Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ võ quảng (2018)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.82 KB, 65 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THU HÀ

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
TRONG THƠ VÕ QUẢNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THU HÀ

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
TRONG THƠ VÕ QUẢNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. KHUẤT THỊ LAN

HÀ NỘI - 2018



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn
nhiệt tình, chu đáo của T.S. Khuất Thị Lan. Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn
trân trọng nhất tới cô Khuất Thị Lan – ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn chỉ bảo
tận tình để em hoàn thành khóa luận này.
Do thời gian nghiên cứu và năng lực hạn chế, khóa luận khó tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc dự đóng góp của thầy cô và các bạn
để khóa luận này đƣợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thu Hà


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số
liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là hoàn toàn trung thực. Đề tài
chƣa đƣợc công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...... 6
1.1. Giới thuyết ngôn ngữ ................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm thơ .......................................................................................... 6
1.1.2. Đặc trƣng của thơ và ngôn ngữ thơ......................................................... 7
1.1.2.1. Đặc trƣng của thơ ................................................................................. 7
1.1.2.2 Đặc trƣng của ngôn ngữ thơ ................................................................ 10
1.2 Sơ lƣợc về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Võ Quảng .......................... 14
1.2.1 Vài nét về cuộc đời Võ Quảng ............................................................... 14
1.2.2 Sự nghiệp sáng tác ................................................................................. 15
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG THƠ VÕ QUẢNG.......... 19
2.1 Ngôn ngữ giàu nhạc tính trong thơ Võ Quảng.......................................... 19
2.1.1 Thể thơ ................................................................................................... 19
2.1.1.1 Thể thơ ba chữ..................................................................................... 20
2.1.1.2 Thể thơ bốn chữ .................................................................................. 22
2.1.1.3 Thể thơ năm chữ.................................................................................. 24
2.1.1.4 Thể thơ tự do ( 2- 5 chữ) ..................................................................... 26
2.1.2 Thanh điệu .............................................................................................. 29


2.2 Ngôn ngữ giàu hình ảnh trong thơ Võ Quảng........................................... 33
2.2.1 Từ ngữ thuộc trƣờng nghĩa thiên nhiên ................................................. 34
2.2.2 Từ ngữ thuộc trƣờng nghĩa động vật ..................................................... 37
2.2.3 Những bài học đầu tiên về cuộc sống .................................................... 38
2.3 Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại............................................... 42

2.4 Đặc điểm phong cách trong thơ Võ Quảng............................................... 46
2.4.1 Nhân hóa ................................................................................................ 46
2.4.2 So sánh ................................................................................................... 50
2.4.3 Lặp .......................................................................................................... 54
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn chƣơng là nghệ thuật ngôn từ. Đó là ngôn từ của tác phẩm văn học,
của thế giới nghệ thuật, kết quả sáng tạo của nhà văn. Tác phẩm nghệ thuật
không phải là sự sao chép cuộc sống một cách đơn giản một chiều, mà đã
đƣợc khúc xạ qua lăng kính của tác giả. Sức mạnh của tác phẩm văn chƣơng
chính là việc vận dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện, tài hoa của mỗi nhà
văn, nhà thơ.
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học
đƣợc gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Macxim Gorki khẳng định: “Ngôn
ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là
yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn.
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng là
một trong những mảng đề tài nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động hành
chức, một lĩnh vực hoạt động đặc thù: hoạt động nghệ thuật. Việc nghiên cứu
thơ ở phƣơng diện ngôn ngữ, trong đó tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của một
tác giả là một công việc đầy lí thú, là một hƣớng đi cần thiết của việc nghiên
cứu ngôn ngữ.
Võ Quảng từng tâm sự: “Hãy dành cho con trẻ những gì đẹp đẽ và tinh
khiết nhất ngay từ khi trẻ bước vào đời”. Và ông đã thực sự nêu gƣơng đó
trong cả cuộc đời mình, trong những trang văn nhƣ là sự kết tinh toàn bộ tài
năng và tâm hồn ông. Ngoài sáng tác thơ văn, Võ Quảng còn viết nhiều tiểu

luận, phê bình, kinh nghiệm sáng tác và bài giảng về lí luận sáng tác văn học
thiếu nhi...góp phần đắc lực vào sự hình thành và phát triển của nền văn học
thiếu nhi.

1


Võ Quảng là một trong những tác giả có sáng tác đƣợc đƣa vào giảng
dạy trong trƣờng Tiểu học. Vì vậy, việc nghiên cứu thơ Võ Quảng dƣới góc
độ ngôn ngữ sẽ giúp cho việc giảng dạy các tác phẩm của ông nói riêng và thơ
nói chung có hiệu quả hơn.
Từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài:
Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Võ Quảng
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ năm 1983, NXB Kim Đồng trong tập sách Bàn về văn học thiếu
nhi bao gồm bài viết của nhiều tác giả, sau phần I. Thơ viết cho các em, công
trình đã dành hẳn phần II, với 18 bài viết về Tác phẩm của Võ Quảng, với sự
đóng góp của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình. Tiêu biểu nhƣ:
Nguyễn Kiên với Một tấm lòng vì tuổi thơ, Vân Hồng với Võ Quảng và tiểu
thuyết “Quê nội – Tảng sáng”, Tác phẩm và con người Võ Quảng của Đoàn
Giỏi, Phạm Hổ với Vài cảm nghĩ khi đọc thơ Võ Quảng, Vũ Tú Nam với Tài
năng miêu tả của Võ Quảng, Vân Thanh khẳng định vị trí Võ Quảng và văn
học thiếu nhi, Phạm Hoàng Gia với “Quê nội” và mấy đặc trưng tâm lý thiếu
nhi, Võ Quảng với “Quê nội” của Xuân Tùng, Phong Thu với Một thời niên
thiếu trong văn Võ Quảng, Vũ Ngọc Bình với Vài cảm nghĩ về văn thơ Võ
Quảng, và Phong Lê đi vào thế giới thu nhỏ trong “Quê nội” và “Tảng sáng”
của Võ Quảng.
Trong phạm vi tài liệu nghiên cứu mà tôi sƣu tầm đƣợc, tôi nhận thấy
đặc điểm nội dung, nghệ thuật, ngôn ngữ thơ của Võ Quảng đã đƣợc các nhà
nghiên cứu đề cập đến nhƣ sau:

Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đánh giá rất cao ý nghĩa giáo
dục nhân cách trẻ thơ của thơ Võ Quảng. Cả một đời nhà văn Võ Quảng nhƣ
“Anh Đom Đóm” kia, anh Đom Đóm thì canh gác cho mọi vật, cho đất trời,
còn ông canh gác cho con ngƣời, cho thời thơ ấu, cho thời hình thành nhân

2


cách của con ngƣời. Bài thơ “Anh Đom Đóm” của Võ Quảng đã đƣợc nhà
văn Pháp dịch ra tiếng Pháp để giới thiệu cho bạn đọc thế giới.
Nhà văn, nhà thơ Phạm Hổ, ngƣời bạn của Võ Quảng trên con đƣờng
văn học thiếu nhi đã nói lên cảm nghĩ của mình khi đọc thơ Võ Quảng: “Thơ
Võ Quảng thường có những cái hay trong sự mộc mạc, hồn nhiên có khi đến
vụng về, một sự vụng về rất đáng yêu. Và như Pi – cát – xô đã nói – có đôi khi
chính sự vụng về kia là một yếu tố góp phần tạo nên phong cách”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu chỉ qua vài nét về ngôn ngữ trong thơ của
Võ Quảng: “Vốn từ trong thơ ông là những từ thông dụng, ít có từ khó hiểu
đối với trẻ thơ. Cách dùng từ lặp, câu lặp trong thơ hợp với khả năng nhớ của
các em. Những từ láy trong thơ Võ Quảng làm tăng thêm nhịp điệu của lời
thơ. Võ Quảng khéo léo kết hợp mảng từ tượng thanh bằng cách dùng hoàn
toàn bằng tiếng kêu loài vật”.
Xuân Tửu nhận xét về tập thơ “Nắng sớm” của Võ Quảng: Nhìn tổng
quát, tập “Nắng sớm” có một chủ đề tƣ tƣởng rõ rệt: Võ Quảng đã phản ánh
đúng trình độ nhận thức và tâm trạng thiếu nhi Việt Nam trong giai đoạn này:
yêu nƣớc, yêu đồng bào, ghét đế quốc Mỹ.
Ngô Quân Miện cho rằng: “Đọc thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi, ta luôn
bắt gặp những con vật và những cỏ cây. Có thể nói, trong thơ Võ Quảng, có
cả một thế giới loài vật và cỏ cây. Nói một cách khác, trong thơ Võ Quảng có
một mảng vườn bách thú và bách thảo, mà những em bé nào có cái may mắn
được vào đấy đều say mê và yêu thích”.

Vũ Tú Nam nhận xét: “Nhịp điệu và âm sắc trong thơ, văn Võ Quảng là
tiếng vang trong trẻo của tâm hồn anh. Một cái gì đó vừa đầm ấm, đôn hậu,
vừa ngộ nghĩnh, vui tươi, rất gần gũi với bạn đọc thiếu nhi”.
Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học nổi tiếng đã có rất
nhiều lời nhận xét, bàn định về thơ Võ Quảng. Tuy nhiên, những lời nhận xét,

3


bàn định trên vẫn còn mang tính khái quát, chƣa đi sâu vào nghiên cứu đầy đủ
về đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Võ Quảng. Với thơ, ông chỉ chuyên viết cho
lứa tuổi nhỏ. Ông quan niệm thơ văn cho thiếu nhi không nhằm mục đích nào
khác là giáo dục các em. Võ Quảng cũng có phát biểu thêm: giáo dục các em
cần thông qua nghệ thuật một sáng tác chân chính cho thiếu nhi luôn luôn
phải mang tính chất nghệ thuật. Chính vì thế mà tôi chọn đề tài “Đặc điểm
ngôn ngữ trong thơ Võ Quảng” để tìm hiểu sâu hơn ngôn ngữ trong thơ
ông.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi mong muốn khai thác những đặc điểm ngôn ngữ
trong thơ Võ Quảng. Từ đó, góp phần khẳng định tài năng, phong cách nghệ
thuật độc đáo của Võ Quảng cùng những đóng góp to lớn của ông cho nền
văn học nƣớc nhà nói chung và nền văn học thiếu nhi nói riêng.
Bên cạnh đó còn là cơ sở giúp chúng tôi có những hiểu biết nhất định về
tác giả Võ Quảng, trau dồi thêm năng lực cảm thụ văn chƣơng từ góc độ ngôn
ngữ phục vụ cho công tác giảng dạy sau này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, luận văn thực hiện những nhiệm sau:
Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài.
Khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Võ Quảng.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Võ Quảng.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về đặc điểm dùng từ, đặt câu, diễn đạt
trong thơ Võ Quảng. Những tập thơ: Gà mái hoa (1957), Thấy cái hoa nở
(1962), Nắng sớm (1965), Anh đom đóm (1070), Măng tre (1971).

