho các thương nhân cũng như sự tăng trưởng vững chắc
cho cả nền kinh tế, nhượng quyền thương mại (franchise – sau đây gọi là nhượng
quyền thương mại) đang là phương thức kinh doanh có mặt ở khắp nơi trên thế giới
và đã ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò cũng như chứng tỏ được sự thành
công của nó.
Nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh có lợi cho cả hai bên.
Đối với bên nhượng quyền, doanh nghiệp có thể mở rộng mô hình kinh doanh, tăng
doanh thu, tiết giảm chi phí, tăng nhanh uy tín, thương hiệu. Đối với bên nhận
nhượng quyền, số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu thấp lại có thể thu hồi và sinh lợi nhanh
vì đầu tư an toàn và có khách hàng ngay; dễ vay tiền ngân hàng, được chủ thương
hiệu giúp đỡ trong quá trình kinh doanh. Như vậy, thông qua hình thức nhượng
quyền thương mại, bí quyết kinh doanh của những doanh nghiệp thành công sẽ
được chuyển giao và nhân rộng cho nhiều doanh nghiệp khác và như thế sẽ hạn chế
nhiều thiệt hại, rủi ro cho nền kinh tế nói chung.
Không chỉ giới hạn trong lãnh thổ quốc gia, nhiều công ty, tập đoàn lớn trên
thế giới đã chọn nhượng quyền thương mại là một trong những phương thức để mở
rộng hệ thống kinh doanh của mình ra nhiều nước trên thế giới.
Phương thức này được coi là khởi nguồn tại Mỹ vào giữa thế kỉ 19. Tuy

nhiên, ở Việt Nam, nhượng quyền thương mại vẫn là phương thức kinh doanh khá
mới mẻ. Việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh cả trong và ngoài nước.
Những năm gần đây đã có không ít những thương hiệu lớn “xâm nhập” vào thị
trường nước ta thông qua hình thức nhượng quyền thương mại và đã tạo ra một mô
hình kinh doanh hiệu quả như: KFC (Singapore); Lotteria (Hàn Quốc); Cleverlearn

1


(Mỹ); Gloria Jean’s Coffee (Australia). Cùng với xu hướng phát triển này, hàng loạt
các doanh nghiệp có tên tuổi ở Việt Nam đã tiến hành nhượng quyền thương mại ở
trong và ngoài nước như: Cà phê Trung Nguyên, Phở 24, AQ Silk, Kinh đô Bakery,
Thời trang Foci…. Có thể nói, nhượng quyền thương mại là một trong những “chìa
khóa vàng” mở ra những cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư Việt Nam nhanh
chóng “hòa nhập sâu rộng” vào nền kinh tế toàn cầu.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật pháp luật Việt Nam đã có những qui định
khá đầy đủ về hoạt động nhượng quyền thương mại. Có thể nói, sau gần 12 năm kể từ
khi Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực, hệ thống pháp luật đó đã tạo ra hành
lang pháp lý quan trọng cho các doanh nghiệp nước ngoài tiến hành nhượng quyền
thương mại. Do đó, việc nhìn lại hệ thống pháp luật này và đưa ra đánh giá về thực
trạng hoạt động cũng như pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại
của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam là điều cần thiết. Chính vì lẽ đó, tác giả
quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về nhượng quyền thương mại vào thị trường
Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài”làm Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu
Ở Việt Nam, nhượng quyền thương mại là một chế định pháp lý được qui
định trong Luật Thương mại năm 2005. Hiện nay, ở nước ta đã có không ít những
công trình nghiên cứu về hoạt động này nhưng chỉ dừng lại nghiên cứu nhượng
quyền thương mại ở khía cạnh kinh tế như: Sách chuyên khảo “Nhượng quyền

thương mại tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đông Phong, Nxb Đại học kinh tế
quốc dân năm 2008; “Franchise chọn hay không” của tác giả Nguyễn Khánh Trung,
Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh năm 2008; “Mua Franchise – Cơ hội
mới cho các doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả Lý Qúi Trung, Nxb Trẻ năm
2008; hoặc ở dưới góc độ pháp lý nhưng chỉ giới hạn ở một trong những nội dung
cụ thể có liên quan đến nhượng quyền thương mại như về Hợp đồng nhượng quyền
thương mại có một số bài viết đăng trên các tạp chí như: “Các điều khoản độc
quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại” của tác giả Bùi Ngọc Cường
đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2007; bài viết: “Một số vấn đề pháp lý

