Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Thảo luận dân sự 1 lần 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95 KB, 12 trang )

Bài 1: Hình thức của di chúc
Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý được quy định tại Điều
633 BLDS 2015, theo đó thì:
“Người lập di chúc phải tự viết và tự ký vào bản di chúc”.
Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp hay
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo quy định tại Điều 632 BLDS 2015 thì:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.”
Xét trường hợp của ông Này, những người làm chứng bao gồm cha, em gái, em trai
của ông.
Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015, cha đẻ của người chết thuộc hàng
thừa kế thứ nhất. Điều này đồng nghĩa với việc cha đẻ ông Này làm chứng là không hợp
pháp do vi phạm khoản 1 Điều 632 BLDS.
Về phần em gái, em trai của ông Này, tuy thuộc hàng thừa kế thứ hai theo điểm b
khoản 1 Điều 651 BLDS nhưng những người ở hàng thừa kế thứ nhất tại điểm a như con
đẻ, cha đẻ vẫn còn nên không được xem là vi phạm khoản 1 Điều 632. Vì vậy, em gái, em
trai của ông Này làm chứng việc lập di chúc là hợp pháp.
Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Theo quyết định số 83/2009/DSPT:

1


Trong phần Nhận thấy có đoạn: “Để tránh tranh chấp về sau nên ông Này viết giấy


này để nhà và đất đai cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này ông Này có mất thì cháu
Hiếu có chỗ ở và thờ cúng cho ông Này.”
Trong phần Xét thấy có đoạn: “Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết
không được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập lúc
ông Này còn minh mẫn, sáng suốt…"





 Như vậy, di chúc của ông Này do ông Này tự viết tay.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay?
Tòa án giải thích việc công nhận di chúc ông Này là hợp lý vì:
Căn cứ theo quy định tại Điều 633 BLDS 2015, điều kiện về hình thức duy nhất
đối với di chúc tự viết tay là người lập phải tự viết và tự ký vào bản di chúc. Ngoài
ra, không có các quy định nào khác về việc phải công chứng, chứng thực hay có
người làm chứng.
Ngoài ra, Điều 634 di chúc do người lập tự đánh máy hoặc nhờ người khác
viết/đánh máy thì cần có người làm chứng.





Xét trường hợp của ông Này, ông tự viết, tự ký vào di chúc với 3 người làm chứng
gồm cha, em gái, em trai nên có thể được xem là đã thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều
633 BLDS và việc có người làm chứng chỉ làm tăng tính xác thực cho bản di chúc này
chứ không phải điều kiện để bản di chúc này được xem là hợp pháp.

Câu 5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Di chúc của cụ Hựu được thành lập bằng cách:
Ngày 25/11/1998, cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ
Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng.
• Ngày 04/01/1999, bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là
trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.


Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định 874 cho thấy câu trả
lời?
Cụ Hựu không biết chữ.
Trong Quyết định số 874 có ghi nhận: “Ông Quang xác định cụ Hựu là người không
biết chữ”.

2


Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Điều kiện về hình thức đối với di chúc của người không biết chữ được quy định tại
khoản 3 Điều 630 BLDS 2015:
“3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”.
Ngoài ra, di chúc còn cần phải thỏa quy định tại Điều 634 BLDS do đây là dạng di
chúc bằng văn bản có người làm chứng.
Vậy, có 4 điều kiện cần được đáp ứng:






Di chúc phải được người làm chứng lập thành văn bản.
Phải có ít nhất 2 người làm chứng.
Di chúc phải có công chứng hoặc chứng thực.
Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người
làm chứng

Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Điều kiện thứ nhất: Do ông Hựu đã đọc cho ông Vũ viết di chúc, điều này cho thấy di
chúc của ông Hựu đã được người làm chứng lập thành văn bản.
Điều kiện thứ hai: Có hai người làm chứng là ông Vũ và bà Quý.
Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?
Điều kiện thứ ba: UBND Xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng (trưởng
thôn) mà không xác định nội dung của di chúc. Ngoài ra, việc chứng thực di chúc không
tuân theo trình tự thủ tục được nêu tại Điều 636 BLDS.
Điều kiện thứ tư: Không có căn cứ để cho rằng di chúc đã được người lập di chúc
điểm chỉ theo đúng quy định do dấu vân tay mờ, không thể hiện rõ các đặc điểm riêng
dẫn đến không đủ yếu tố giám định.
Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không?
Vì sao?
Di chúc trên không thỏa mãn điều kiện về hình thức do vi phạm điều kiện thứ ba và
thứ tư:

3


Thứ nhất, di chúc không được chứng thực theo đúng thủ tục quy định tại khoản 2
Điều 636. Mặc dù di chúc của ông Hựu đã được hai người làm chứng, và người làm
chứng cũng đã ký tên xác nhận về việc lập di chúc nhưng việc ký tên không được thưc

hiện trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Điều này được thể
hiện qua tình tiết: sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn một tháng thì ông Vũ và bà Quý mới
đem bản di chúc đó ra công chứng. Bên cạnh đó, người có thẩm quyền chứng thực của
Ủy ban nhân dân cấp xã cũng không thực hiện bước chứng nhận bản di chúc trước mặt
người lập di chúc là ông Hựu. Hơn nữa, UBND xã cũng đã xác nhận chỉ xác nhận chữ ký
của ông Thưởng chứ không xác nhận đến nội dung của bản di chúc.
Thứ hai, không có căn cứ để cho rằng ông Hựu đã điểm chỉ vào bản di chúc theo
Điều 634 BLDS. Cụ thể, Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát đã kết luận dấu vân
tay trên bản di chúc mờ, không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám
định.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức
di chúc của người không biết chữ.
Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 thì: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất
hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công
chứng hoặc chứng thực.”
Các quy định liên quan đến di chúc của người không biết chữ trong BLDS đi liền với
khá nhiều điều kiện vè hình thức so với di chúc thông thường. Vì chủ thể lập di chúc là
người không biết chữ nên việc phải thỏa mãn hết các điều kiện từ đọc cho người làm
chứng lập thành văn bản, đến việc công chứng hoặc chứng thực là nhằm đảm bảo quyền
lợi và độ xác thực của bản di chúc. Như vậy, chúng ta có thể hạn chế trường hợp lợi dụng
yếu điểm của người mù chữ có tài sản để lập nên một bản di chúc trái với nguyện vọng
và ý chí của họ.
Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát hơn, các điều luật quy định tuy chặt chẽ nhưng
vẫn không thể xóa bỏ trường hợp di chúc được lập ra không hoàn toàn truyền tải được ý
niệm của người chết. Việc phải thông qua nhiều chủ thể để cho ra đời bản di chúc cuối
cùng suy cho cùng là khá tốn thời gian, nhân lực. Hơn nữa, các chủ thể này chưa chắc đã
nắm được toàn bộ mong muốn của người lập di chúc nên có thể dẫn đến sơ suất. Các nhà
làm luật nên cân nhắc đến những hình thức mới cho di chúc của người không biết chữ
như dùng băng ghi hình. Việc lắng nghe trực tiếp tâm tư, nguyện vọng của chính người
lập di chúc sẽ đảm bảo tính xác thực cũng như tiết kiệm thời gian cho quá trình lập di

chúc.

4


Bài 2: Di chúc tài sản của người khác
Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả
lời?
Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất tại số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5,
quận Phú Nhuận.
Trích bản án: “Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc
nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường
5, quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho
cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà
đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn
Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí).”
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Trích bản án: “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất
trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý.”
Câu 3: Tòa án công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định cho câu
trả lời?
Tòa án công nhận phần di chúc định đoạt ½ nhà đất thuộc di sản của cụ Hương trong
khối tài sản chung của 2 vợ chồng cụ.
Trích bản án: “Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu
lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5
người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu,
Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3
suất thừa kế theo pháp luật; còn ½ diện tích đất còn lại được chia cho cụ Quý.”
Câu 4: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.

Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý vì:
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 612 BLDS thì di sản bao gồm phần tài sản của người chết
trong khối tài sản chung với người khác. Vợ chồng cụ Hương kết hôn vào năm 1962 và
cụ Hương được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1994. Căn cứ theo
khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Nói cách khác, cụ Hương sở hữu ½
5


nhà đất tại số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, Quận Phú Nhuận thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng.
Thứ hai, căn cứ theo Điều 609 BLDS 2015 thì cá nhân có quyền lập di chúc định
đoạt tài sản của mình chứ không có quyền định đoạt tài sản của người khác. Nói cách
khác, cụ Hương chỉ có quyền định đoạt ½ nhà đất nêu trên chứ không phải toàn bộ như
nội dung bản di chúc.
Thứ ba, theo khoản 4 điều 643 BLDS 2015, chỉ phần định đoạt tài sản của cụ Quý
trong di chúc của cụ Hương bị vô hiệu và di chúc được xem là có hiệu lực một phần. Bởi
lẽ, việc vô hiệu này không làm ảnh hưởng đến việc định đoạt ½ nhà đất còn lại thuộc sở
hữu của cụ Hương.
Câu 5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì di chúc của cụ Hương chỉ có giá trị pháp lý đối
với phần tài sản của cụ bao gồm ½ nhà đất cùng phần tài sản cụ được hưởng thừa kế từ
phần di sản của cụ Quý.
Trường hợp 1:
Trong trường hợp cụ Quý chết trước cụ Hương mà không để lại di chúc thì theo điểm
a Khoản 1 Điều 650 về Những trường hợp thừa kế theo pháp luật thì:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;”


Và điểm a Khoản 1 Điều 651 quy định về người thừa kế theo pháp luật:
“1. Những người theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con

đẻ, con nuôi của người chết;”
Vì vậy phần di sản của cụ Quý sẽ được chia đều cho cụ Hương và các người con. Do
đó, phần tài sản của cụ Hương sẽ gồm phần được hưởng thừa kế theo pháp luật từ cụ Quý
cộng với phần tài sản ban đầu là ½ nhà đất.
→ Khi đó, di chúc định đoạt toàn bộ nhà đất cho 5 người con vẫn chỉ có hiệu lực
pháp lý một phần ứng với tài sản nêu trên.
Trường hợp 2:

6


Trong trường hợp cụ Quý chết trước mà có để lại di chúc định đoạt một phần di sản
½ nhà đất cho cụ Hương thì:
Theo điểm a Khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung di chúc thì cụ Hương vẫn nhận được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật.
→ Khi đó, di chúc của cụ Hương cũng chỉ có hiệu lực pháp lý một phần ứng với
phần mà cụ Hương sở hữu trong khối tài sản chung của vợ chồng cụ cộng với phần cụ
được thừa kế từ cụ Quý.
Trường hợp 3:
Trong trường hợp cụ Quý chết trước mà để lại di chúc định đoạt toàn bộ phần tài sản
trong khối tài sản chung của 2 vợ chồng cho cụ Hương thì:
Nếu không có bất kỳ người nào thuộc những trường hợp quy định tại Điều 644
BLDS thì toàn bộ căn nhà sẽ thuộc quyền sở hữu của cụ Hương.
→ Khi đó, di chúc của cụ Hương sẽ có giá trị pháp lý toàn bộ căn cứ theo Điều 609
BLDS về cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình.

Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 609 BLDS thì cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt
tài sản của mình và căn cứ theo Điều 611, Điều 614 thì di chúc chỉ phát sinh hiệu lực từ
thời điểm mở thừa kế (thời điểm người có tài sản chết), tức tháng 4/2009. Nói cách khác,
cụ Hương có toàn quyền định đoạt nhà đất thuộc sở hữu của mình qua việc lập di chúc.
Tuy nhiên, tương tự với hướng xử lý của Tòa án, cụ Quý sẽ vẫn được hưởng 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật ứng với điểm a khoản 1 Điều 644 BLDS 2015. Khi đó, phần còn
lại mới chia cho 5 người con theo di chúc của cụ Hương.
Vì vậy, kể cả khi tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương vẫn chỉ có giá trị pháp lý một phần.