4


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phƣơng pháp
nghiên cứu sau đây:
Phƣơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại đƣợc thực hiện để có nguồn
ngữ liệu về ngôn ngữ trong thơ Võ Quảng nhằm phục vụ cho việc khảo sát,
phân tích, tìm hiểu đối tƣợng nghiên cứu.
Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu là phƣơng pháp chủ yếu đƣợc sử dụng
trong khóa luận. Phƣơng pháp này đƣợc vận dụng để tìm hiểu đặc điểm dùng
từ, đặt câu, cách diễn đạt trong thơ Võ Quảng.
Thủ pháp so sánh đƣợc dùng trong khóa luận để so sánh ngôn ngữ viết
cho trẻ em và ngôn ngữ trong các tác phẩm viết cho ngƣời lớn để thấy rõ tính
chất điển hình trong việc sử dụng ngôn ngữ của Võ Quảng. Đồng thời rút ra
những nhận xét, kết luận tổng quát nhằm thể hiện rõ những mục đích cần
hƣớng tới của đề tài.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, khóa luận gồm 2 chƣơng:
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẦN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG THƠ VÕ QUẢNG

5



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Giới thuyết ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm thơ
Thơ là một thể loại văn học nảy sinh và phát triển rất sớm, đƣợc xem là
hình thái văn học đầu tiên của nhân loại.
Về thơ có thể điểm qua một số quan niệm về thơ nhƣ sau:
Platon xem nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng nhƣ một hiện tƣợng
thần bí, cao siêu. Đối lập với quan niệm này, Arisstotle coi thơ ca là hiện
tƣợng do con ngƣời tạo ra theo những quy luật khác nhau, những quy tắc tổ
chức chặt chẽ.
Ở Trung Hoa, nói đến thơ ca, các học giả thƣờng nhấn mạnh tới chức
năng xã hội của nó. Tuân Tử, Trang Tử cho rằng: “Thi dĩ ngôn chí”, “Thi dĩ
đạo chí” tức là thơ ca để giáo hóa đạo hóa, di dƣỡng tính tình, để khí ngôn
cảm hoài.
Ở Việt Nam, quan niệm về thơ trƣớc kia gần nhƣ xuất phát từ nội dung.
Xem nội dung nói về điều gì, đó là điều quan trọng hàng đầu của thơ. Theo
Phan Huy Ích “Thơ là để nói chí hướng. Bậc quân sĩ lúc nhàn rỗi miêu tả tâm
tình, ghi lại hình trạng, thường thường biểu hiện ra thiên chương truyền lại
cho người sau, dùng làm niên phải để lại lâu dài. Đó thực là kho báu trong
nhà, đâu chỉ phô bày ý tứ văn vẻ, phẩm bình văn vật mà thôi...” [4,7]. Đây
đƣợc coi là một nguyên tắc mĩ học của thơ ca Trung Quốc và Việt Nam thời
trung đại. Quan niệm này đã chi phối, định hƣớng sáng tác của các thi sĩ nho
gia nhiều thế kỉ. Bƣớc sang thế kỉ XX, đời sống xã hội Việt Nam có những
biến đổi sâu sắc. Các nhà thơ mới với những cách tân táo bạo đã làm đổi thay
bộ mặt thơ ca nƣớc nhà. Thơ đƣợc định nghĩa thiên về xu hƣớng thần bí hoặc
dựa trên cấu trúc ngôn ngữ hoặc dựa vào tính nội dung của hình thức.

6



“Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp
nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức
ngôn ngữ này”[7,132].
“Thơ là hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp
điệu để thể hiện nội dung một cách hàm súc”[8,1478].
Định nghĩa về thơ của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi có thể xem là chung nhất, khái quát nhất cho tất cả các quan niệm
nêu trên: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, những tâm
trạng, những xúc cảm mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và
nhất là có nhịp điệu”.
Các định nghĩa trên tuy khác nhau về góc nhìn, nhƣng đều có sự thống
nhất tƣơng đối về đặc điểm của thơ, đó là:
- Thơ có hệ thống, có tổ chức riêng
- Có nhịp, vần điệu
- Thể hiện cảm xúc riêng bằng hình ảnh
Nhƣ vậy, thơ có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Thơ là hình thức sáng
tác của văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm
xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp
điệu”.
1.1.2. Đặc trưng của thơ và ngôn ngữ thơ
1.1.2.1. Đặc trưng của thơ
a. Đặc trƣng hình thức
- Thanh điệu
Thanh điệu là sự thay đổi cao độ của giọng nói, tức tần số âm cơ bản
trong một âm tiết có tác dụng khu biệt các từ có nghĩa khác nhau. Thanh điệu
là đặc trƣng của âm tiết tiếng Việt, mỗi âm tiết đều có một thanh điệu. Xét
theo từng tiêu chí ta có những thanh điệu đối lập nhau:

