BÀI THẢO LUẬN SỐ 6: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC
Bài 1: Hình thức của di chúc.
Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trả lời: Căn cứ vào Điều 655 BLDS 2005 thì di chúc tự viết tay là di chúc bằng văn bản
do chính người lập di chúc tự viết bằng chữ viết tay nên di chúc này còn gọi là chúc thư
thủ tự - di chúc bằng chữ viết tay. Điều kiện để lập di chúc theo thể thức này là:
Người lập di chúc phải có năng lực lập di chúc và phải minh mẫn sáng suốt vào thời điểm
lập di chúc. Người lập di chúc phải là người bình thường không bị khiếm khuyết thể chất
liên quan đến các chức năng đọc, viết, nghe, nói, ký tên, điểm chỉ (như câm, điếc, mù, cụt
tay, mù chữ ).
Di chúc phải do chính người để lại di sản tự mình viết bằng chữ viết tay và tự mình ký
tên, điểm chỉ vào tờ di chúc. Một di chúc bằng chữ viết tay mà không phải do người lập di
chúc trực tiếp viết ra thì không được coi là di chúc hợp pháp, trừ trường hợp nhờ người
khác viết hộ thì phải tuân theo quy định tại Điều 656 BLDS 2005.
Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc của ông Này không phải là người làm chứng hợp pháp. Căn cứ vào
Điều 654 BLDS 2005, người làm chứng cho việc lập di chúc. Mọi người đều có thể làm
chứng cho việc lập di chúc, trừ những trường hợp sau đây:
- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
- Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Và Điều 676, người thừa kế theo pháp luật.
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc
từ chối nhận di sản.
Mà theo Bản án số 83/2009/DSPT, những người đã làm chứng di chúc cho ông Này là
cha, em gái và em trai ông Này. Và ba người này rơi vào trường hợp không được làm
chứng di chúc theo Khoản 1 Điều 654 BLDS 2005, họ là những người thừa kế theo pháp
luật của ông Này. Cha ông Này thuộc hàng thừa kế thứ nhất, em trai và em gái thuộc hàng
thừa
kế
thứ
hai,
căn
cứ
theo
Điều
676
BLDS
2005.
Câu 3: Di chúc của ông này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ông này không là di chúc do ông Này tự viết tay. Vì mặc dù ông Này tự
dùng tay của mình để viết di chúc, khi ông hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa
dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Nhưng Bản án không nói rõ là ông này có ký tên, điểm chỉ
vào tờ di chúc hay không.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Trả lời: Khi di chúc đó là di chúc do ông Này tự viết tay thì hướng giải quyết trên của Tòa
là chưa thỏa đáng. Vì di chúc tự viết tay không cần phải có người làm chứng mà chỉ cần
căn cứ vào hình thức của di chúc và nội dung của di chúc là có thể xác định di chúc hợp
pháp hay không. Do đó mặc dù kết quả của Tòa án là công nhận di chúc đó hợp pháp
nhưng trong quá trình xử lý còn có một vài sai sót như người làm chứng, cần phải có công
chứng, chứng thực.
Câu 5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Trả lời: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như sau: Ngày 25/11/1998, di chúc là do cụ Hựu
đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quy (là mẹ của ông Vũ) ký
tên, làm chứng, sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn
Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã ai Lâm xác nhận.
Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định 874 cho câu trả lời?
Trả lời: Cụ Hựu không biết chữ. Trong phần Xét thấy của Quyết định số 874 có câu: “Ông
Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.
Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Trả lời:
Đối với người để lại di sản không thể tự mình viết di chúc do bị mù chữ thì pháp luật quy
định người này phải lập di chúc bằng văn bản, theo thủ tục công chứng, chứng thực. Đồng
thời phải lập, công chứng, chứng thực di chúc phải có người làm chứng thì di chúc mới có
hiệu lực. Theo Khoản 3 Điều 652: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của
người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng
hoặc chứng thực”
Và Điều 658 BLDS 2005: Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn.
Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải
tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã
tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di
chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di
chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di
chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này
phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực
của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di
chúc và người làm chứng.
Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
Các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: di chúc đã được lập thành
văn bản và có người làm chứng.
Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ
Hựu?
Các điều kiện không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: công chứng chứng
thực. Công chứng chứng thực ở đây là theo thủ tục công chứng chứng thực quy định tại
Điều 658 BLDS 2005
Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không?
Vì sao?
Trả lời: Theo nhóm, di chúc trên không thỏa mãn điều kiện về hình thức. Mặc dù di chúc
đã được lập thành văn bản và có người làm chứng nhưng về yêu cầu có công chứng,
chứng thực do cụ Hựu là người không biết chữ thì chưa thỏa mãn yêu cầu của Luật. Vì
theo quy định tại Điều 658 BLDS 2005 “Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc
trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép
lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào
bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý
chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc”; Nhưng ở đây cụ Hựu chỉ đọc cho ông Vũ
viết và bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban
nhân dân xã mai Lâm xác nhận. Điều đó không phù hợp với luật. Mặt khác theo Quyết
định thì cụ Hựu không rơi vào Khoản 2 Điều 658 BLDS 2005. Ta cũng cần phân biệt
trường hợp di chúc viết hộ với di chúc được lập bởi người không thể tự lập di chúc do
khiếm khuyết hoặc mù chữ. “Trường hợp này cần đặc biệt lưu ý, vì sẽ có người nhầm
tưởng quy định này cũng áp dụng đối với mọi cá nhân không thể tự mình viết di chúc…
Khi người để lại di sản không thể tự mình viết di chúc (do bị khiếm khuyết thể chất hoặc
người mù chữ) thì pháp luật quy định người này phải lập di chúc bằng văn bản theo thủ
tục công chứng, chứng thực, đồng thời việc lập, công chứng, chứng thực di chúc phải có
người làm chứng thig di chúc mới có hiệu lực”1
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức
di chúc của người không biết chữ.
Trong BLDS 2005 có những quy định liên quan đến hình thức di chúc của người không
biết chữ như Khoản 3 Điều 652: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của
người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng
hoặc chứng thực”
Và Điều 658 BLDS 2005:
Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải
tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã
tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di
chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di
chúc;
1 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, Nxb
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, Tr. 241-242.
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di
chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này
phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực
của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di
chúc và người làm chứng.
Những quy định nghiêm ngặt về hình thức như thế này xuất phát từ cơ sở pháp lý và cơ
sở kỹ thuật của nó. Nhằm bảo vệ tối đa ý chí đích thực của người đẻ lại di sản và cũng đề
phòng việc người khác lợi dụng những khiếm khuyết của người để lại di sản để giả mạo
di chúc, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, ….
Bài 2: Di chúc tài sản của người khác
Câu 1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định này cho câu
trả lời?
Trả lời: cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay
là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, Phú Nhuận) cho các con là Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (Vợ ông
Nguyễn Hữu Trí).
Được quy định trong đoạn “Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất…Quảng
Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu Trí).”
Câu 2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Trả lời: Đoạn cho thấy tài sản của cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung của
vợ chồng cụ Hương là “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà
đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quy.”
Câu 3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định cho
câu trả lời?
Trả lời: Tòa án đã công nhận hiệu lực đối với một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà
đất) cho 5 người con, sau khi đã chia cho cụ Quy 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
Đoạn cho thấy câu trả lời: “Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn
Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được
chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn
Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều ( vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã
chia cho cụ Quy 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.”
Câu 4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm?
Trả lời: Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý.
Vì di chúc của cụ Hương được lập hợp pháp về hình thức nhưng về nội dung thì di sản
được định đoạt là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quy, nên Tòa án quyết định chỉ công
nhận một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất), phần di sản của cụ được chia cho 5
người con theo di chúc sau khi đã chia cho cụ Quy 2/3 suất thừa kế theo pháp luật là hoàn
toàn hợp lý. Và cụ Quy được hưởng 1/2 tài sản nhà đất trong phần tài sản chung của hai
cụ là hoàn toàn đúng pháp luật.
