Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ hồ xuân hương (2018)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.33 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

LẠI THỊ THU THANH

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG THƠ
HỒ XUÂN HƯƠNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

LẠI THỊ THU THANH

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG THƠ
HỒ XUÂN HƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS. ĐỖ THỊ THU HƯƠNG


HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô
giáo Đỗ Thị Thu Hương, tôi đã hoàn thành xong bài tập nghiên cứu khoa học.
Nhân đây, tôi xin được gửi tới cô lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất.
Tôi cũng xin gửi lời biết ơn đến quý thầy cô trong khoa Ngữ văn đã
động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi trong thời gian qua và đặc biệt
là các thầy, cô trong tổ bộ môn Ngôn ngữ. Không những thế tôi còn nhận
được sự ủng hộ, động viên của rất nhiều bạn bè và người thân trong gia đình.
Họ luôn bên cạnh giúp đỡ và ủng hộ tôi nhiệt tình tạo động lực cho tôi có thể
hoàn thành tốt bài nghiên cứu. Cho phép tôi gửi đến bạn bè, người thân những
tình cảm tốt đẹp nhất.
Dù đã cố gắng rất nhiều, tuy nhiên do hạn chế về kiến thức lẫn kinh
nghiệm nên bài nghiên cứu khó tránh khỏi những thiếu xót nên rất mong được
quý thầy cô đóng góp ý kiến để bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Lại Thị Thu Thanh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi cùng với
sự hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Thị Thu Hương, Các nội dung nghiên cứu, kết
quả trong đề tài này là trung thực.
Ngoài ra, trong khóa luận có sử dụng một số đánh giá, nhận xét của
các tác giả khác nhưng đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.

Nếu phát hiện có bất kì sự gian lận nào tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm về nội dung.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Lại Thị Thu Thanh


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
6. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 5
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
8. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 6
B. NỘI DUNG................................................................................................... 7
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................ 7
1.1. Các bình diện của ngôn ngữ ....................................................................... 7
1.1.1. Bình diện ngữ âm................................................................................. 7
1.1.2. Bình diện từ vựng ................................................................................ 7
1.1.3. Bình diện ngữ pháp .............................................................................. 8
1.1.4. Bình diện phong cách .......................................................................... 9
1.2. Đặc điểm của ngôn ngữ văn chương ........................................................ 10
1.2.1. Khái niệm tác phẩm văn chương ....................................................... 10
1.2.2. Các đặc điểm của ngôn ngữ văn chương ........................................... 11
1.3. Vài nét về nhà thơ Hồ Xuân Hương ........................................................ 15
1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương ....................... 15
1.3.2. Một số đặc điểm thơ Hồ Xuân Hương .............................................. 18

Tiểu kết chương 1............................................................................................ 22
Chương 2: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ............................................ 23
TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG ............................................................... 23
2.1. Miêu tả kết quả thống kê .......................................................................... 23


2.1.1 Bảng thống kê đặc điểm sử dụng từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương 23
2.1.2 Bảng thống kê đặc điểm sử dụng câu trong thơ Hồ Xuân Hương ..... 25
2.2. Phân tích đặc điểm sử dụng từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương .............. 26
2.2.1. Sử dụng từ láy .................................................................................... 26
2.2.2. Sử dụng từ ngữ thông tục trong thơ Hồ Xuân Hương ....................... 30
2.2.3. Sử dụng từ ghép sắc thái hóa ............................................................. 33
2.2.4. Sử dụng ẩn dụ, hoán dụ trong thơ Hồ Xuân Hương .......................... 35
2.2.5. Sử dụng thành ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương ................................. 39
2.3. Đặc điểm sử dụng câu trong thơ Hồ Xuân Hương .................................. 42
2.3.1. Sử dụng cấu trúc đảo ngữ .................................................................. 42
2.3.2. Dùng câu hỏi tu từ ............................................................................. 45
2.3.3. Lặp cấu trúc cú pháp .......................................................................... 46
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 48
C. KẾT LUẬN ................................................................................................ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng và là một
“hiện tượng độc đáo” có một không hai của nền văn học Việt Nam nói chung
và nền văn học trung đại nói riêng. Tài năng và bản lĩnh của “Bà chúa thơ
Nôm” đã được khẳng định ngay từ khi nhà thơ xuất hiện trên thi đàn văn học
của dân tộc. Tài năng văn chương nghệ thuật của bà được đặt cạnh những tài

năng nghệ thuật lừng danh như thi hào Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… Hơn thế
nữa, tên tuổi của nữ sĩ họ Hồ còn vượt ra khỏi biên giới quốc gia để sánh vai
cùng các thi sĩ đại tài nổi tiếng trên thế giới khi thơ bà được chọn và dịch ra
nhiều thứ tiếng nước ngoài. Hồ Xuân Hương xuất hiện trên thi đàn như một
thứ ánh sáng khác lạ, không bị hòa lẫn với những ánh sáng thông thường bởi
sự mới lạ, độc đáo, mang chất riêng mà chỉ có ở nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Có thể nói Hồ Xuân Hương có một phong cách rất riêng, rất độc đáo và
vô cùng tài hoa. Vì thế mà từ trước đến nay khó có nhà thơ nữ nào vượt qua
tên tuổi của bà. Phong cách thơ của Hồ Xuân Hương không thể lẫn với bất kì
nhà thơ nào khác, thơ Hồ Xuân Hương chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng
người đọc, làm say mê, rung động biết bao thế hệ.
Mặc dù sự nghiệp sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương không mấy đồ sộ so
với các sáng tác của một số nhà thơ đương thời. Sáng tác của bà chủ yếu là
mảng thơ Nôm truyền tụng, ngoài ra còn có các tập Lưu Hương kí, Xuân
Hương đàm thoại…
Tìm hiểu thơ Hồ Xuân Hương chúng tôi rất ấn tượng với thơ của bà, một
hồn thơ dung dị, đời thường, dễ hiểu, dễ nhớ và mang đậm âm hưởng, màu
sắc của văn hóa dân gian. Đọc thơ của bà, người đọc dễ có sự cảm mến và
đồng cảm sâu sắc với nhà thơ bởi một cuộc đời éo le, bất hạnh, nhiều gian
truân, ngang trái.