7


Bài 3: Di chúc chung của vợ chồng
Câu 1: Đoạn nào của bán án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của
vợ chồng?
Trích bản án: “Quan hệ pháp luật: Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ
chồng. Trong thời kỳ hôn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản
thẩm định ngày 21/8/2017. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc chung
của vợ chồng viết ngày 10/8/2015.”
Câu 2: Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015
tuy BLDS 2015 điều luật nào tương tự Điều 663 BLDS 2005. Thay vào đó, Tòa án xét
đến nội dung của bản di chúc và các điều kiện khác được quy định trong BLDS 2015.
Trích bản án: “Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 630 BLDS 2015.
Xử: Công nhận du chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày

10/8/2015 là hợp pháp”.
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Hướng giải quyết của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với
BLDS 2015 là hợp lý tuy BLDS này không có quy định cụ thể về trường hợp này như
BLDS 2005. So với các điều kiện để di chúc được xem là hợp pháp theo BLDS 2015 thì:
Thứ nhất, nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
Thứ hai, người lập di chúc, ông X và bà H hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt
tại thời điểm lập. Điều này được thể hiện rõ trong bản án qua sự thừa nhận của các bên
đương sự và phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
Thứ ba, hình thức di chúc phù hợp với quy định của pháp luật về di chúc bằng văn
bản không có người làm chứng tại Điều 633 BLDS 2015. Cụ thể, di chúc này là do ông X
tự viết và được vợ chồng ông cùng tự ký tên vào. Theo Kết luận giám định số
8


1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 thì đây chính xác là chữ viết tay của ông X. Việc không xác
nhận chữ ký của bà H là do bà còn sống tại thời điểm xảy ra tranh chấp.
Thứ tư, di chúc chung này nhằm định đoạt tài sản chung của vợ chồng ông X, bà H.
Điều này là phù hợp với quy định tại Điều 609 BLDS 2015 về việc cá nhân có quyền
định đoạt tài sản của mình.
Tuy nhiên, Tòa án chỉ công nhận di chúc trên là hợp pháp chứ không đề cập đến hiệu
lực của di chúc. Điều này là hợp lý do đây là di chúc chung của vợ chồng ông X, bà H
nhưng chỉ có ông X qua đời trước nên chưa đến thời điểm mở thừa kế theo Điều 611
BLDS 2015.
Vậy, tuy BLDS 2015 không đề cập đến quy định về di chúc chung của vợ chồng
nhưng do thỏa các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể được quy định nên việc Tòa
án công nhận di chúc chung của ông X, bà H là hợp lý.


9


Bài 4: Di sản dùng vào việc thờ cúng
Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nếu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Điều 645 BLDS 2016 quy định:
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần
di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di
chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng
di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có
quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những
người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để
thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc
diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản
của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
Vậy, di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý khi:
1)
2)

Người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng (khoản 1 Điều 645
BLDS 2015).
Di sản của người chết đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản và còn thừa lại (khoản 2 Điều
645 BLDS 2015).
Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc vào việc
thờ cúng?
Trích bản án: “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho

7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di
sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở
hữu di sản là có cơ sở chấp nhận.”
Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thoả mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?