Câu 5. Nếu cụ Quy chết trước, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?
Trả lời: Nếu cụ Quy chết trước thì phần di chúc có giá trị pháp lý là một phần tài sản của
cụ Hương trong phần tài sản chung của cụ Quy và cụ Hương (1/2).
Trong trường hợp cụ Quy để lại di chúc nhưng không chia di sản cho cụ Hương thì phần
di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý cộng thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật mà cụ
Hương được nhận từ cụ Quy do cụ Hương là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di
chúc. Căn cứ vào Điều 669 BLDS 2005.
Còn nếu cụ Quy để lại di chúc có chia di sản cho cụ Hương thì phần di chúc có giá trị
pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm phần di sản cụ Hương được nhận. Căn cứ vào Điều
631 BLDS 2005.
Trường hợp cụ Quy không để lại di chúc thì phần di sản của cụ Quy sẽ được chia theo
pháp luật (cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm 12 người con và cụ Hương)
thì phần di chúc có giá trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm 1/13 di sản cụ Quy để lại.
Căn cứ vào Điều 675, 676 BLDS 2005.
Câu 6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
Trả lời: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc có giá trị pháp lý hay không bộ luật không có quy định. Còn
trong thực tiễn xét xử Tòa án giải quyết theo hướng di sản được xác định từ thời điểm lập
di chúc. Như vậy trong trường hợp này di chúc của cụ Hương được công chứng ngày
16/01/2009 mà đến đầu tháng 4/2009 tài sản mới thuộc sở hữu của cụ Hương thì di chúc
của cụ Hương không có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên theo ý kiến của nhóm thì nên công nhận di chúc của cụ Hương. Vì tuy lúc cụ
Hương lập di chúc thì tài sản chưa thuộc quyền sở hữu của cụ nhưng trước khi mở di chúc
thì tài sản đó đã thuộc sở hữu của cụ và cho đến khi chết cụ không thay đổi ý chí thể hiện
trong di chúc.
Bài 3 Di chúc chung của vợ chồng
Câu 1. Đoạn nào của Bản án số 11 và Quyết định số 18 cho thấy di chúc là di chúc
chung của vợ chồng?
Trả lời: trong Bản án số 11 có đoạn: “Xét bản di chúc ngày 10/12/1998 của vợ chồng ông
Nguyễn Bá Rong tuy chưa qua chứng thực của UBND chính quyền sở tại nhưng có hai
người làm chứng xác nhận trong bản di chúc đó là bà Nguyễn Thị Thu Nguyệt và bà
Nguyễn Thị Dung đều ở gần nhà ông Rong, bà Sỏi. Khi lập di chúc, vợ chồng ông Rong,
bà Sỏi đều minh mẫn, sáng suốt, tự nguyện thể hiện ý chí của mình không bị ai lừa dối,
cưỡng ép. Hình thức và nội dung của bản di chúc không trái với quy định của pháp luật và
đạo đức và xã hội, nên bản di chúc của vợ chồng ông Rong là hợp pháp, các bên đương sự
phải tôn trọng.”
Trong Quyết định số 18 có đoạn: “Tài sản của cợ chồng cụ Quy, cụ Thế có căn nhà cấp 4
trên diện tích 35m2 đất tại số 146 Trần Đăng Ninh, thành phố Nam Định. Ngày 21-8-1995
cụ Quy, cụ Thế đã lập di chúc phân chia nhà đất nêu trên. Di chúc của cụ Quy, cụ Thế là
hợp pháp.”
Hai đoạn trích trên đều thể hiện quan điểm của Tòa án công nhận di chúc trong vụ việc là
di chúc chung của vợ chồng.