1


Thơ Hồ Xuân Hương luôn là nguồn cảm hứng dồi dào, bất tận khơi gợi
hứng thú cho các nhà nghiên cứu khoa học đi sâu tìm hiểu, khám phá và
nghiên cứu thơ của bà. Với những nét độc đáo đó, thơ Hồ Xuân Hương đã
được giới nghiên cứu khai thác ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Thơ
Nôm của Hồ Xuân Hương được nghiên cứu dưới góc độ phê bình văn học,
tiếp nhận văn học, nhiều khuynh hướng như phân tâm học, xã hội học, văn

hóa học, văn bản học,… Qua những công trình nghiên cứu về Hồ Xuân
Hương từ trước cho đến nay chúng ta thấy việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương
có rất nhiều quan điểm khác nhau và đây còn là một vấn đề đã diễn ra rất
phức tạp. Riêng việc tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ ngôn
ngữ thì chưa thật nhiều nên trong khóa luận này chúng tôi sẽ đi phân tích thơ
của bà theo hướng tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ trong việc sử dụng từ ngữ, sử
dụng câu trong thơ Nôm truyền tụng để thấy tài năng nghệ thuật của nhà thơ.
Từ những lí do trên chúng tôi lựa chọn đề tài Đặc điểm ngôn ngữ trong
thơ Hồ Xuân Hương.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương là một chuỗi những bí ẩn và gây nhiều
tranh luận trong giới nghiên cứu. Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, mỗi người
đều có sự nhìn nhận đánh giá khác nhau và xem chừng các cách giải quyết
vẫn chưa thỏa đáng. Điều đó chứng tỏ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc
đáo, bí ẩn nên mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu và khám phá về thân
thế, con người và thơ văn bà nhưng cho đến nay vẫn chưa đi đến kết luận cuối
cùng. Chính vì gặp khó khăn trong việc xác lập một cách chính xác thân thế
Hồ Xuân Hương nên trước đây có rất ít các công trình nghiên cứu. Bước sang
thế kỷ XX cuộc đời và sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương dần dần được vén bức
màn bí ẩn, nhiều các công trình nghiên cứu với các hướng khai thác khác
nhau. Đầu tiên là phải kể đến công trình nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tiến và

2


Nguyễn Thành Ý (1925), “Việt Nam hợp tuyển giảng nghĩa”; Dương Quảng
Hàm (1925), “Quốc văn trích diễn”; Nguyễn Văn Ngọc (1927), “Nam thi hợp
tuyển”, ...Các bài viết này đều nhằm mục đích thu thập những cứ liệu chính
về thơ ca của Hồ Xuân Hương và bước đầu đi vào mặt nội dung trong thơ Hồ
Xuân Hương.

Đặc trưng ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương là một đề tài có rất ít các
công trình nghiên cứu.
Dưới đây là một số công trình nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương trên
phương diện ngôn ngữ.
Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong “Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương” in
trong cuốn Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm, Nxb GD (2003) đã nhận
xét: “...Nghệ thuật ngôn từ là một cơ thể sống phức tạp, vận động, nhiều âm
thanh, nhiều màu sắc: mỗi tiếng là một “con kỳ nhông”, đứng chỗ này thì màu
xanh, đứng chỗ khác thì màu nâu, hoặc vàng úa. Thơ là một thể loại thật kỳ
ảo. Nhà thơ nói một sự việc, bài thơ mang một ý nghĩa khác...Đó là những
điệp trùng của tiếng của câu, của các hệ thống đồng nghĩa, phản nghĩa, ẩn
dụ...nhằm diễn đạt ý tưởng (tình cảm, suy tư...) dưới nhiều dạng, ngày càng
cao, càng sâu. Cho nên, có thể thấy chiều cao và chiều sâu ấy là một đặc trưng
của thơ...” [18,389].
Đặng Thanh Hòa trong bài viết “Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Nôm
Hồ Xuân Hương” in trong tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 4 (2001), đã nhận
xét như sau: “Người ta thường bảo “nôm na là cha mánh khóe” thế nhưng đến
với thơ Hồ Xuân Hương thì đó là một ngoại lệ, bởi vì người đọc nhớ đến Hồ
Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái “mánh qué” ấy. Nếu không có
chất “nôm na”, “mánh qué”, “xỏ xiên” đầy tinh quái này thì có lẽ đã không có
một Hồ Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng và tôn vinh bà thành bà
chúa thơ Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất nôm na trong thơ của

3


bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. Người ta
ngây ngất, hỉ ha, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ “nhà quê”, “mánh qué”... Tất
cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự chau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà
người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ” [10,22].