7



Về âm vực, các thanh có âm vực cao là “không dấu”, “ngã”, “sắc”. Các
thanh thuộc âm vực thấp là “huyền”, “hỏi”, “nặng”.
Về âm điệu, các thanh có âm điệu bằng phẳng, hay còn gọi đơn giản là
bằng, gồm có “không dấu”, “huyền”; các thanh có âm điệu không bằng
phẳng hay còn gọi là trắc, gồm có “ngã”, “sắc”, “hỏi”, “nặng”. Các thanh
có âm điệu gãy là “ngã”, “hỏi”; các thanh có âm điệu không gãy là “sắc”,
“nặng”.
Sự khác nhau về thanh điệu sẽ tạo nên tính nhạc cho bài thơ.
- Vần điệu
Theo Heghen vần trong thơ là: “do nhu cầu thực sự của tâm hồn muốn
nhìn thấy mình được biểu lộ rõ hơn, có sự vang dội đều đặn” [3, 18].“Thực
chất là sự hòa âm, sự cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất
định giữa hai từ hoặc là giữa hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ, gợi tả,
nhấn mạnh sự ngừng nhịp” [2, 12]. Có thể nói vần là chất keo chắp nối, gắn
kết các dòng thơ lại thành từng đoạn, từng khổ và từng bài hoàn chỉnh. “Ở
các câu thơ, khổ thơ có vần với chức năng tổ chức vần thơ như sợi dây ràng
buộc các dòng thơ lại với nhau, do đó giúp việc đọc thuận miệng, nghe thuận
tai, và làm cho người đọc, người nghe dễ thuộc, dễ nhớ”.
Trong các vần thơ bao giờ cũng có sự cộng hƣởng, sự hòa phối âm thanh
với nhau của hai âm tiết có vần. Đồng thời còn có sự hòa xƣớng đối lập nhau
giữa các yếu tố tƣơng ứng trong hai âm tiết hiệp vần nhằm tạo ra sự hòa âm
cho các cặp vần. Đó là sự hòa âm giữa thanh điệu của hai âm tiết hiệp vần,
giữa âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối của âm tiết này với âm tiết kia.
Trong quá trình đó thanh điệu, âm chính, âm cuối là những yếu tố cơ bản
tham gia vào việc tạo nên sự hòa âm cho các vần thơ.
Theo ý kiến của Triều Nguyên có hai cách phân loại vần:

8



+ Dựa theo mức độ hòa âm, vần đƣợc chia làm ba loại: Vần chính, vần
thông và vần ép.
Vần chính đòi hỏi các tiếng hiệp vần phải có phần thanh điệu và phần
vần đồng nhất. Phần thanh điệu đồng nhất là hoặc cùng dấu hoặc cùng bằng
hay cùng trắc, phần vần đồng nhất khi giữa các tiếng hiệp vần cùng có phần
vần giống nhau. Riêng âm đệm có thể có hoặc không có.
Vần thông đòi hỏi các tiếng hiệp vần phải có thanh điệu đồng nhất, phần
vần có âm chính hoặc đồng nhất đặc trƣng âm sắc, hoặc đồng nhất đặc trƣng
âm lƣợng, âm cuối hoặc đồng nhất hoàn toàn, hoặc đồng nhất đặc trƣng vang,
hoặc đồng nhất đặc trƣng ồn.
Vần ép có thanh điệu và âm cuối nhƣ vần thông, có âm cuối vƣợt ra
ngoài các ràng buộc về mặt ngữ âm: không đồng nhất hoặc không cùng nhóm
trong lúc âm chính lại đồng nhất đặc trƣng âm sắc hay âm lƣợng.
+ Dựa vào vị trí của tiếng mang vần ở trong dòng thơ, khổ thơ, vần đƣợc
chia làm hai loại: vần chân và vần lƣng.
Vần chân là những vần gieo vào tiếng ở cuối dòng thơ. Vần lƣng là vần
gieo vào các tiếng còn lại, có thể là gieo tiếng đầu, tiếng giữa hay tiếp áp cuối
của dòng.
- Thể thơ
Thể thơ là một hình thức biểu hiện vốn đƣợc xem nhƣ trung lập với nội
dung tƣ tƣởng của sáng tác nhƣng cũng phải thấy rõ năng lực biểu hiện và khả
năng thích ứng với nội dung sáng tác trong từng trƣờng hợp cụ thể.
Trong quá phát triển, thơ ca dân tộc vừa có sự định hình lại vừa có sự
biến đổi của các thể thơ. Lịch sử văn học dân tộc đã ghi nhận sự hình thành
các thể thơ theo những con đƣờng khác nhau. Nhiều thể thơ có nguồn gốc từ
văn hóa dân gian phát triển lên. Một số khác lại du nhập từ nƣớc ngoài, trải

9



qua quá trình Việt hóa của ngƣời Việt mà hình thành. Do đó những tác phẩm
xuất sắc dù ở thể thơ nào cũng đều chứa chan tính cách của ngƣời Việt.
Để phân biệt các thể thơ, ngƣời ta căn cứ vào số lƣợng âm tiết và phần
vần trong mỗi bài thơ. Căn cứ vào số lƣợng âm tiết trong dòng thơ, ngƣời ta
đã chia ra thành nhiều thể thơ: thể thơ 4 chữ, thơ 5 chữ, thơ 6 chữ, thơ lục bát,
thơ tự do,...
b. Đặc trƣng nội dung
Để làm thơ chỉ có tính nhạc thôi chƣa đủ, cùng với ngữ âm thì ngữ nghĩa
cũng là một yếu tố cấu thành tác phẩm thơ ca. Ngữ nghĩa trong thơ khác ngữ
nghĩa giao tiếp thƣờng nhật và khác với ngữ nghĩa trong văn xuôi. Khi tìm
hiểu thơ, ta thấy ngữ nghĩa thơ không chỉ dừng lại ở nghĩa đen, nghĩa gốc,
nghĩa ban đầu của nó mà thƣờng phản ánh những tầng nghĩa mới, nghĩa phái
sinh tinh tế, đa dạng hơn đem lại cho bài thơ sức biểu hiện phong phú. Trong
thơ có những từ ngữ sử dụng các phép chuyển nghĩa nhƣ ẩn dụ, hoán dụ, so
sánh làm cho nội dung ngữ nghĩa của thơ trở nên mơ hồ, nhiều khi không xác
định, phải lựa chọn, liên tƣởng, tƣởng tƣợng mới có thể giải mã và cảm thụ
hết vẻ đẹp của câu thơ. Bên cạnh đó còn sử dụng biện pháp đảo ngữ, đảo từ,
đảo cú pháp, sự kết hợp không bình thƣờng, kể cả cách ngắt câu lạ mà trong
cấu trúc văn xuôi không đƣợc phép. Chính đặc trƣng ngữ nghĩa này tạo cho
ngôn ngữ thơ có sức cuốn hút bạn đọc.
Nội dung và hình thức không những gắn bó mật thiết với nhau mà còn có
sự chuyển hóa vào nhau. Heghen đã từng nói: “Nội dung chẳng phải cái gì
khác, mà chính là sự chuyển hóa của hình thức và nội dung, và hình thức
cũng chẳng khác gì hơn là sự chuyển hóa của nội dung và hình thức” [3,
224].
1.1.2.2 Đặc trưng của ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đƣợc quy ƣớc trong một cộng đồng xã hội