Câu 2. Các điều kiện để di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trả lời: Căn cứ vào Điều 663, Điều 664, Điều 668 BLDS 2005 quy định về di chúc chung
của vợ chồng thì vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Di chúc
này có thể được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ theo quy định của Điều 664. BLDS
không nêu rõ điều kiện về hình thức đối với di chúc chung nên di chúc chung phải tuân
theo các quy định về hình thức như với di chúc bình thường; đồng thời “Để được coi là di
chúc chung của vợ chồng phải có sự thống nhất ý chí của cả vợ, chồng. Do đó, nếu vợ và
chồng lập di chúc trong hai văn bản khác nhau thì sẽ không có di chúc chung của vợ
chồng cho dù hai bản di chúc này có nội dung như nhau…Tương tự, khi vợ và chồng
cùng lập di chúc trên một văn bản nhưng chỉ có chữ ký hay điểm chỉ của một người thì
chưa thể khẳng định có ý chí chung nên chưa thể xác định có di chúc chung.”2
Câu 3. Di chúc trong hai vụ việc trên có thỏa mãn các điều kiện để di chúc chung của
vợ chồng có giá trị pháp lý không? Đánh giá từng điều kiện của di chúc chung của
vợ chồng với hoàn cảnh có trong Bản án và Quyết định.
Trả lời:
Đối với Bản án số 11 căn cứ vào Điều 655 BLDS 1995 thì di chúc của vợ chồng ông
Rong, bà Sỏi lập ngày 10/12/1998 là hợp pháp. Ta thấy, “Khi lập di chúc, vợ chồng ông
Rong, bà Sỏi đều minh mẫn, sáng suốt, tự nguyện thể hiện ý chí của mình không bị ai lừa
dối, cưỡng ép. Hình thức và nội dung của bản di chúc không trái với quy định của pháp
luật và đạo đức và xã hội…”. Tuy nhiên trong Bản án không đề cập chi tiết về vấn đề di
2 Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb CTQG 2013, Tr.95
chúc được lập trên mấy văn bản, có thiếu chữ ký của ai không. Dựa vào phân tích của Tòa
án về di chúc, có thể không có điều kiện nào bị vi phạm ở đây.
Đối với Quyết định số 18, xét bản di chúc lập ngày 21/8/1995, Pháp lệnh thừa kế 1990 có
quy định “Trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung, mà có người chết trước,
thì chỉ phần di chúc có liên quan đến tài sản của người chết trước có hiệu lực.” tuy đây là
quy định về hiệu lực của di chúc nhưng cũng đã thể hiện ý chí của các nhà làm luật lúc
đó, không cấm lập di chúc chung. Tuy nhiên ta có thể thấy trong Quyết định không nêu rõ
hoàn cảnh và các điều kiện lập di chúc.
Câu 4. Ở thời điểm nào di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Căn cứ vào Điều 671 BLDS 1995 thì trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có
một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong
tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời
điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng
theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó.
Căn cứ vào Điều 668 BLDS 2005 thì di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời
điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
Như vậy đã có sự thay đổi giữa BLDS 1995 và BLDS 2005, điều này ảnh hưởng đến việc
yêu cầu chia thừa kế của những người thừa kế.
Câu 5. Trong hai vụ việc trên, di chúc của vợ chồng đã có hiệu lực pháp luật chưa?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (đối chiếu với các quy định của BLDS 1995 và cả BLDS
2005).
Trả lời:
Đối với Bản án số 11, căn cứ vào Điều 671, BLDS thì di chúc đã có hiệu lực, vì ông Rong
chết năm 2004, bà Sỏi chết năm 2005. Như vậy đối với di chúc chung của vợ chồng đã có
hiệu lực đối với phần tài sản của ông Rong từ năm 2004, còn đối với tài sản của bà Sỏi có
hiệu lực từ năm 2005. Vì trong Bản án không nêu trong di chúc có ý chí khác. Điều này
khác với quy định trong Điều 668 BLDS 2005. Nếu áp dụng BLDS 2005 thì di chúc này
chỉ có hiệu lực từ thời điểm bà Sỏi chết năm 2005.