Lê Hoài Nam trong bài viết "Hồ Xuân Hương" in trong cuốn Nghĩ về thơ
Hồ Xuân Hương Nxb GD (1998) đã nhận xét: “Xuân Hương có vốn ngôn ngữ
rất phong phú, rất chính xác, nhưng đồng thời cũng rất độc đáo. Điều đó
không phải chỉ chứng tỏ Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ của dân tộc,
mà còn biểu hiện cá tính mạnh mẽ của Xuân Hương” [24,172].
Đỗ Lai Thúy trong bài viết "Đi tìm phong cách thơ Hồ Xuân Hương" in
trong cuốn Hồ Xuân Hương, Nxb Văn Nghệ TP HCM (1997) đã nhận xét như
sau: " ...Thơ Hồ Xuân Hương có một kiến trúc ngôn từ khác lạ, một ngôn ngữ
khác lạ. Đọc thơ bà hoặc bằng sự mẫn cảm, hoặc bằng phương pháp thống kê,
có thể chia ra những nét đặc biệt trong cách sử dụng ngôn từ..."[11,90].
Hồ Xuân Hương không chỉ được nghiên cứu và đánh giá cao ở trong
nước mà còn thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều người nước ngoài. Sau đây
là một số nhận xét, đánh giá tiêu biểu về thơ Hồ Xuân Hương:
Jăng Ruxtal – Trong bài tựa bản dịch thơ Hồ Xuân Hương sang tiếng
Pháp đã coi Hồ Xuân Hương là: “Một trong những tên tuổi lớn của văn học
Việt Nam và không chút nghi ngờ, là một trong những nữ sĩ hàng đầu của
Châu Á” [18,454].
Jean Ristat cũng nhận xét: “Tình yêu thân xác (trong thơ bà) là tình yêu
toàn vẹn. Nó bao gồm cả thiên nhiên trong đó. Tất cả đầy ăm ắp những thần
linh, tất cả đều xoáy về tình yêu” [18,441].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều có một tiếng nói chung, thống nhất
về vấn đề cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Hồ Xuân Hương. Những công trình
nghiên cứu, nhận xét ở trên đều có những nét chung trong nhận định về đặc

4


điểm ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương đó là thứ ngôn ngữ mới lạ, độc đáo
với cách dùng vô cùng sáng tạo, linh hoạt.
Khai thác đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương là một trong

những hướng nghiên cứu mang lại nhiều giá trị nghệ thuật đồng thời thấy
được tài năng, sự sáng tạo trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc phân tích những đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương,
khóa luận nhằm khẳng định những sáng tạo độc đáo, mới lạ của Hồ Xuân
Hương trên phương diện ngôn từ. Những sáng tạo đó góp phần làm cho tiếng
Việt trở nên giàu đẹp, phong phú và sinh động hơn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp những vấn đề lý thuyết.
- Khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương.
- Phân tích, miêu tả những sáng tạo của Hồ Xuân Hương trên phương
diện ngôn từ.
5. Đối tượng nghiên cứu
Sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương tuy không nhiều so với nhiều nhà thơ
cùng thời. Tuy nhiên, trong đó mảng thơ Nôm là mảng thơ sáng tác chủ yếu
và có nhiều đặc sắc hơn cả. Chính vì lẽ đó mà khóa luận tập trung, xoáy sâu
vào đối tượng là thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương.
6. Phạm vi nghiên cứu
Vì là thơ Nôm truyền tụng nên vẫn xuất hiện một số dị bản thơ. Cho nên
hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong giới nghiên cứu. Qua tham khảo và
tuyển chọn, chúng tôi chủ yếu khảo sát những bài thơ Nôm trong cuốn “Hồ
Xuân Hương thơ và đời” - Lữ Huy Nguyên, NXB văn học, 2012. (in lần thứ
sáu).

5


7. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại. Phương pháp này được sử dụng

để thống kê và phân loại các cách sử dụng ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương.
- Phương pháp miêu tả sử dụng để miêu tả số lượng, tỉ lệ các biện
pháp, cách thức sử dụng ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương
- Phương pháp phân tích tổng hợp. Phương pháp này được vận
dụng để phân tích cái hay, nét đặc sắc của việc sử dụng ngôn từ trong thơ Hồ
Xuân Hương. Tù đó, rút ra những kết luận khái quát về phong cách ngôn ngữ
thơ Hồ Xuân Hương.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của bài khóa luận gồm 2 chương sau:
Chương 1: Cơ sở thực lí luận
Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương.

6


B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Các bình diện của ngôn ngữ
1.1.1. Bình diện ngữ âm
Ngữ âm được coi là phần vỏ âm thanh bên ngoài ngôn ngữ. Ngữ âm có
mặt tự nhiên và mặt xã hội của nó. Mặt ngữ âm là những thuộc tính về âm học
(cao độ, trường độ, âm sắc,…) và những thuộc tính về cấu âm (hoạt động của
bộ máy hô hấp và chuyển động của các cơ quan phát âm như môi, lưỡi,… tạo
ra một âm nào đó) của chúng. Mặt xã hội hay chức năng ngữ âm là những quy
định, những giá trị mà cộng đồng sử dụng chung một ngôn ngữ gán cho các
đặc trưng âm thanh. Khi tìm hiểu về ngữ âm chúng ta cần chú ý tới các yếu
tố: âm tiết, thanh điệu, trọng âm, ngữ điệu. Trong các yếu tố trên ta cần quan
tâm đến yếu tố âm tiết, yếu tố quan trọng nhất của bình diện ngữ âm.
Âm tiết là những đơn vị phát âm nhỏ nhất. Âm tiết là đơn vị mang những