10


nhất định. Trong bối cảnh giao tiếp đa dạng, ngôn ngữ đƣợc dùng để thực
hiện các mục đích giao tiếp khác nhau, phục vụ nhu cầu bộc lộ tình cảm, nhận
thức và hành động ở con ngƣời. Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ đƣợc tạo ra
trên cơ sở lao động sáng tạo nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ. Nhà văn, nhà thơ là
những ngƣời nhào nặn ngôn ngữ toàn dân thành phát ngôn mang phong cách
riêng, tạo ra những hình tƣợng nghệ thuật sinh động làm thay đổi tƣ tƣởng,
tình cảm của ngƣời đọc.
Nói nhƣ vậy để thấy rằng, phải có ngôn ngữ chung mới có ngôn ngữ cá
nhân và ngôn ngữ nghệ thuật. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và ngôn ngữ
nghệ thuật là điều không thể phủ nhận. Hơn ai hết, các nhà thơ, nhà văn là
ngƣời cảm thụ sâu sắc và tinh tế nhất mọi yếu tố thuộc về cái hay, cái đẹp, cái
đặc sắc của ngôn ngữ dân tộc.
Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng đặc biệt đối với văn học, nhƣ màu sắc đối
với hội họa, tiết tấu đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Nói cho
cùng, văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Những nhà thơ, nhà văn lớn đều là
những nhà ngôn ngữ trác tuyệt. Trong lao động nghệ thuật, nhà văn luôn phải
gia công tinh lọc để lựa chọn hệ thống ngôn từ nghệ thuật. Giữa ngôn ngữ đời
sống và ngôn ngữ văn học có sự khác biệt. Theo M. Gor – ki, ngôn ngữ nhân
dân là tiếng nói “nguyên liệu”, còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã đƣợc
những ngƣời thợ tinh xảo, nhào luyện.
Đồng thời, mỗi loại tác phẩm theo thể loại lại có những đặc trƣng ngôn
ngữ riêng. So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ có những đặc trƣng riêng.
Ngôn ngữ thơ viết cho trẻ em cũng khác với ngôn ngữ thơ dành cho ngƣời
lớn. Cái hay của thơ là dùng cái hữu hạn của ngôn ngữ để thể hiện cái vô hạn
của cuộc sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và xã hội cũng nhƣ tâm tƣ tình
cảm của con ngƣời, Phan Ngọc đã nhận xét: “Thơ là một cách tổ chức ngôn
ngữ hết sức quái đản” [7, 132].


11


Tuy nhiên thực tế cho thấy, ngôn ngữ thơ chính là một dạng đặc thù của
ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ là sản phẩm hoàn mỹ đƣợc ngƣời nghệ sĩ
gọt giũa một cách tỉ mỉ, công phu nhằm diễn đạt tinh tế và sắc nét ý đồ tƣ
tƣởng nghệ thuật của mình. Ngôn ngữ thơ có những đặc tính: tính hệ thống,
tính cá thể hóa, tính hình tƣợng, tính đa nghĩa. Tuy nhiên, không phải lúc nào
những đặc điểm này cũng biểu hiện giống nhau, mà tùy thuộc vào mỗi loại tác
phẩm chúng đƣợc biểu hiện bằng những sắc thái và những mức độ khác nhau.
Tính hệ thống là một tập hợp gồm nhiều yếu tố tác động qua lại lẫn
nhau. Biểu hiện của tính hệ thống là các yếu tố ngôn ngữ trong một tác phẩm
nghệ thuật phải phù hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, bổ sung, giải thích cho
nhau, nâng đỡ nhau để thực hiện một nhiệm vụ giao tiếp nhất định; thống nhất
trong cách sử dụng ngôn ngữ của các tác giả để làm nổi bật phong cách tác
giả; phù hợp giữa hình thức văn bản và nội dung văn bản. Trong bài thơ
“Mùa xuân nho nhỏ” các chi tiết thể hiện màu sắc (long lanh, tím biếc,..), thi
liệu tƣợng trƣng cho cái đẹp (chim hót, dòng sông,...), âm thanh,... chúng bổ
sung, hỗ trợ làm rõ bức tranh mùa xuân, tâm trạng phấn khởi của thi nhân.
Tính cá thể hóa là dấu ấn phong cách vẻ riêng của các nhà văn, nhà thơ
trong cách sử dụng ngôn ngữ. Biểu hiện của tính cá thể hóa là sở thích, sở
trƣờng trong sử dụng ngôn ngữ của các nhà văn, nhà thơ; khả năng sáng tạo;
kĩ thuật dùng ngôn ngữ để tạo ra sự khác biệt giữa các nhân vật, giữa các cảnh
đời, cảnh ngƣời trong cùng một tác phẩm hay các tác phẩm khác nhau. Ví dụ
nhƣ Nguyễn Khuyến thƣờng sử dụng cách nói thâm trầm, sâu sắc, thấm thía.
Tú Xƣơng thì chửi thẳng, đời thƣờng, dung tục.
Tính hình tƣợng là ngôn ngữ có khả năng tái hiện hiện thực làm cho hiện
thực trong tác phẩm hiện nên sinh động nhƣ chính hiện thực ngoài đời và
ngƣời đọc có thể cảm nhận bằng các giác quan. Tính hình tƣợng đƣợc biểu