Đối với Quyết định số 18, cụ Quy chết vào tháng 11/1995 nên di chúc chung của vợ
chồng cụ Quy, cụ Thế chỉ có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Quy, căn cứ
vào khoản 1 Điều 23, Pháp lệnh thừa kế 1990. Điều này tương tự như khi ta áp dụng Điều
671 BLDS 1995. Còn nếu căn cứ vào Điều 668 BLDS 2005 thì di chúc chung này chỉ có
hiệu lực vào thời điểm cụ Thế chết. Tuy nhiên cụ Thế còn sống đã thay đổi ý chí nên di
chúc trên chỉ có hiệu lực với di sản của cụ Quy.
Câu 6. Đoạn nào của Quyết định số 18 cho thấy cụ Thế đã thay đổi ý chí đối với di
chúc chung của vợ chồng cụ Thế? Cho biết cụ Thế đã thay đổi như thế nào?
Trả lời: cụ Thế đã thay đổi ý chí đối với di chúc chung của vợ chồng cụ Thế, tức là thay vì
phân chia nhà đất theo di chúc, cụ và các con đã đồng ý chuyển toàn quyền sở hữu cho bà
Phượng. Điều đó được thể hiện ở đoạn: “Ngày 03-11-2000, cụ Thế và các con gồm ông
Dương, ông Phú, bà Thịnh, bà Loan, bà Phượng, bà Hồng và bà Hoàng lập biên bản họp
hội đồng gia tộc thống nhất để lại toàn bộ căn nhà 2 tầng trên diện tích đất 42m 2 đất cho
bà Phượng toàn quyền sở hữu và được làm thủ tục sang tên bà Phượng”.
Câu 7. Sự thay đổi trên của cụ Thế có được pháp luật cho phép không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời (đối chiếu với các quy định của BLDS 1995 và cả BLDS 2005).
Trả lời: căn cứ vào khoản 2 Điều 667 BLDS 1995 “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ
sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một
người đã chết, thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài
sản của mình.” ta thấy cụ Thế thay đổi ý chí áp đặp lên toàn bộ tài sản, vì vậy sự thay đổi
của cụ Thế không được pháp luật cho phép. Điều này không thay đổi nếu áp dụng khoản
2 Điều 664 BLDS 2005 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của
vợ chồng.
Câu 8. Đoạn nào của Quyết định số 18 cho thấy Tòa án đã chia thừa kế theo di chúc
đối với di sản của cụ Quy?
Trả lời: đoạn cho thấy Tòa án đã chia thừa kế theo di chúc đối với di sản của cụ Quy là:
“Bà Nguyễn Thanh Hoàng yêu cầu phản tố là yêu cầu chia di sản thừa kế theo bản di chúc
lập ngày 21-8-1995. Do đó, trong trường hợp thỏa thuận ngày 03-11-2000 là vô hiệu thi
bản di chúc lập ngày 21-8-1995 có hiệu lực: nhưng do cụ Thế còn sống đã thay đổi ý chí,
nên di chúc ngày 21-8-1995 chỉ có hiệu lực đối với phần dii sản của cụ Quy”
Câu 9. Việc Tòa án quyết định chia di sản của cụ Quy trên có phù hợp với quy định
của pháp luật không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (đối chiếu với các quy định của
BLDS 1995 và cả BLDS 2005).
Trả lời:Việc Tòa án quyết định chia di sản của cu Quy là phù hợp với quy định của pháp
luật. Xét bản di chúc lập ngày 21-8-1995, căn cứ vào Điều 671 BLDS 1995, từ tháng
11/1995 bản di chúc này đã có hiệu lực với phần di sản của cụ Quy. Tuy nhiên việc thay
đổi ý chí của cụ Thế lại không được pháp luật cho phép vì cụ Thế đã định đoạt cả phần di
sản của cụ Quy. Vì vậy xét từ đầu đến cuối, bản di chúc chỉ có hiệu lực với phần di sản
của cụ Quy, nên Tòa án quyết định chia là hợp lý.