sự kiện ngôn điệu như: thanh điệu, trọng âm. Do đó có người gọi nó là điệu vị.
Cấu tạo của một âm tiết tiếng Việt ở dạng đầy đủ nhất gồm 5 thành tố và
mỗi thành tố có một chức năng riêng. Thanh điệu có tác dụng khu biệt âm tiết
về cao độ: hoa - hòa; âm đầu có những cách mở đầu âm tiết khác nhau (tắc,
xát, rung), có tác dụng khu biệt âm tiết: hoa - khoa; âm đệm có tác dụng biến
đổi âm sắc của âm tiết sau lúc mở đầu, có chức năng khu biệt các âm tiết:
khoán - khán; âm chính mang âm sắc chủ đạo của âm tiết và là hạt nhân của
âm tiết: túy - túi; âm cuối có chức năng kết thúc âm tiết với nhiều cách khác
nhau làm thay đổi âm sắc của âm tiết và do đó để phân biệt âm tiết này với âm
tiết khác: màn - mài.
1.1.2. Bình diện từ vựng
Từ vựng là tập hợp các từ và các đơn vị tương ứng với từ của một ngôn
ngữ. Nó tập trung nghiên cứu các từ và các đơn vị tương đương với từ (cụm

7


từ cố định, thành ngữ, quán ngữ) trong các ngôn ngữ. Tuy nhiên trong các
đơn vị từ vựng, từ là đơn vị cơ bản.
Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn
chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời
nói để tạo câu. Từ được phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Theo đặc điểm
cấu tạo thì từ gồm: từ đơn, từ ghép và từ láy.
Từ đơn là những từ được cấu tạo bằng một hình vị như: nhà, xe, bàn,...
Từ ghép là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với nhau
dựa trên quan hệ ý nghĩa. Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố, có thể
chia từ ghép thành từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.
Xét về nghĩa thì từ gồm từ đơn nghĩa và từ đa nghĩa. Từ đơn nghĩa là từ
chỉ có một nghĩa. Từ đa nghĩa (hay còn gọi là từ nhiều nghĩa) là những từ có
một số nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của một đối

tượng hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại (ví dụ: từ đi trong
tiếng Việt là từ đa nghĩa, nó vừa có nghĩa là dịch chuyển bằng hai chi dưới,
vừa có nghĩa là chỉ một người nào đó đã qua đời). Để xác định chính xác
nghĩa của từ đa nghĩa cần phân tích ngữ cảnh.
Dựa vào mối quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng, từ được chia
thành từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa. Từ đồng nghĩa là những từ những từ
khác nhau về âm thanh nhưng có chung nhau ít nhất một nét nghĩa trong cấu
trúc nghĩa biểu niệm của từ, nhưng không chứa nét nghĩa đối lập, loại trừ
nhau (chặt, thái, băm,…). Từ trái nghĩa là những từ có ý nghĩa đối lập nhau
trong mối quan hệ liên tưởng, chúng khác nhau về ngữ âm và phản ánh những
khái niệm tương phản về logic (ví dụ: cao - thấp, gầy - béo).
1.1.3. Bình diện ngữ pháp
Ngữ pháp nghiên cứu các hình thức biến đổi từ, các mô hình kết hợp từ
và các kiểu câu trong sự trừu tượng hóa khỏi ý nghĩa vật chất cụ thể của các

8


từ, cụm từ và câu. Hay nói cách khác, ngữ pháp nghiên cứu các cách thức và
phương tiện cấu tạo từ và câu. Ở bình diện này ta cần chú ý tới đặc điểm từ
loại và đặc điểm câu.
Từ loại là những từ có chung đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa khái quát.
Các từ loại trong tiếng Việt gồm: động từ, danh từ, tính từ, số từ, đại từ, trợ
từ, phó từ, thán từ, chỉ từ,…
Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng thông báo một sự việc,
một ý kiến, một tình cảm hoặc một cảm xúc. Trong tiếng Việt câu được phân
loại thành câu đơn, câu ghép và câu phức.
Câu đơn là câu chỉ có một vế câu. Câu đơn thường chỉ có một chủ ngữ,
một vị ngữ và có thể có một hoặc nhiều trạng ngữ nhưng có một số trường
hợp câu đơn không xác định được chủ ngữ, vị ngữ. Trường hợp này được gọi

là câu đơn đặc biệt (ví dụ: trời nắng - câu đơn).
Câu ghép là câu do nhiều vế câu ghép lại (thường là hai vế), mỗi vế câu
thường có cấu tạo giống câu đơn và thể hiện một ý có quan hệ chặt chẽ với ý
của những câu khác. Câu ghép bắt buộc phải có hai cụm chủ - vị trở lên. Hai
vế của câu ghép được nối với nhau bằng nhiều cách. Nhưng cơ bản nhất là nối
trực tiếp, nối bằng quan hệ từ và cặp từ hô ứng (ví dụ: mây đen kéo đến và gió
mỗi lúc càng giật mạnh hơn). Câu ghép còn được chia làm câu ghép đẳng lập
và câu ghép chính phụ.
Câu phức là loại câu có từ hai kết cấu chủ - vị trở nên, mỗi kết cấu chủ vị được gọi là mệnh đề. Tùy theo quan hệ giữa các mệnh đề mà ta có phân
biệt các loại câu phức như: câu phức đẳng lập và câu phức phụ thuộc.
1.1.4. Bình diện phong cách
Bình diện phong cách hay chính là phong cách chức năng của văn bản.
Tức là việc thực hiện những chức năng khác nhau, do được sử dụng trong các
lĩnh vực xã hội hoặc những giới nghề nghiệp khác nhau, dần dần hình thành