hiện qua việc thể hiện một chi tiết có màu sắc, hình ảnh qua việc dùng từ láy;

12


dùng các biện pháp tu từ; nhà văn tái hiện hiện thực làm hiện thực hiện lên
sinh động có đƣờng nét, hình khối. Trong câu thơ:
“Buổi chiều ứa máu
Ngổn ngang những vũng bom”
(Nguyễn Đình Thi)
Sự tan hoang, chia cắt của đất nƣớc trong chiến tranh đƣợc thể hiện qua
ngổn ngang, vũng máu.
Tính đa nghĩa là ngôn ngữ nói đƣợc nhiều nhất trong một số lƣợng yếu
tố ngôn ngữ ít nhất. Biểu hiện của tính đa nghĩa là nói đƣợc nhiều tầng ý
nghĩa trong một số lƣợng yếu tố ngôn ngữ ít nhất thông qua sử dụng các biện
pháp tu từ, các từ ngữ đắt; thể hiện tập trung đến mức tối đa nhiều đặc trƣng
trong một hoặc một vài yếu tố ngôn ngữ. Ví dụ từ “tót” trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du là một từ đắt, có tính hình tƣợng là miêu tả dáng ngồi của Mã
Giám Sinh; tính chính xác lột tả bản chất vô học, vô văn hóa của Mã Giám
Sinh; tính truyền cảm là thái độ của tác giả với nhân vật. Nhƣ vậy từ “tót” có
tính đa nghĩa.
Xét về phạm vi thể loại, ngôn ngữ thơ đƣợc hiểu là một chùm đặc trƣng
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm biểu trƣng hóa, khái quát hóa hiện thực
khách quan theo một cách tổ chức riêng của thơ ca.
Hàm súc và giàu sức biểu hiện, ngôn ngữ thơ ca cô đúc, chặt chẽ với số
lƣợng từ rất hạn định nhƣng năng lực biểu hiện lại rất lớn. Mỗi từ ngữ trong
câu thơ phải diễn tả đƣợc đúng điều mà nhà thơ nhìn thấy, cảm thấy và những
điều sẽ thấy, ít lời mà nói đƣợc nhiều ý, “ý ở ngoài lời”. Vì vậy, mỗi nhà thơ
luôn cố gắng chọn một cách tốt nhất để diễn đạt. Nhờ việc tổ chức ngôn ngữ
độc đáo mà ngoài ngữ nghĩa thông báo của bài thơ ta còn thấy ngữ nghĩa

khác. Điều đó đã tạo nên tính đa tầng ý nghĩa trong thơ, giúp nhà thơ chuyển
tải tối đa sự phức tạp tinh tế của tâm trạng, tình cảm con ngƣời trong sự hữu

13


hạn của số lƣợng câu chữ. Thông qua hệ thống chữ, ngƣời đọc phải suy nghĩ,
giải mã với khát khao chiếm lĩnh trọn vẹn nội dung lẫn hình thức. Chính điều
này mà thơ luôn hấp dẫn ngƣời đọc, lôi cuốn ngƣời đọc.
1.2 Sơ lƣợc về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Võ Quảng
1.2.1 Vài nét về cuộc đời Võ Quảng
Võ Quảng sinh ngày 01 tháng 3 năm 1920 trong một gia đình nhà nho
trung lƣu ở xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, bên dòng sông Thu Bồn, Quảng Nam
– Đà Nẵng (con sông đã in dấu ấn đậm nét trong rất nhiều sáng tác của Võ
Quảng). Ông chịu ảnh hƣởng lớn của cha, là một nhà nho, về lòng say mê văn
học.
Năm 15 tuổi, Võ Quảng rời quê ra học ở trƣờng Quốc học Huế. Năm
17 tuổi, ông tham gia phong trào học sinh yêu nƣớc, gia nhập Đoàn Thanh
niên Dân chủ. Năm 19 tuổi, ông gia nhập Đoàn Thanh niên Phản đế, làm tổ
trƣởng, hoạt động bí mật ở Huế. Năm 21 tuổi, ông bị Pháp bắt giam ở nhà lao
Thừa Phủ, sau đó bị đƣa về quản chế ở quê cho tới lúc Cách mạng tháng Tám
bùng nổ. Có thể nói, xứ Huế là nơi đã ghi dấu bao kỉ niệm một thời học sinh
sôi nổi, khao khát đổi thay và hƣớng tới cách mạng của ông. Những ngày hoạt
động ở Huế và thời gian bị quản thúc ở quê nhà, ông đã tranh thủ đọc nhiều
và vốn hiểu biết của ông, vì thế cũng đƣợc mở rộng trên nhiều lĩnh vực.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông đƣợc giao làm Phó Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến hành chính Đà Nẵng. Năm 1948, ông đƣợc cử làm phó
chánh án Tòa án Quân sự miền Nam Việt Nam, sau đó là Hội thẩm nhân dân
Tòa án nhân dân liên khu V. Trong suốt 9 năm nền dân chủ cộng hòa, Võ
Quảng đã khẳng định đƣợc năng lực hoạt động của mình trên hai lĩnh vực

hành chính và pháp luật.
Sau năm 1954, Võ Quảng tập kết ra Bắc. Ông đã từ chối con đƣờng
hoạt động chính trị - một con đƣờng đầy thuận lợi và triển vọng đối với ông