2


về chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại” của tác giả Vũ Đặng Hải Yến
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 4/2008; bài viết: “Bước đầu tìm hiểu hợp
đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài dưới giác độ pháp luật Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Bá Bình đăng trên tạp chí Luật học số 5/2008.
Ngoài ra, cũng phải kể đến một số công trình tiếp cận nghiên cứu nhượng
quyền thương mại nhưng ở góc độ tổng quát hệ thống pháp luật về lĩnh vực này như:
Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Đặng Minh Tân với đề tài: “Nhượng quyền thương
mại của doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam – Thực trạng, khung pháp luật và một
số khuyến nghị” năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Minh
Huệ với đề tài: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại tại
Việt Nam” năm 2005; Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Vũ Đặng Hải Yến với đề
tài: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương
mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” năm 2008…
Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu nêu trên cho thấy,đã có một số công
trình nghiên cứu liên quan đến nhượng quyền thương mại, nhưng vẫn chưa có một
công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu về hoạt động nhượng
quyền thương mại vào thị trường Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài cũng

như pháp luật điều chỉnh hoạt động này.
3. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở những lý luận cơ bản về hoạt động nhượng quyền thương mại
và pháp luật về nhượng quyền thương mại ở Việt Nam sẽ làm sáng tỏ những nội
dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của
doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam và đưa ra những đánh giá tổng quát, cụ thể về
hoạt động nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp nước ngoài vào thị
trường Việt Nam;
- Phân tích thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh
nghiệp nước ngoài tại Việt Nam; đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại
trong các qui định của pháp luật về vấn đề này;

3


- Đề xuất một vài quan điểm hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động nhượng
quyền thương mại vào thị trường Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến hoạt động
nhượng quyền thương mại vào thị trường Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài
trong pháp luật Việt Nam như các điều kiện đối với chủ thể của hoạt động nhượng
quyền này; các qui định của pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại ….
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu phân tích các qui định của pháp luật
Việt Nam về hoạt động nhượng quyền thương mại vào thị trường Việt Nam của các
doanh nghiệp nước ngoài mà không nghiên cứu pháp luật nước ngoài, điều ước
quốc tế về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý phổ biến
như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và đối chiếu, phương pháp tổng

hợp, phương pháp thống kê. Các phương pháp này được sử dụng nghiên cứu trên
nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lê nin, trên cơ sở các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong đó, phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng để làm sáng tỏ các
qui định của pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh
nghiệp nước ngoài ở Việt Nam cũng như để đánh giá thực trạng hoạt động này.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đánh giá khái quát, rút ra kết luận về
từng vấn đề trong phạm vi nghiên cứu và đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu
quả điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh
nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
03 chương như sau:

4


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại
Chương 2: Nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt độngnhượng quyền thương
mại vào thị trường Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài
Chương 3: Hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước
ngoài tại Việt Nam – Thực trạng và một số đề xuất

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI
1.1. Định nghĩa nhượng quyền thương mại

Nhượng quyền thương mại, tiếng Anh là franchise, là khái niệm xuất hiện từ
giữa thế kỉ 19 tại Châu Âu. Franchise có nguồn gốc tiếng Pháp “franc” có nghĩa là
tự do, tiếng Anh là “free” [25, tr.12]. Nhiều tài liệu tiếng Việt dịch “franchise” là
nhượng quyền kinh doanh hoặc nhượng quyền thương mại, tức là cho phép ai đó
được bán hàng hóa hay dịch vụ của bên có quyền tại một khu vực cụ thể nào đó
mang thương hiệu của bên có quyền.
Có thể nói, nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh rất phổ
biến trên thế giới. Đã có nhiều tổ chức về nhượng quyền thương mại như: Hiệp hội
nhượng quyền thương mại quốc tế (IFA – International Franchise Association), Hội
đồng nhượng quyền thương mại thế giới (WFC); Ủy ban thương mại liên bang Hoa
Kỳ (the US Federal Trade Commission – FTC)… để hỗ trợ các doanh nghiệp trong
lĩnh vực này. Hoạt động nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại đã
thành công ở nhiều nước trên thế giới và ngày càng phát triển, trong đó có cả các
nước Châu Á. Tuy nhiên, khái niệm “franchise” không có sự thống nhất do quan
điểm chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau ở các nước trên thế giới. Do đó, liên quan
đến định nghĩanhượng quyền thương mại có một số cách hiểu khác nhau như sau:
Một là, theo Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế, hiệp hội lớn nhất
nước Mỹ và thế giới đã định nghĩa nhượng quyền thương mại như sau: “nhượng
quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa bên giao và bên nhận quyền,
theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp
của bên nhận quyền trên các khía cạnh như: bí quyết kinh doanh, đào tạo nhân viên;
Bên nhận quyền hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức, phương pháp
kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến

6


hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình” [45].
Theo quan điểm này, vai trò của bên giao quyền được nhấn mạnh bởi việc kiểm soát
liên tục cách thức kinh doanh, còn bên nhận quyền được nhấn mạnh bởi sự đầu tư