9


những phong ngôn ngữ khác nhau. Chẳng hạn, phong cách ngôn ngữ khoa
học, phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong
cách ngôn ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách ngôn
ngữ báo chí.
Bình diện phong cách còn nghiên cứu các biện pháp tu từ tiếng Việt.
Biện pháp tu từ là những cách kết hợp ngôn ngữ đặc biệt ở một đơn vị ngôn
ngữ nào đó (từ, câu, văn bản) trong một ngữ cảnh cụ thể nhằm tạo ra những
hiệu quả nhất định với người đọc, người nghe như ấn tượng về một hình ảnh,
một cảm xúc, một thái độ,… So với việc sử dụng ngôn ngữ thông thường thì
việc sử dụng biện pháp tu từ sẽ tạo nên những giá trị đặc biệt trong biểu đạt
và biểu cảm. Trong một văn bản nghệ thuật có thể sử dụng một hoặc nhiều
biện pháp tu từ khác nhau để khai thác sức mạnh nghệ thuật mà nó đem lại

cho tác phẩm nghệ thuật. Các biện pháp tu từ được phân loại thành biện pháp
tu từ ngữ âm (phép điệp, phép tạo nhịp điệu, phép tạo âm hưởng,…), biện
pháp tu từ ngữ nghĩa (so sánh, phản ngữ, nói lái,…), biện pháp tu từ ngữ pháp
(đảo ngữ, lặp cú pháp, câu hỏi tu từ,…).
1.2. Đặc điểm của ngôn ngữ văn chương
1.2.1. Khái niệm tác phẩm văn chương
Văn chương là thuật ngữ có nhiều nghĩa. Theo nghĩa rộng, văn chương
chỉ tác phẩm văn nói chung, không phân biệt triết học, chính trị, lịch sử, văn
hóa, quân sự. Ví dụ: văn chương Nguyễn Trãi, văn chương Hồ Chí Minh, sự
nghiệp văn chương. Theo nghĩa hẹp, văn chương chỉ là tác phẩm văn học,
nghệ thuật ngôn từ, thường chỉ tác phẩm thơ [2,401].
Như vậy, từ việc tìm hiểu khái niệm văn chương theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp, chúng ta nhận thấy tác phẩm văn chương cũng là tác phẩm văn học
nhưng ở nghĩa hẹp. Từ đây, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về tác phẩm văn
học như sau:

10


Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc
tập thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát bằng hình tượng về cuộc sống
con người, biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại
[2,290].
Tác phẩm văn học có thể tồn tại bao giờ cũng là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan.
Tác phẩm văn học có thể tồn tại dưới hình thức truyền miệng (văn học
dân gian) hay dưới hình thức văn bản nghệ thuật (văn học viết, văn học bác
học), có thể được viết bằng vần hay văn xuôi.
1.2.2. Các đặc điểm của ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chương hay chính là ngôn ngữ nghệ thuật – tức là ngôn

ngữ trong các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ
trong tác phẩm nghệ thuật được thể hiện ở chỗ tín hiệu ngôn ngữ (tức đặc
trưng ngữ nghĩa và đặc trưng âm thanh) trở thành yếu tố tạo thành của hình
tượng. Muốn thực hiện được chức năng thẩm mĩ, ngôn ngữ nghệ thuật phải có
được những đặc trưng chung: tính chính xác, tính hàm súc, tính hình tượng,
tính cá thể hóa, tính hệ thống.
1.2.2.1. Tính chính xác
Tính chính xác là miêu tả một cách chính xác, chân thật sự vật, hiện
tượng ngoài đời sống hiện thực.
Ví dụ: tác giả Tản Đà từng cân nhắc khi sử dụng từ “tuôn” và từ “khô”
trong câu thơ: Suối khô dòng lệ chờ mong bao ngày. Và tác giả đã quyết định
sử dụng từ “khô” vì ý sâu hơn, chính xác hơn, phù hợp với nội dung và có giá
trị biểu cảm cao, giàu sức gợi hơn. Cả hai từ nếu thay vào câu thơ đều nói lên
nỗi nhớ khôn nguôi, mòn mỏi nhưng khi dùng từ “khô” ta thấy nỗi nhớ mong,
chờ đợi ấy lên đến đỉnh điểm, con suối vì thương nhớ tháng ngày mà khóc
cạn cả nước mắt.

11


Tính chính xác là yêu cầu đầu tiên của việc sử dụng ngôn ngữ văn học.
Muốn miêu tả một mảng hiện thực nào đó hay biểu hiện những cảm nghĩ của
bản thân về một sự vật, hiện tượng nào đấy, nhà văn nói theo Maiacôpxki:
“Phải từ hàng ngàn tấn quặng từ tinh luyện chọn ra một từ để câu thơ, câu văn
đạt được hiệu quả nghệ thuật cao nhất” hay theo M. Gorki: “Ngôn ngữ của tác
phẩm phải gẫy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ càng. Chính các
tác giả cổ điển viết ngôn ngữ như vậy đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỉ này
sang thế kỉ khác”.
Viết văn phải dùng từ chính xác mới tái hiện và tái tạo sự vật, hiện
tượng; miêu tả đúng cảnh vật; khắc họa đúng hình dáng, cá tính, tâm lý nhân