14


lúc bấy giờ - để đi theo nghề viết văn. Đây là bƣớc ngoặt quan trọng trong
cuộc đời Võ Quảng. Kể từ đó, ông chỉ chuyên tâm với sáng tác văn học cho
trẻ em, hết mình vì trẻ thơ. Ông là một trong những ngƣời đã bỏ nhiều công
sức để xây dựng nền móng đầu tiên cho nền văn học thiếu nhi dƣới chế độ
mới. Ông là Tổng biên tập đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng (từ 1957 –
1964). Là ngƣời tâm huyết với nghề, ông đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu bồi
dƣỡng đạo đức, tình cảm và giáo dục tƣ cách làm ngƣời cho các em ngay từ
tuổi ấu thơ.
Võ Quảng mất năm 2007. Tất cả những sáng tác ông để lại cho các em
đều là những giá trị tinh thần không gì có thể thay thế.
1.2.2 Sự nghiệp sáng tác
Mỗi nhà văn, ngay từ khi bắt đầu cầm bút thƣờng vẫn chọn cho mình
một đối tƣợng sáng tác cụ thể. Là ngƣời trực tiếp cầm bút, đồng thời cũng là
ngƣời từng nhiều năm đảm trách lãnh đạo Nhà xuất bản Kim Đồng, Võ
Quảng đã có nhiều bài viết, bài phát biểu, lời tâm sự,...trực tiếp nói lên quan
niệm của ông về văn học thiếu nhi. Ông quan niệm: “Thiếu nhi chiếm non
nửa dân số. Do đó, mọi vấn đề liên quan đến thiếu nhi đều mang tính chất đồ
sộ”. Và ông cũng từng tâm sự rằng: “Hãy dành cho con trẻ những gì đẹp đẽ
và tinh khiết nhất ngay từ khi trẻ bước vào đời”. Có lẽ chính vì thế mà ngay
sau khi tập kết ra Bắc, Võ Quảng đã xin thôi hẳn công tác chính quyền để
chuyển sang hoạt động văn học thiếu nhi. Ông đã thực sự nêu gƣơng đó trong
cả cuộc đời mình, trong những trang văn nhƣ là sự kết tinh toàn bộ tài năng và
tâm hồn ông.

Thành công trên nhiều thể loại nhƣng thơ và văn viết cho thiếu nhi là
lĩnh vực mà ông chuyên tâm sáng tạo nhất. Võ Quảng quan niệm: “Thơ, theo
đúng nghĩa của nó, dù là thơ bộc lộ tâm tư hay vẽ lên một cảnh đẹp, hoặc vẽ
lên một cuộc sống, hay phản ánh một thời đại, tất cả cuối cùng đều xuất phát

15


từ những rung động chân thật của nhà thơ. Chính những rung động chân thật
và sâu đó đã làm cho chất thơ có sự sống, có hơi thở, làm cho hiện thực phản
ánh hóa sinh động, làm cho chủ đề tư tưởng của thơ cùng phát huy mạnh mẽ
hơn” (Làm thơ cho thiếu nhi). Đó là những bài thơ xinh xắn, nhẹ nhàng
nhƣng mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Ông kể về quê hƣơng, viết về những gì
gần gũi với cuộc sống của trẻ thơ. Đặc biệt, ông có lối viết dí dỏm, hóm hỉnh,
giàu nhạc điệu. Võ Quảng có những tập thơ tiêu biểu nhƣ: Gà mái hoa
(1957), Thấy cái hoa nở (1962), Nắng sớm (1965), Anh Đom Đóm (1970),
Măng tre (1971), Én hát và đu quay (in chung – 1972). Thơ ông thấm đẫm
chất trữ tình, nhẹ nhàng và thân mật nhƣ nƣớc ngầm tƣơi mát nuôi dƣỡng tâm
hồn ngây thơ các em, mở ra cho các em cả một chân trời nhận thức về thế giới
xung quanh, khơi dậy những tình cảm tốt đẹp.
Mảng văn xuôi viết cho thiếu nhi của Võ Quảng khá phong phú.
Truyện ông viết cho thiếu nhi thƣờng khai thác những chủ đề về sự nảy nở
hồi sinh của con ngƣời sau bão táp Cách mạng, cỏ cây, loài vật khi mùa xuân
về. Có thể nhận ra tình yêu quê hƣơng của Võ Quảng qua những trang sách
miêu tả thiên nhiên và con ngƣời xứ Quảng, với những tác phẩm tiêu biểu
nhƣ: Cái Thăng (1961), Chỗ cây đa làng (1964), Cái mai (1967), Những
chiếc áo ấm (1970), Quê nội (1973), Bài học tốt (1975), Tảng sáng (1976).
Ngoài phần sáng tác thơ văn, Võ Quảng còn viết nhiều tiểu luận, phê
bình, kinh nghiệm sáng tác và bài giảng về lí luận sáng tác văn học thiếu
nhi,..góp phần đắc lực vào sự hình thành và phát triển của nền văn học thiếu

nhi Việt Nam. Những bài viết tiêu biểu về tiểu luận – phê bình nhƣ: Chung
quanh vấn đề sáng tác văn thơ cho thiếu nhi, Làm thơ cho thiếu nhi, Truyện
đồng thoại cho thiếu nhi, Thơ cho thiếu nhi, Nói về ngôn ngữ văn học đi vào
nhà trƣờng, Một số ý nghĩ chung quanh vấn đề sách viết cho thiếu nhi....