Nếu áp dụng BLDS 2005 cho vụ việc này, ta thấy di chúc chung chỉ có hiệu lực khi người
sau cùng chết căn cứ vào Điều 668, như vậy rất khó khăn cho việc xử lý vụ việc này. Căn
cứ vào Điều 664 BLDS 2005 thì nếu cụ Thế thay đổi ý chí chỉ được thay đổi đối với phần
tài sản của mình, vì vậy việc cụ định đoạt luôn phần di sản của cụ Quy là sai. Tuy nhiên vì
cụ Thế còn sống bản di chúc này không thể có hiệu lực vậy nên nếu Tóa án quyết định
chia di sản của cụ Quy thì điều này không hợp lý.
Câu 10. Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung sau ngày
1/1/2017 không? Vì sao?
Trả lời: 1/1/2007 là thời điểm BLDS 2015 có hiệu lực. Tuy nhiên BLDS 2015 không có
quy định về lập di chúc chung của vợ chồng, cũng không có quy định cấm lập di chúc
chung. Vì vậy đây là điều còn bỏ ngỏ trong luật.
Bài tập 4. Di sản dùng vào việc thờ cúng
Câu 1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời: Căn cứ vào Điều 670 BLDS 2005:" 1. Trong trường hợp người lập di chúc có để
lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và
được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ
cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận
của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào
việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài
sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng."
Ta thấy, để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý thì di sản đó cần thỏa mãn
những điều kiện sau:
Thứ nhất, di sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và còn
thừa lại.
Thứ hai, người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Thứ ba, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ giao cho người đã được chỉ định trong di chúc
quản lý để thực hiện việc thờ cúng, nếu người để lại di sản không chỉ định người quản lý
di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản.
Tóm lại, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ có giá trị pháp lí khi thỏa mãn các điều kiện
nêu trên.
Câu 2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng?
Trả lời: Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ
cúng là: "Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người
con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại
5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có
cơ sở chấp nhận."
Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Trả lời: Căn cứ vào Điều 670 BLDS 2005 thì điều kiện để di sản được dùng vào việc thừa
kế là:
Tài sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và còn thừa lại. Di
chúc không định đoạt toàn bộ di sản chỉ dùng vào việc thờ cúng.
Trong vụ việc đang nghiên cứu, hai điều kiện trên được thỏa mãn.
Cụ thể: Trong vụ việc không nói đến vấn đề thanh toán nghĩa vụ tài sản của bà Lùng nên
có thể xem như nghĩa vụ đó không có hoặc đã được thực hiện xong.
Phần tài sản bà Lùng để lại dùng vào việc thờ cúng là nhà đất, đây không phải là toàn bộ
di sản của bà.
Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ
tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời: Trong vụ tranh chấp này, có 5/7 người con(tức người thừa kế theo di chúc của bà
Lùng để lại) đồng ý chia di sản.Cụ thể là: anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh
Được. Còn 2 người không đồng ý chia di sản là anh Tân và chị Hương.
Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để
lại cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị em hợp lại chia
di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý.”
Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng.
Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “ Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh
Phan Văn Được đối với anh Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn Thảo, anh Phan Văn Xuân, anhh Phan Văn Nhành, chị
Phan Thị Hoa về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”.
……
Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương
mỗi người số tiền là 37.424.000đ (bằng chữ: ba mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi bốn
ngàn đồng).
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
Trả lời: Theo BLDS 2005, căn cứ vào Điều 670 thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng
không được chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý để thực hiện việc thờ cúng.
Trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tòa án lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được,
giao cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và anh phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản
thừa kế cho anh Tân và chị Hương.
Như vậy, xét về lý thì cách xử của Tòa có phần không đúng với quy định của BLDS.
Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì cách xử của Tòa
vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất được
chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa không nhận di
sản mà cho lại anh Được; căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh Được là người quản lý căn
nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp lý ở đây đó là, di sản để thờ cúng
nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung của những người thừa kế, vậy thì không
được định đoạt, chia lẻ chỉ được quản lý. Tuy nhiên Tòa án lại xử chia di sản và anh Được
phải thanh toán giá trị di sản phần thừa kế cho hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản ra,
đánh mất bản chất chỉ quản lý để thờ cúng mà không định đoạt.