vốn của chính họ vào công việc kinh doanh đó.
Hai là, Ủy ban thương mại liên bang Hoa kỳ lại đưa ra cách hiểu về nhượng
quyền thương mại thông qua Hợp đồng nhượng quyền thương mại, mà trong đó,
Bên giao hỗ trợ đáng kể cho bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm
soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của bên nhận; lixăng nhãn hiệu
cho bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của bên
giao; và yêu cầu bên nhận thanh toán cho bên giao một khoản phí tối thiểu. [40]
Ba là, theo Qui tắc đạo đức về nhượng quyền thương mại của Châu Âu thì
“nhượng quyền thương mại là một loạt các hoạt động tiếp thị bán hàng hóa, dịch vụ
hay công nghệ cơ bản dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa các bên độc lập về tài chính
và pháp lý, gọi là Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền. Theo đó, bên nhượng
quyền trao cho bên nhận quyền các quyền và yêu cầu bên nhận quyền phải tuân thủ
các qui tắc và tiến hành kinh doanh theo nguyên tắc của bên trao quyền. Bên nhận
quyền sẽ phải trả một khoản phí trực tiếp hay gián tiếp để có được quyền kinh doanh
từ bên nhượng quyền, là các quyền sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu thương mại
hoặc nhãn hiệu dịch vụ, bí quyết, các phương thức kĩ thuật kinh doanh, hệ thống thủ
tục, quyền sở hữu trí tuệ khác nếu có” [41]. Bên nhận quyền còn được hỗ trợ bởi các
điều khoản của hợp đồng nhượng quyền thương mại được ký kết giữa các bên như hỗ
trợ về đào tạo, quảng cáo, quản lý….
Bốn là, luật Mêhicô đề cập tới lợi ích của việc nhượng quyền thương mại về
mặt hỗ trợ kĩ thuật và nhấn mạnh tới việc chuyển giao “kiến thức kĩ thuật”
(technical knowledge) để bán sản phẩm, dịch vụ đồng bộ và có chất lượng.
“Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li xăng cấp quyền sử dụng một
thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ kỹ thuật
để một người sản xuất, chế tạo hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ
với phương pháp vận hành, các hoạt động thương mại, hoặc hành chính đã được

7



chủ thương hiệu thiết lập, với chất lượng, danh tiếng, hình ảnh của sản phẩm, hoặc
dịch vụ đã được tạo lập dưới thương hiệu đó” [45].
Năm là, ở Nga thỏa thuận nhượng quyền thương mại được định nghĩa là “sự
nhượng quyền thương mại” (commercial concession). Chương 54 Bộ luật dân sự
Nga định nghĩa bản chất pháp lý của sự nhượng quyền thương mại như sau: “Theo
hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia
(bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền
được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các
quyền độc lập của bên có quyền bao gồm: quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương
mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối
với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ… [45]. Như vậy,
định nghĩa của Nga nghiêng về phía Bên có quyền chuyển giao một số quyền sở
hữu trí tuệ độc quyền cho bên nhận với một khoản phí nhất định mà không đề cập
tới việc kiểm soát hay hỗ trợ hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền cũng như
nghĩa vụ của bên nhận quyền. Định nghĩa này tương tự như khái niệm về chuyển
giao công nghệ trong pháp luật Việt Nam.
Sáu là, Giáo sư Andrew Terry – Hiệu trưởng Trường Luật kinh doanh và
thuế quan thuộc Đại học New South Wales (Úc) đưa ra bản chất và hoạt động của
hệ thống nhượng quyền thương mại như sau: “nhượng quyền thương mại là hệ
thống huy động được sự sáng tạo, năng động và ngày càng trở thành một phương
thức kinh doanh phổ biến đối với những doanh nghiệp đang tồn tại và mới hình
thành. Trong hệ thống nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền phải phát triển
được những khái niệm kinh doanh đã thành công và đã được công nhận và xây
dựng xung quanh những người nhận quyền hệ thống đã được thừa nhận, những li
xăng để người nhận quyền sử dụng khái niệm và hệ thống của họ theo một phương
thức được kiểm soát tại một địa điểm xác định và một thời điểm nhất định tại cơ sở
kinh doanh của người nhận quyền hoặc tại những cơ sở khác [54].

8



Ngoài ra, còn có quan niệm khác cho rằng nhượng quyền thương mại là
nhượng quyền một mô hình kinh doanh (Business format franchises), tức là bên
nhượng quyền cấp Giấy phép trao quyền cho bên nhận quyền sử dụng mô hình, kỹ
thuật kinh doanh, sản phẩm, dịch vụ dưới thương hiệu của bên nhượng quyền. Bên
nhận quyền phải đóng một khoản phí để có được quyền này và một tỷ lệ phần trăm
trên doanh thu gộp trong giai đoạn khai thác đặc quyền.
Điều 285 Luật Thương mạinăm 2005 của Việt Nam có định nghĩa về nhượng
quyền thương mại như sau:
“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng
quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức
tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền qui định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
Như vậy, cho dù dưới những cách tiếp cận khác nhau, ở những tổ chức, quốc
gia khác nhau nhưng tựu chung lại, hoạt động nhượng quyền thương mại có một số
những dấu hiệu cơ bản để nhận diện như sau:
Thứ nhất, nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại, được
thực hiện bởi ít nhất hai bên chủ thể khác nhau và độc lập với nhau về mặt pháp lý:
Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền;
Thứ hai, Đối tượng của nhượng quyền thương mại là quyền thương mại.
Quyền thương mại được hiểu là quyền tiến hành kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo
cách thức của bên nhượng quyền qui định, cùng với đó là việc sử dụng một tập hợp
các dấu hiệu như: nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo…của bên nhượng quyền