vật. Qua đó người nghệ sĩ có thể bộc lộ tư tưởng, tình cảm, tài năng và sự
sáng tạo của mình.
1.2.2.2. Tính hàm súc
Tính hàm súc là hình thức diễn đạt, qua đó, người nói có thể thông báo
một nội dung thông tin lớn nhất bằng một số lượng các yếu tố ngôn ngữ ít
nhất. Đây là đặc điểm, đồng thời cũng là yêu cầu rất cao của ngôn từ văn học.
Tính hàm súc thường thể hiện ở tính đa nghĩa, ở sự thống nhất tối đa các
chức năng và đặc điểm của ngôn từ nghệ thuật trong một yếu tố của lời nói.
Tính hàm súc còn được thể hiện ở dung lượng lớn những suy nghĩ, tình cảm
mà người viết không viết ra mà người đọc có thể tự mình suy ra được.
Ví dụ: bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương không chỉ miêu tả
hình ảnh bánh trôi nước vừa trắng, vừa tròn và đặc điểm khi sống thì chìm khi
chín thì nổi. Mà qua việc sử dụng phép ẩn dụ, bài thơ còn muốn miêu tả vẻ
đẹp của người phụ nữ trong xã hội xưa nhưng bị lệ thuộc, trói buộc vào lễ
giáo phong kiến. Bài thơ là tiếng nói tự hào, ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ
đồng thời cũng là sự cảm thông, xót thương của nhà thơ đối với số phận nổi
chìm của người phụ nữ xưa.

12


Thông thường trong các tác phẩm văn chương nghệ thuật, ngôn ngữ
nghệ thuật thường hàm súc và đa nghĩa. Tính hàm súc và đa nghĩa là do
phương thức chuyển nghĩa của ngôn ngữ nhờ vào các biện pháp tu từ. Ngô
Lôi Pháp có viết: “Thơ phải được ý ngoài lời. Trong thơ hàm súc vô cùng thế
mới là tôn chỉ của người làm thơ”. Như vậy, ngôn từ trong tác phẩm văn
chương phải cô đọng, phải “nén chặt” ý tối đa trong lời làm cho mỗi từ có sức
nặng và mang nhiều ý nghĩa.
1.2.2.3. Tính hình tượng
Tính hình tượng là khả năng ngôn ngữ có thể tái hiện hiện thực, làm

xuất hiện ở người đọc những hình ảnh, màu sắc, biểu tượng… được nói đến
trong văn bản để người đọc dùng vốn tri thức, vốn sống của mình liên tưởng,
suy nghĩ, rút ra bài học nhân sinh.
Ví dụ: trong bài ca dao:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bài ca dao trên nói về hình tượng cây sen thông qua những hình ảnh,
chi tiết cụ thể như: lá xanh, bông trắng, nhị vàng. Hơn nữa, bao trùm lên tất cả
hình tượng hoa sen như một tín hiệu thẩm mĩ về phẩm chất thanh cao, đẹp đẽ
trong tự nhiên và cả trong xã hội loài người.
Tính hình tượng theo nghĩa rộng nhất có thể xác định là thuộc tính của
lời nói thơ (lời nói nghệ thuật) truyền đạt không chỉ thông tin logic mà còn cả
thông tin được tri giác một cách cảm tính nhờ hệ thống những hình tượng
ngôn từ.
Nhà văn phản ánh hiện thực và thế giới nội tâm bằng tư duy hình tượng
nên mượn ngôn ngữ hình tượng để xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác

13


phẩm nghệ thuật. Hình tượng không mang tính trừu tượng mà mang tính cụ
thể.
Tính hình tượng gắn với tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính chính xác và
tính biểu cảm trong ngôn ngữ văn học.
1.2.2.4. Tính cá thể hóa
Tính cá thể là cái riêng, là khả năng sáng tạo giọng điệu riêng, phong
cách riêng của mỗi nhà văn. Biểu hiện của tính cá thể được thể hiện ở đặc
điểm ngôn ngữ riêng của nhà văn và đặc điểm ngôn ngữ khi miêu tả người và

cảnh.
Ví dụ: Nhà văn Nguyễn Tuân có giọng văn tài hoa, uyên bác; giọng văn
của Nam Cao lạnh lùng đầy thương cảm; giọng thơ Xuân Diệu nồng nàn, đắm
say;… hay khi cùng miêu tả về “trăng” nhưng trong những tình huống khác
nhau của truyện Kiều lại được miêu tả cụ thể gợi những vẻ đẹp không giống
nhau, không lặp lại.
Tính cá thể hóa của ngôn ngữ tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được hiểu là
dấu ấn phong cách tác giả trong ngôn ngữ nghệ thuật. Tính cá thể hóa của
ngôn ngữ tác phẩm nghệ thuật thể hiện ở chỗ cá thể hóa ngôn ngữ tác giả,
ngôn ngữ là chung nhưng sự vận dụng ngôn ngữ là tùy thuộc vào cá nhân.
Mỗi nhà thơ, nhà văn tùy vào xu hướng, sở trường, cá tính… mà hình thành
giọng nói riêng, ngôn ngữ riêng của của nhà thơ, nhà văn đó.
Tính cá thể hóa của ngôn ngữ thể hiện ở từng cảnh, từng sự vật, từng
nhân vật trong tác phẩm. Tính cá thể hóa trong ngôn ngữ văn chương nghệ
thuật chính là cái độc đáo, đặc sắc, không lặp lại.
1.2.2.5. Tính hệ thống
Tính hệ thống là một thể thống nhất bao gồm các yếu tố ngôn ngữ có
quan hệ và liên hệ lẫn nhau. Nhờ có tính hệ thống mà các tác phẩm văn học
có tính tầng bậc, lớp lang tạo nên một chỉnh thể trọn vẹn.