16


Võ Quảng từng bộc bạch tâm sự: “Văn học thiếu nhi có mục đích chủ
yếu là giáo dục các em biết sống tốt đẹp, biết cảm thông, biết yêu thương, biết
quý trọng cái đẹp, phải hiểu rõ nghĩa vụ làm người. Tôi thường chọn viết cho
các em những gì tôi yêu thương, quen biết, tôi hay viết về sự việc ở chốn thôn
quê, nơi tôi đã từng yêu thương từ nhỏ cho đến lúc khôn lớn. Tôi viết về cuộc
đời sau Cách mạng tháng Tám đã trả lại tự do cho tôi, cho bà con tôi. Mong
sao chữ tôi viết đó không phải là những chữ mà là những rung động của tâm
hồn tôi. Viết cho thiếu nhi là niềm vui và lẽ sống của tôi trong những năm
qua”. Võ Quảng là gƣơng mặt tiêu biểu của văn học thiếu nhi Việt Nam. Suốt
cuộc đời cầm bút viết văn của mình, ông đã dành chọn tài năng và tâm huyết
cho các em – những đọc giả nhí nhỏ tuổi đầy yêu mến. Trải qua nhiều thập kỉ,
những sáng tác của Võ Quảng vẫn luôn đƣợc các em đón nhận một cách hào
hứng, trở thành hành trang cho các em khôn lớn vào đời.
Tiểu kết
Trong chƣơng đầu của luận văn, chúng tôi trình bày những vấn đề lí
thuyết có liên quan đến phần khai thác đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Võ
Quảng.
Thơ là một loại hình nghệ thuật đặc thù, độc đáo. Ngôn ngữ thơ là một
phƣơng diện hình thức góp phần quan trọng làm nên phong cách, diện mạo
của thơ. Nhịp điệu, vần, thanh điệu, thể thơ là những biểu hiện rõ nhất cách tổ
chức ngôn từ trong thơ. Đó cũng là những yếu tố tạo ra những nét riêng, nét
đặc sắc ở mỗi nhà thơ.

Cuộc đời của Võ Quảng trải qua rất nhiều biến cố thăng trầm. Ông sinh
trƣởng trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió của đất nƣớc, của lịch sử cách
mạng Việt Nam. Từ Quảng Nam tập kết ra Bắc, Võ Quảng có những cơ hội
để thăng tiến trên con đƣờng chính trị. Thế nhƣng, ông lại chọn con đƣờng kết
bạn với trẻ em. Dành chọn cuộc đời mình cống hiến cho thiếu nhi, Võ Quảng

17


đẫ để lại một khối lƣợng tác phẩm lớn mà đến nay các em thiếu nhi vẫn yêu
thích. Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Võ Quảng góp phần làm nổi bật
đặc điểm và phong cách thơ Võ Quảng, khẳng định vị trí và tài năng của nhà
thơ.

18


CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG THƠ
VÕ QUẢNG
Ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ ca. Ngôn ngữ là
công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. M. Gorki khẳng định: “Ngôn ngữ là
yếu tố thứ nhất của văn học”. Có nghĩa là không có ngôn ngữ thì không thể
có tác phẩm văn học. Nhờ có ngôn ngữ mà thế giới nhân vật hiện ra sống
động trƣớc mắt ngƣời đọc. Qua đó, độc giả mới có thể hiểu đƣợc những nội
dung tƣ tƣởng, chủ đề tác phẩm đƣợc gửi gắm đằng sau hình tƣợng ấy. Vì
vậy, văn học đƣợc gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ đã đƣợc coi
là một yếu tố quan trọng hàng đầu thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách và tài
năng của nhà văn, nhà thơ. Nhƣng không phải bất cứ thứ ngôn ngữ nào cũng
trở thành ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Nhà thơ phải trau dồi, mài giũa,
chắt lọc và kết hợp với khả năng sáng tạo của mình để biến ngôn ngữ toàn

dân thành ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Ngôn ngữ của mỗi nhà thơ có sự
riêng biệt, độc đáo khác nhau.
Võ Quảng có lối viết dí dỏm, hóm hỉnh, giàu nhạc điệu không lẫn với bất
cứ ai. Ông quan niệm: “Tác phẩm văn học viết cho các em là một công trình
sư phạm. Người viết cần cân nhắc nên nói cái gì, nói như thế nào để có lợi
cho tâm hồn các em mà không ảnh hưởng đến sự thể hiện nghệ thuật”.
2.1 Ngôn ngữ giàu nhạc tính trong thơ Võ Quảng
Thơ Võ Quảng rất giàu nhạc điệu. Trẻ em thích thơ ông và dễ thuộc thơ
ông cũng vì nhạc điệu trong đó. Nhạc điệu của thơ liên quan chặt chẽ tới việc
tổ chức câu thơ, vần, nhịp, tới sự mô phỏng âm thanh. Ngôn ngữ giàu nhạc
tính đƣợc thể hiện rõ nét qua các yếu tố sau:
2.1.1 Thể thơ
Võ Quảng từng nhận xét: “Khoảng cách ba năm giữa một em bé 3 tuổi
với một em bé 6 tuổi là rất xa. Khoảng cách 60 năm giữa một thiếu niên 14

19


×