9


Thứ ba, nhượng quyền thương mại là cách bán quyền thương mại của bên
nhượng quyền với điều kiện có thu phí và được quyền kiểm soát hoạt động kinh
doanh của bên nhận quyền.
Thứ tư,Phạm vi quyền thương mại được cụ thể hóa trong hợp đồng, có thể là
sự thỏa thuận giữa các bên cũng có thể là do ý chí của bên nhượng quyền đưa ra và
bên nhận quyền chấp nhận. Bên nhận quyền tự mình kinh doanh, tức là khai thác
các “quyền thương mại” của bên nhượng quyền, thông thường là bán hàng hóa, dịch
vụ gắn với một nhãn hiệu đã nổi tiếng, được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận.
Bên nhận quyền tự mình kinh doanh những hàng hóa đã có sẵn và theo phương thức
do bên nhượng quyền qui định mà không được phép thay đổi phương thức kinh
doanh đó theo ý tưởng sáng tạo của mình. Tức là bên nhận quyền chỉ việc khai thác
các quyền thương mại sẵn có trong hệ thống kinh doanh mà không được thay đổi
hình ảnh, cách sắp xếp, bố trí không gian, biểu tượng quảng cáo. Bên nhận quyền
kinh doanh như một “mắt xích” trong hệ thống nhượng quyền của bên nhượng
quyền kinh doanh. Do vậy, bên nhận quyền sẽ bị hạn chế quyền chủ động trong quá
trình kinh doanh. Nếu như hệ thống kinh doanh tốt, thì bên nhận quyền sẽ được lợi
nhuận, trong trường hợp kinh doanh không tốt, bên nhận quyền vẫn phải chịu trách
nhiệm trả phí thường xuyên để duy trì hoạt động kinh doanh, hoặc muốn chấm dứt
hợp đồng trước thời hạn cũng phải chịu một số ràng buộc nhất định về thời hạn hợp
đồng, hoặc phải chịu bồi thường rất lớn. Điều này cho thấy, nhượng quyền kinh
doanh là một phương thức kinh doanh nhưng không phải là phương thức đảm bảo
thành công cho các bên theo hình thức này.
1.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại đặc thù, có những
đặc điểm riêng biệt so với các hoạt động thương mại khác. Cụ thể như sau:
Một là, về tính đồng bộ, thống nhất trong hoạt động nhượng quyền thương mại
Đây là một trong những đặc trưng không thể thiếu của hoạt động nhượng

quyền thương mại bởi đó chính là cơ sở cốt lõi mang tính bản chất cho việc tồn tại

10


và phát triển của hệ thống nhượng quyền. Ông Albert Kong – một chuyên gia quốc
tế về frachise đã từng nói rằng: “Franchise là nhân bản vô tính” [26, tr. 33]. Điều
này có nghĩa là các cơ sở nhận quyền phải là một bản sao của cửa hàng nhượng
quyền, để khách hàng khi bước vào bất cứ cơ sở nào của một hệ thống nhượng
quyền đều khó có thể tìm thấy sự khác nhau giữa chúng. Khi một hệ thống nhượng
quyền mất đi tính đồng bộ, thống nhất cũng có nghĩa là hệ thống đó đang đứng
trước nguy cơ sụp đổ.
Hai là, về quyền sở hữu
Bên nhượng quyền sở hữu một thương hiệu, dịch vụ, ý tưởng, qui trình, bí
mật sản xuất, sáng chế, một phần trang thiết bị đặc biệt hoặc bí quyết công nghệ liên
quan đến lĩnh vực kinh doanh. Quyền sở hữu này thuộc về bên nhượng quyền ban
đầu (hay còn gọi là nhượng quyền sơ cấp). Trong trường hợp là bên nhượng quyền
thứ cấp, thì không có quyền sở hữu mà chỉ được quyền sử dụng và phải được phép
của bên nhượng quyền ban đầu khi muốn cấp phép lại cho bên thứ ba. Quyền hạn
của bên nhận quyền về “quyền kinh doanh” sẽ do bên nhượng quyền quyết định
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
Ba là, về phí nhượng quyền và phương thức thanh toán
Để được kinh doanh theo phương thức của bên nhượng quyền, bên nhận
quyền phải trả một khoản phí nhượng quyền và một khoản phí cố định trên tỉ lệ
phần trăm doanh thu để duy trì hoạt động này. Khoản phí này cao hay thấp phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như vị trí, phạm vi, qui mô kinh doanh của bên nhận quyền;
sự thành công của thương hiệu nhượng quyền, mục đích của các bên trong quan hệ
nhượng quyền thương mại. Ngoài ra, bên nhận quyền cũng phải chịu mọi chi phí
cho việc đầu tư ban đầu cho cửa hàng nhận quyền của mình.
Bốn là, về quyền kiểm soát

Bên nhượng quyền được phép kiểm tra giám sát định kì hoặc đột xuất công
việc kinh doanh của bên nhận quyền. Việc kiểm tra này sẽ giúp bên nhượng quyền
quản lý và bảo vệ thương hiệu, bảo vệ tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền

11


của mình. Vì trong quá trình kinh doanh, bên nhận quyền có thể sẽ sáng tạo thêm
vào các biểu tượng kinh doanh hoặc bổ sung thêm ký tự, màu sắc vào nhãn hiệu
hàng hóa, thay đổi hoặc bổ sung công thức pha chế, phục vụ khách hàng. Hay nói
cách khác là tất cả những cách thức sáng tạo của bên nhận quyền mà họ thấy có thể
làm công việc kinh doanh của họ tốt hơn, hoặc để đỡ nhàm chán.
Tuy nhiên, tất cả những việc làm đó của bên nhận quyền tưởng chừng như
đơn giản nhưng có thể sẽ làm phá vỡ tính ổn định và thống nhất của nhãn hiệu, hàng
hóa, dịch vụ mà bên nhượng quyền đã tạo dựng nên. Do vậy, trong hoạt động
nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền phải kiểm soát công việc kinh doanh
của bên nhận quyền để bảo toàn tính hệ thống trong chuỗi nhượng quyền thương
mại của mình. Ngoài ra, ý thức của bên nhận quyền cũng là một trong những yếu tố
quan trọng góp phần vào việc bảo vệ được nhãn hiệu của bên nhượng quyền.
Năm là, về sự hỗ trợ của bên nhượng quyền
Khi tiến hành kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại, bên
nhận quyền tự mình kinh doanh theo phương thức đã nhận. Ngay từ khi bắt đầu
kinh doanh hoặc trong cả quá trình kinh doanh, bên nhận quyền sẽ nhận được sự hỗ
trợ của bên nhượng quyền khi bên nhượng quyền thay đổi cách thức kinh doanh
hoặc mở rộng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, lĩnh vực hoạt động, nâng cao công
nghệ, kĩ thuật. Bên nhận quyền sẽ được đào tạo, hướng dẫn cách thức để tiến hành
kinh doanh và sẽ được áp dụng các chương trình khuyến mại giống như của bên
nhượng quyền. Bên nhận quyền sẽ được hỗ trợ về tiếp thị, quảng cáo, các chính
sách phát triển mới của bên nhượng quyền. Tóm lại, bên nhận quyền được kinh
doanh như một “chi nhánh” của bên nhượng quyền. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa

hai hình thức “chi nhánh” và “nhượng quyền thương mại” là ở chỗ Bên nhận quyền
là một thương nhân độc lập về mặt pháp lý, tài chính chứ không phải là một đơn vị
phụ thuộc của bên nhượng quyền.
Như vậy, đặc trưng cơ bản nhất của nhượng quyền thương mại là việc bên
nhận quyền thương mại kinh doanh theo phương thức sẵn có của bên nhượng quyền

12


và chịu sự kiểm soát của bên nhượng quyền về cách thức kinh doanh. Bên nhận
quyền sẽ nhân danh mình kinh doanh hàng hóa, dịch vụ giống như “bản sao”
phương thức kinh doanh của bên nhượng quyền.
Có thể nói, nhượng quyền thương mại chính là phương thức kinh doanh nhân
bản công thức kinh doanh đã được trải nghiệm. Mối quan hệ giữa bên nhận quyền
và bên nhượng quyền là mối quan hệ vừa mang tính “hỗ trợ” vừa mang tính “kiểm
soát”. Các quyền thương mại cụ thể mà bên nhận quyền được phép kinh doanh, thời
hạn và điều kiện kinh doanh và các vấn đề có liên quan đến hoạt động này được qui
định cụ thể trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
1.3. Phân loại các hình thức nhượng quyền thương mại
Bộ thương mại Hoa Kỳ trong lịch sử đã phân biệt các quan hệ nhượng quyền
thương mại thành hai hình thức chính: (i) Nhượng quyền phân phối và tên thương
mại (distribution and tradename franchise) và (ii) Nhượng quyền mô hình kinh
doanh (business format franchise) [55, tr.7]. Đối với Nhượng quyền phân phối và
tên thương mại (điển hình trong các ngành đồ uống nhẹ, ô tô và xăng dầu), bên
nhượng quyền bán sản phẩm mang dấu hiệu của mình cho bên nhận quyền để phân
phối. Trong khi đó, với nhượng quyền mô hình kinh doanh, bên nhượng quyền “cho
mượn” thương hiệu và công thức kinh doanh của mình, cùng với đó là sự hỗ trợ ở
một mức độ nhất định cho bên nhận quyền. Nhượng quyền mô hình kinh doanh
xuất hiện sau và phổ biến hơn, với hàng loạt các tên tuổi nổi tiếng trong các chuỗi
bán lẻ, kinh doanh nhà hàng và khách sạn.