10


Thứ nhất, bản án chỉ ghi nhận di sản của bà Lùng gồm nhà đất mà bà định đoạt trong
di chúc. Có thể thấy, không thể có trường hợp người chết chỉ để lại di sản gồm quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà (nhà đất) mà còn có những vật dụng, khoản tiền,... khác
nên không thể xem phần di sản trong di chúc là toàn bộ di sản mà bà Lùng để lại trên
thực tế. Nói cách khác, bà Lùng đã để lại một phần di sản của mình (nhà đất) và theo ý
chí của bà thì phần di sản này được sử dụng vào việc thờ cúng. Điều này đã thỏa mãn
điều kiện điều kiện thứ nhất nêu trên (khoản 1 Điều 645).
Thứ hai, trong vụ việc trên, do không nhắc đến nghĩa vụ tài sản của bà Lùng nên ta
có thể hiểu là nghĩa vụ đó không tồn tại hoặc đã được thực hiện xong. Điều này thỏa mãn
điều kiện tại khoản thứ hai như trên (khoản 2 Điều 645).
Vì vậy, điều kiện mà di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp đã được thỏa
mãn đối với vụ việc đang nghiên cứu.
Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ
tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Anh Được, anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa là những người đồng ý chia di
sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ này. Còn 2 người không đồng ý chia di sản là anh
Tân và chị Hương.
Đoạn trích cho thấy câu trả lời (ở phần Xét thấy): “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7
năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ,
anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý
chia di sản và giao cho anh Được sở hữu du sản là có cơ sở chấp nhận.”.

Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Tòa án đã chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng.
Đoạn trích ở bản án cho thấy câu trả lời (ở phần Quyết định): “Anh Thảo, anh Tân,
anh Xuân, chị Nhành, chị Hoa, anh Được và chị Hương đều là hàng thừa kế thứ nhất của
bà Lùng, anh chị dược hưởng di sản bằng nhau, mỗi người được hưởng giá trị bằng tiền
là 37.423.857đ (261.967.000đ : 7 người) giao cho anh Được sở hữu di sản nhà đất, anh
Được có trách nhiệm thanh toán bằng tiền cho anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa và chị
Hương mỗi người 37.423.857đ...”.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
11


Suy nghĩ về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
Đầu tiên, Điều 645 BLDS chỉ đề cập đến việc người lập di chúc để lại một phần di
sản dùng vào việc thờ cúng, còn trường hợp người lập di chúc dùng toàn bộ di sản cho
việc thờ cúng không được nhắc đến.
Thứ hai, Điều 645 BLDS quy định về di sản thờ cúng chỉ mang tính định lượng mà
chưa xác định được tính chất tài sản dùng vào việc thờ cúng. Do vậy có những tài sản do
đặc thù về kích cỡ, khối lượng có thể dễ dàng tham gia vào các giao dịch dân sự nên rất
khó kiểm soát. Điều này dẫn đến việc giả sử di sản được dùng cho việc thờ cúng bị một
người khác định đoạt hoặc bị đem ra chia thừa kế trái với ý muốn ban đầu của người lập
di chúc thì luật chưa quy định hướng giải quyết.
Suy nghĩ về giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
Căn cứ Điều 645 BLDS 2015 thì di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa
kế và phải được giao cho một người để quản lý di sản. Tuy nhiên, trên thực tế Tòa án lại
đồng ý yêu cầu khởi kiện của anh Được và tiến hành chia thừa kế là chưa thỏa đáng.
Đầu tiên, cách xét xử của Tòa án là chưa phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 645
BLDS 2015. Điều này được thể hiện ở việc Tòa án tiến hành chia di sản dùng vào việc

thờ cúng. Theo đó thì nhà đất mà bà Lùng để lại đáng ra phải đồng sỡ hữu bởi 7 người
con để cùng thực hiện việc thờ cúng cha mẹ. Ngoài ra, 7 người con có thể cử anh Được
làm người quản lý di sản.
Thứ hai, Tòa án cho rằng anh Được được 5/7 anh chị em đồng ý chia di sản và giao
cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên, cơ sở đó lại không được
nêu rõ và trong BLDS cũng không quy định trường hợp ngoại lệ này. Việc phần đông
người con đồng ý chia di sản là trái với ý chí của người lập di chúc nên không thể căn cứ
vào đây để tiến hành chia di sản dùng để thờ cúng.

12



×