14


Ví dụ:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phơi
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
(Đất nước, Nguyễn Đình Thi)

Ta nhận thấy đoạn thơ trên mang âm hưởng chủ đạo là niềm vui say, náo
nức của tác giả trước sự hồi sinh của dân tộc trong đất trời mùa thu. Điều đó
được thể hiện qua một loạt những từ ngữ như: vui nghe, phấp phới, áo mới,
nói cười, thiết tha,…
1.3. Vài nét về nhà thơ Hồ Xuân Hương
1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng nhất thời kì
văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, bà được nhà
thơ Xuân Diệu vô cùng ái mộ và mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”. Cuộc đời
và con người Hồ Xuân Hương chủ yếu truyền bằng giai thoại và sách.
Đối với người Việt Nam, từ xưa và đến cả thời điểm hiện tại tên tuổi
của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ nhà thơ nào.
Nhưng điều đáng tiếc về cuộc đời của bà chúng ta còn biết quá ít, và những
điều đã biết thì lại chưa được rõ ràng và chưa lấy gì làm chắc chắn. Bởi lẽ, khi
nhắc đến Hồ Xuân Hương thì đây còn là một vấn đề còn bỏ ngỏ, xoay quanh
vấn đề Hồ Xuân Hương còn nhiều dấu chấm hỏi chưa được giải đáp một cách
thỏa đáng, rõ ràng nên cần tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu. Hiện nay vẫn chưa
một ai có thể khẳng định chắc chắn năm sinh, năm mất của bà và nếu có thì
cũng chỉ là phỏng đoán.

15


Từ những gì tìm hiểu được, chúng tôi nhận thấy một số điểm chung như
sau: thân phụ Hồ Xuân Hương là người xứ Nghệ lấy cô gái xứ Bắc họ Hà làm
vợ lẽ. Cuộc đời của Hồ Xuân Hương gắn bó sâu sắc với mảnh đất Thăng
Long. Thuở nhỏ Hồ Xuân Hương ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận
gần Hồ Tây. Tại đây, Hồ Xuân Hương được mẹ cho học hành. Sau đó gia
đình rời về thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xuân (nay là phố Lý
Quốc Sư, Hà Nội). Hồ Xuân Hương có một ngôi nhà riêng bên Hồ Tây lấy tên

là Cổ Nguyệt đường.
Hồ Xuân Hương vốn là một người phụ nữ có học vấn, thông minh, tài
hoa những tưởng được hưởng hạnh phúc viên mãn nhưng cuộc đời bà lại vô
cùng éo le, ngang trái đầy khổ đau. Cuộc đời riêng của bà có nhiều bất hạnh,
tình duyên lận đận. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn và cả hai lần bà đều
chịu cảnh làm lẽ, hạnh phúc của bà không mấy trọn vẹn vì cả hai lần đều ngắn
ngủi. Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì
nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh Tường,
và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến.
Có thể thấy cuộc đời của Hồ Xuân Hương trải qua nhiều sóng gió, bất
hạnh nhưng dù thế nào thì ta vẫn nhận ra một Hồ Xuân Hương có cá tính
mạnh mẽ. Tuy sống trong xã hội phong kiến kìm hãm cái tôi và quyền của
người phụ nữ nhưng bằng tài năng và bản lĩnh của mình, Hồ Xuân Hương đã
vượt qua những lễ giáo khắc nghiệt đó để khẳng định tên tuổi của bà trên thi
đàn văn học. Nhờ vậy mà chúng ta có thể tiếp cận với một Hồ Xuân Hương
vô cùng độc đáo mà khó có ai có thể thay thế vị trí của bà.
Trước đây, người ta chỉ biết đến Hồ Xuân Hương là một nhà thơ mang
phong cách dân gian với mảng thơ Nôm truyền tụng. Nhưng đến năm 1964,
khi Trần Thanh Mại phát hiện ra tập Lưu Hương kí thì chúng ta còn biết đến
Hồ Xuân Hương là tác giả của những bài thơ chữ Hán.

16


Nói đến mảng thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, cho đến ngày nay thì hầu
hết là những bài thơ được lưu truyền trong dân gian và đời sau chép lại. Bản
in thơ Nôm sớm nhất hiện còn là cuốn Xuân Hương thi tập được phiên âm ra
chữ quốc ngữ, do Xuân Lan xuất bản năm 1913. Vì thơ Nôm truyền tụng có
tính chất truyền miệng nên thơ Hồ Xuân Hương có những dị bản và những
nhầm lẫn với thơ của một số tác giả khác như bà Huyện Thanh Quan. Trên cơ