Dựa vào hình thức hoạt động hay hình thức bán franchise, có thể phân loại
thành: (i) nhượng quyền thương mại độc quyền (master franchise), (ii) nhượng
quyền thương mại phát triển khu vực (area development franchise), (iii) nhượng
quyền thương mại cho từng cá nhân riêng lẻ (single – unit franchise) [17, tr. 20].
1.4. Tác động của hoạt động nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh kết hợp lợi ích của cả
hai bên: Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền. Không chỉ vậy, hoạt động này còn
có sự tác động mạnh mẽ đối với cả nền kinh tế. Cụ thể như sau:

13


1.4.1. Đối với bên nhượng quyền
Một trong những lợi ích dễ nhận thấy mà nhượng quyền thương mại mang
lại cho bên nhượng quyền chính là việc nhân rộng mạng lưới kinh doanh mà không
phải bỏ ra nhiều chi phí đầu tư. Các doanh nghiệp luôn có xu hướng phát triển và
nhân rộng mạng lưới của mình. Tuy nhiên, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có những
giới hạn nhất định về vốn. Nhượng quyền thương mại chính là phương thức kinh
doanh khắc phục được hạn chế này. Thay vì bên nhượng quyền phải bỏ ra một
nguồn tài chính khổng lồ để thành lập các cơ sở của mình thì các chi phí này được
chuyển giao sang cho bên nhận quyền. Hay nói cách khác, các cơ sở của hệ thống
nhượng quyền thương mại được hình thành và phát triển bằng chính nguồn vốn đầu
tư của bên nhận quyền. Cách làm này thực sự đã đem lại cho bên nhượng quyền
một nguồn lợi to lớn từ sự gia tăng giá trị thương hiệu do mạng lưới nhận quyền
đưa lại. Đối với các doanh nghiệp của Việt Nam đang có tham vọng đưa thương
hiệu của mình ra thế giới nhưng chưa đủ lực để đầu tư trực tiếp thì mô hình nhượng
quyền thương mại có lẽ là phù hợp nhất do không phải bỏ vốn mà lại bảo hộ và
quảng bá được thương hiệu của mình [52].
Chủ thương hiệu hoàn toàn có thể cải thiện doanh số của mình bằng việc
nhượng quyền sử dụng thương hiệu và công thức kinh doanh. Thông qua hình thức

nhượng quyền, bên nhượng quyền có thể nhận được các khoản tiền bao gồm: phí
nhượng quyền ban đầu (initial fee/upfront fee) là phí chỉ được tính một lần, phí
hàng tháng (monthly fee) có thể là một khoản phí cố định theo thỏa thuận của hai
bên hoặc là tính theo phần trăm doanh số của bên mua franchise, phí quảng cáo [22,
tr. 25].Ngoài ra, nhiều chủ thương hiệu yêu cầu các đối tác mua franchise phải mua
một số nguyên liệu đặc thù do mình cung cấp, vừa để đảm bảo tính đồng bộ của sản
phẩm, vừa mang lại một nguồn lợi nhuận đáng kể.
Không những tăng được doanh thu, bên nhượng quyền còn cắt giảm được
các khoản chi phí đáng kể như chi phí tiếp thị, quảng cáo, các khoản chi mua
nguyên liệu. Khi sử dụng hình thức nhượng quyền, bên nhượng quyền sẽ tạo được

14


những lợi thế trong việc quảng cáo, quảng bá thương hiệu của mình. Mở rộng kinh
doanh và sự xuất hiện ở khắp nơi của chuỗi cửa hàng sẽ đưa hình ảnh về sản phẩm
đi sâu rộng đến người tiêu dùng một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Bên cạnh đó,
chi phí quảng cáo sẽ được trải rộng cho rất nhiều cửa hàng nên chi phí quảng cáo
mà một đơn vị kinh doanh bỏ ra là rất nhỏ. Do vậy, bên nhượng quyền sẽ tiết kiệm
được các chi phí quảng cáo cũng như các chi phí khác có liên quan.
Ngoài các lợi ích to lớn thu được trên khía cạnh tài chính thông qua việc bán
franchise, bên nhượng quyền còn san sẻ được một phần không nhỏ các khó khăn,
trở ngại trong việc tìm hiểu các vấn đề về địa lý, kiến thức và văn hóa địa
phương…ở các khu vực khác nhau sang cho bên nhận quyền. Để kinh doanh thành
công ở một khu vực lãnh thổ nhất định, bên nhận quyền ngoài những kiến thức quản
lý, điều hành doanh nghiệp còn phải rất am hiểu về thị hiếu, thói quen, sở thích, văn
hóa…tại khu vực địa lý đó. Chính các kiến thức địa phương mà bên nhận quyền có
được đã gánh vác một phần trách nhiệm đáng kể cho bên nhượng quyền so với việc
kinh doanh theo mô hình đại lý hay chi nhánh, tăng khả năng thành công cho toàn
hệ thống nhượng quyền.

Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi lớn mà bên nhượng quyền có được thông
qua mô hình nhượng quyền thương mại, các bên nhượng quyền cũng phải đối mặt
với những thách thức không nhỏ. Cùng với khoản lợi nhuận to lớn thu được từ việc
bán quyền thương mại, bên nhượng quyền phải đối mặt với nguy cơ bị “ăn cắp”
thương hiệu.
Ngoài ra, bên nhượng quyền còn có thể phải đối mặt với nguy cơ giảm giá trị
thương hiệu, mà nguy hiểm hơn là sự đổ vỡ của cả hệ thống nhượng quyền. Đúng
vậy, chỉ cần một bên nhận quyền không thực hiện đầy đủ và trung thành các ý
tưởng kinh doanh, các yêu cầu nghiêm ngặt của bên nhượng quyền đưa ra thì đã gây
ra những ảnh hưởng xấu không chỉ tới cơ sở nhượng quyền đó mà còn làm giảm giá
trị thương hiệu hoặc thậm chí là đổ vỡ cả chuỗi hệ thống nhượng quyền thương mại.
Cà phê Trung Nguyên do phát triển quá nhanh và ồ ạt đã rơi vào tình trạng mất

15


kiểm soát và tính đồng bộ của hệ thống. Điều này đã gây ra những hiệu ứng xấu đối
với hình ảnh của Trung Nguyên, giá trị của thương hiệu vì thế cũng bị giảm sút.
[19, tr28-33]
1.4.2. Đối với bên nhận quyền
Sức hấp dẫn đối với bên nhận quyền khi tham gia vào quan hệ nhượng quyền
thương mại nằm ởchỗ bên nhận quyền không phải mất nhiều chi phí, thời gian và
công sức vào việc xây dựng một thương hiệu trên thị trường mà vẫn được hưởng lợi
từ thương hiệu của bên nhượng quyền. Với uy tín và danh tiếng mà bên nhượng
quyền đã gây dựng được, bên nhận quyền có một lượng khách hàng nhất định ngay
từ ban đầu. Hơn nữa, kinh doanh theo mô hình có sẵn này, sản phẩm cũng như cách
thức phục vụ đã được khẳng định trên thương trường, việc kinh doanh của bên nhận
quyền sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Điều này phần nào lý giải được tính an toàn cao của
mô hình kinh doanh nhượng quyền.
Không chỉ có vậy,nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh phát

huy được lợi thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế. Nhượng quyền
thương mại cũng là một hình thức rất thuận lợi cho những người khởi sự kinh doanh
mà họ chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như còn hạn chế về vốn; hoặc chưa tìm
được phương thức kinh doanh phù hợp. Đây là hình thức nhân rộng mô hình kinh
doanh do vậy rất dễ triển khai và áp dụng bởi có sự hỗ trợ của bên nhượng quyền.
Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền sẽ được đào tạo, huấn
luyện và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành công của các loại hình
kinh doanh đặc thù mà bên nhượng quyền đã tích lũy được. Bên nhận quyền không
phải trải qua giai đoạn xây dựng và phát triển ban đầu. Bên nhượng quyền sẽ hướng
dẫn bên nhận quyền những nguyên tắc chung cũng như cách thức quản lý, điều
hành để bên nhận quyền tiến hành công việc kinh doanh một cách dễ dàng và theo
đúng hệ thống. Bên nhận quyền chỉ tập trung vào công việc kinh doanh, còn các
công việc liên quan đến chiến lược tiếp thị, qui trình vận hành, chiến lược kinh
doanhsẽ do bên nhượng quyền đảm trách và chuyển giao. Thêm vào đó, bên nhượng

16


quyền luôn có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu cho bên
nhận quyền và với chi phí thấp hơn. Do đó, bên nhận quyền có thêm một lợi thế
cạnh tranh về giá của sản phẩm cũng như được đảm bảo về tính ổn định đầu vào của
hàng hóa, dịch vụ, tránh được những tổn thất từ biến động thị trường [19, tr. 29].
Tuy nhiên, bên nhận quyền cũng phải đối mặt với những hạn chế từ quan hệ
nhượng quyền thương mại. Do đặc thù của hoạt động nhượng quyền, bên nhận
quyền tuy phải bỏ ra 100% vốn đầu tư nhưng lại không hoàn toàn được quyết định
hay thay đổi tất cả những gì nằm trong cửa hàng của mình. Vì vậy, tính sáng tạo của
mỗi thương nhân nhận quyền dường như bị hạn chế. Hơn nữa, khi bỏ ra một khoản
tiền không nhỏ để mua quyền thương mại từ bên nhượng quyền, bên nhận quyền
cũng đứng trước những rủi ro nhất định. Đó là khả năng thu hồi vốn và tìm kiếm lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại trong khoảng thời gian

có hiệu lực của hợp đồng, nguy cơ sụp đổ của hệ thống nhượng quyền khi một trong
các bên nhận quyền khác của hệ thống vi phạm nghĩa vụ dẫn đến những ảnh hưởng
xấu cho toàn mạng lưới…
1.4.3. Đối với nền kinh tế
Xét trong phạm vi tổng thể của nền kinh tế, nhượng quyền thương mại cũng
đã đem đến nhiều tác động tích cực. Các bên tham gia trong quan hệ không những
được hưởng nhiều lợi ích từ hoạt động thương mại này mà người tiêu dùng cũng dễ
dàng được tiếp cận với những sản phẩm, dịch vụ của những thương hiệu nổi tiếng,
uy tín với chất lượng đã được khẳng định.
Bên cạnh đó, hoạt động nhượng quyền thương mại còn tạo ra nhiều việc làm
cho người lao động và sử dụng hiệu quả hơn sức lao động. Vì nhượng quyền thương
mại thường gắn liền với một hệ thống đã được tiêu chuẩn hóa theo phương thức
nhất định, các nhân viên trong hệ thống cũng được đào tạo một cách chuyên nghiệp.
Khi càng nhiều doanh nghiệp được thành lập thì càng cần nhiều đến sức lao động.
Do vậy, có thể nói nhượng quyền thương mại cũng là một trong những cách để giải
quyết việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao mức sống cho họ.

17


Nhượng quyền thương mại cũng tăng sức mạnh cho doanh nghiệp, phát triển
thương hiệu. Thông qua hoạt động nhượng quyền thương mại các doanh nghiệp trong
nước có thể chống lại sự cạnh tranh từ các đối thủ nước ngoài trong điều kiện của nền
kinh tế hội nhập sâu rộng như hiện nay. Không chỉ vậy nhượng quyền thương mại
cũng mở ra những cơ hội mới cho các doanh nhân học hỏi, tiếp cận với nhiều mô
hình kinh doanh và cách thức quản lý tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Qua đó, các
doanh nghiệp nước ta sẽ tích lũy được những kinh nghiệm cần thiết, từ đó xây dựng
và áp dụng mô hình nhượng quyền phù hợp cho doanh nghiệp của riêng mình.
Nhượng quyền thương mại góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia và tăng cường cơ hội hiểu biết giữa

các nước trên thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế. Đây cũng là phương thức
nhanh nhất giúp chủ thương hiệu mở rộng thị trường ra nước ngoài. [13, tr. 34]
Kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại cũng là một cách
tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nước. Khi nhân rộng mô hình kinh
doanh theo phương thức này buộc chủ thương hiệu phải đảm bảo tính hợp pháp
trong việc sử dụng thương hiệu của mình bằng cách đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa. Qua đó cũng có thể ngăn chặn các vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đang làm
giảm sự sáng tạo của các doanh nghiệp.
Bên cạnh những tác động tích cực, nhượng quyền thương mại cũng có những
ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế - xã hội. Có thể nói rằng, với một mạng lưới
nhượng quyền càng rộng, có khả năng cung ứng nhiều hàng hóa, dịch vụ càng cao
thì khi có những rủi ro xảy ra, những tác động tiêu cực của mạng lưới ấy đối với
nền kinh tế - xã hội càng lớn. Một hệ thống nhượng quyền khi đổ vỡ sẽ kéo theo sau
nó là một loạt các vấn đề phát sinh như thất nghiệp, các thủ tục giải quyết phá sản,
khiếu kiện… gây tổn hại cả về vật chất và thời gian [39]. Hơn nữa, đối tượng của
hoạt động nhượng quyền thương mại là “quyền thương mại” - một loại tài sản mà
lại bao gồm chủ yếu là các đối tượng liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ như tên
thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết kinh doanh… Các đối tượng này nếu

18


không có cơ chế bảo hộ chặt chẽ và đảm bảo thực thi có hiệu quả từ phía pháp luật
và các cơ quan có thẩm quyền thì sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng vi phạm, lạm dụng
qua hình thức kinh doanh nhượng quyền.
Như vậy, nhượng quyền thương mại với tư cách là một hoạt động thương
mại đặc thù, độc lập, vừa mang đến những tác động tích cực, nhưng đồng thời cũng
đưa lại những mặt tiêu cực cho các chủ thể tham gia vào hoạt động đó và cho cả nền
kinh tế. Để khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực đó, các bên trong quan hệ
nhượng quyền cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng với những thỏa thuận chặt chẽ khi xác

lập và thực hiện hợp đồng. Làm được điều đó cũng đòi hỏi phải có một môi trường
pháp lý hoàn chỉnh, vững chắc, dọn đường cho sự phát triển tích cực của hoạt động
này trong nền kinh tế.
1.5. Lược sử pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương
mại của doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam
Nhượng quyền thương mại được coi là cách thức tổ chức kinh doanh đã tạo
nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực phân phối hàng hóa và dịch vụ trong hầu
khắp các ngành và làm thay đổi tình hình kinh tế của hầu hết các quốc gia có sự
hiện diện của cách thức phân phối này. Mặc dù ra đời rất sớm ở Mỹ nhưng nhượng
quyền thương mại nói chung và nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước
ngoài ở Việt Nam nói riêng lại là hoạt động thương mại khá mới. Các hệ thống
nhượng quyền đồ ăn nhanh của nước ngoài như Jollibee, Lotteria và KFC là những
nhà nhượng quyền tiên phong ở Việt Nam. Cũng chính từ hoạt động nhượng quyền
của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam đã giúp cho các doanh nghiệp ở
nước ta nhanh chóng hấp thu mô hình nhượng quyền và chỉ sau vài năm kể từ khi
xuất hiện nhượng quyền của các doanh nghiệp nước ngoài ở nước ta thì ngay ở
trong nước cũng đã xuất hiện các nhà nhượng quyền như cà phê Trung Nguyên;
Phở 24; Bánh kẹo Kinh Đô…[35]. Như vậy, sự thành công của các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài khi tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt
Nam đã mở đường và tạo cảm hứng cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia

19


×