sở dựa vào sự thống nhất về phong cách, các nhà nghiên cứu cho rằng có
khoảng trên dưới bốn mươi bài thơ chữ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân
Hương.
Có lẽ giờ đây ít người còn nghi ngờ Lưu Hương kí không phải là còn của
Hồ Xuân Hương mặc dù Lưu Hương kí có một phong cách khác hẳn thơ Nôm
truyền tụng. Lưu Hương Kí là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất
nước, nó không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ, táo bạo của Hồ Xuân Hương
như ở thơ Nôm. Tiếng nói tình yêu trong Lưu Hương kí là tiếng nói tình yêu
của một con người với các cung bậc buồn, nhớ thương, ước nguyện gắn bó
thủy chung. Hơn nữa tiếng nói tình yêu trong Lưu Hương kí có lúc là lời tự
thoại và có lúc là lời đối thoại qua hình thức xướng họa có lúc thật sâu lắng,
nhẹ nhàng song nhiều khi cũng không kém phần táo bạo. Về mặt nghệ thuật,
dù là hình thức Đường luật hay thể cách luật có phần tự do thì những bài thơ
trong Lưu Hương kí vẫn có những nét chung là mực thước và tao nhã. Lưu
Hương kí mang dáng dấp của nhiều áng thơ cổ, điều đó dường như đã gói Hồ
Xuân Hương vào một thế giới nhỏ hơn, vào một “không gian” hẹp hơn.
Không gian ấy với Hồ Xuân Hương không thỏa sức để bà vùng vẫy, thỏa mãn
tính cách con người bà. Ở không gian thơ ấy cái tôi, cái cá tính mạnh mẽ, độc
đáo của bà không được thể hiện rõ. Cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ
Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của
bà.

17


Nói tóm lại, mặc dù sự nghiệp sáng tác của nhà thơ không mấy đồ sộ, số
lượng tác phẩm để lại cũng không nhiều nhưng với tài năng, cá tính độc đáo
của một thiên tài kỳ nữ bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân
Hương đã khiến những tác phẩm của mình mãi trường tồn với thời gian và
sống mãi trong lòng độc giả cả trong và ngoài nước. Thơ của bà đã được dịch

ra một số tiếng nước ngoài như Nga, Pháp, Anh và cả tiếng Trung. Hiện nay
chỉ có một vài bản dịch ra tiếng nước ngoài như vậy bởi lẽ thơ Hồ Xuân
Hương rất đặc biệt giống như bản thân người sinh ra nó vậy. Nó trở thành thứ
thơ đặc sản chỉ đất Việt ta mới có. Chính vì điều đó mà thơ Hồ Xuân Hương
cuốn hút và chiếm được sự ngưỡng mộ, cảm phục của nhiều độc giả trên thế
giới. Thơ của bà đã vượt qua cả rào cản lớn nhất là ngôn ngữ để đến những
vùng đất mới xa xôi, đến với bạn đọc mến mộ, say đắm thứ văn chương độc,
lạ đầy cá tính của bà. Những sáng tác, thi phẩm đặc sắc đó của bà sẽ còn được
bạn đọc đón nhận nhiệt tình hơn nữa trong tương lai. Đồng thời nó còn nhận
được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Đây chính là
thành công lớn nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương.
1.3.2. Một số đặc điểm thơ Hồ Xuân Hương
Có thể nói thơ Hồ Xuân Hương là sản phẩm sáng tạo vô cùng độc đáo
của một nhà thơ nữ cá tính bậc nhất trong văn học trung đại Việt Nam. Thơ
Nôm Hồ Xuân Hương mang nhiều giá trị lớn cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
1.3.2.1. Một số đặc điểm về nội dung trong thơ Hồ Xuân Hương
Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta thấy hình ảnh người phụ nữ xuất hiện ngập
tràn trong những câu thơ, bài thơ. Người phụ nữ trở thành đối tượng trung
tâm trong sáng tác của nữ thi sĩ. Trong thơ Hồ Xuân Hương, người phụ nữ
mang vẻ đẹp trọn vẹn cả về hình thức lẫn tâm hồn. Tiêu biểu là bài thơ “Bánh
trôi”:

18


Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Hai chữ “thân em” đặt ở đầu câu đã chuyển nghĩa sự gợi tả vẻ ngoài

chiếc bánh trôi thành sự gợi lên vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ, một vẻ đẹp
tròn đầy, xinh xắn, duyên dáng, đầy phúc hậu “vừa trắng lại vừa tròn”. Cụm từ
“tấm lòng son” thường hay nói về tấm lòng thủy chung, son sắt đã chuyển từ đặc
điểm bánh trôi (bánh có nhân đường đỏ bên trong) thành biểu tượng cho vẻ đẹp
phẩm chất tâm hồn. Ở người phụ nữ, “tấm lòng son” là hệ số bất biến trong cái
nghịch biến của cuộc đời. Cho dù cuộc sống có nhiều khó khăn, sóng gió vùi dập
thân phận “bảy nổi ba chìm” thì cũng không thể làm mất đi những vẻ đẹp tâm
hồn, tấm lòng thủy chung của người phụ nữ Việt.
Khi viết về người phụ nữ Hồ Xuân Hương luôn hướng về những đau khổ
riêng của giới mình. Đối tượng mà bà lên tiếng cảm thương, bênh bực là
những người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, khổ đau, bất hạnh: người con gái
“cả nể cho nên hóa dở dang”, người phụ nữ “lấy chồng chung”, người đàn bà
chồng chết… Nhà thơ đồng cảm, thấm thía với cả nỗi khổ vật chất lẫn tinh
thần của người phụ nữ, nhưng sâu sắc hơn là nỗi khổ về tinh thần.
Hồ Xuân Hương đã mượn hình ảnh bánh trôi nước để nói về thân phận
của người phụ nữ:
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
(Bánh trôi)
Tác giả đã vận dụng thành công thành ngữ đảo “bảy nổi ba chìm” và hai
chữ “nước non” đã chuyển nghĩa tả thực (cách luộc bánh trôi) thành nghĩa
ngụ ý (chỉ thân phận người phụ nữ). Câu thơ gợi lên sự long đong, gian truân

19


×