Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

skkn Phương pháp tổ chức trò chơi nhằm nâng cao chất lượng tiết dạy thể dục THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.5 KB, 13 trang )

1.Mở đầu:
1.1.Lý do chọn đề tài:
Trong xã hội hiện đại, tình trạng học sinh thiếu vận động và thừa chất dinh
dưỡng ngày càng nhiều, hiện tượng học sinh có trọng lượng cơ thể vượt quá
mức bình thường hoặc mắc bệnh béo phì cũng ngày càng phổ biến. Việc tập
luyện thường xuyên liên tục đặc biệt là trò chơi sẽ giúp các em thoát khỏi tình
trạng nêu trên, tiêu hao năng lượng thừa, không thể tích thành mỡ. Trò chơi vừa
có lợi cho sức khoẻ vừa chống lại được căn bệnh béo phì và làm hứng thú cho
tiết học.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, để giảng dạy và huấn luyện phát triển trò chơi
cho học sinh THPT, vừa có thể lực tốt vừa có hứng thú cho tiết dạy. Tôi mạnh
dạn viết sáng kiến: “Phương pháp tổ chức trò chơi nhằm nâng cao chất lượng
dạy học môn Giáo dục thể chất THPT”
Trong quá trình viết có thể còn do hạn chế về kinh nghiệm, do đó không thể
tránh khỏi thiếu sót nhất định. Vì vậy mong được sự đóng góp ý kiến của các
đồng nghiệp để bản sáng kiến mang lại hiệu quả nhiều hơn. Trò chơi không chỉ
là một phương tiện giáo dục mà còn được nâng lên vị trí của mỗi phương pháp
giáo dục đó là: “Phương pháp vui mà học, học mà vui”. “Trong lúc học, cũng
cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng làm cho chúng học” vì vậy trò chơi đã
cuốn hút tất cả các em từ bậc tiểu học đến THPT kể cả một số thanh niên tuổi
đời còn trẻ cũng rất thích vui chơi, đòi hỏi được vui chơi, giải trí mà đã chơi thì
rất đam mê.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trong thời kỳ mới của đất nước chúng ta hiện nay, thì mục điêu của ngành Giáo
dục - Đào tạo là tạo ra những con người mới để thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn thực hiện được điều đó thì mỗi con
người phải có đủ đức, đủ tri thức và đủ sức khỏe. Như Bác Hồ đã từng nói: “Có
đức, có tài nhưng không đủ sức khỏe thì con người không thể làm được việc gì”.
Vì thế trong chương trình đào tạo ở bậc THPT, thể dục chiếm một vai trò và vị
trí hết sức quan trọng, nhưng do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này: là lứa
tuổi dậy thì, có sự biến đổi nhiều, đôi lúc đột ngột về tâm sinh lý của các em nên


đã hỏi giáo viên giảng dạy bộ môn này phải hiểu và chọn phương pháp giảng
dạy sao cho phù hợp, giúp các em vừa ổn định được tâm lý vừa phát triển được
thể lực một cách toàn diện, để các em có đủ sức khỏe học tập lĩnh hội các kiến
thức một cách tốt nhất.
Nếu việc dạy và luyện tập các kiến thức TDTT theo yêu cầu của chương trình
mà khô khan, cứng nhắc sẽ làm ức chế tâm lý nhận thức của học sinh từ đó sẽ
hình thành trong các em những thói quen luyện tập gượng ép, bắt buộc, sẽ làm
hạn chế kết quả và có thể có hại cho sức khỏe. Ở trong phân phối chương trình
của bộ môn thì trò chơi có thể đưa vào đa số các tiết học, thế nhưng phần lớn
các trò chơi ở đây là do giáo viên tự chọn. Như vậy nếu giáo viên nào chọn và tổ
chức các trò chơi hợp lý với tiết học thì sẽ giúp học sinh có tinh thần nhận thức

Trang-1-


thoải mái, luyện tập các kiến thức một cách tự giác như vậy hiệu quả tiết dạy sẽ
đạt hiệu quả cao. Nếu giáo viên chọn trò chơi khơng phù hợp thì mất thời gian
của tiết học hay luyện tập mà khơng có hiệu quả.
Qua thời gian cơng tác giảng dạy bộ mơn này, bản thân tơi thấy rất rõ tầm quan
trọng của việc chọn và tổ chức các trò chơi trong các tiết học nên tơi đã chú ý
tìm tòi chọn lọc và tổ chức các trò chơi trong các tiết dạy của mình. Trong mấy
năm gần đây tơi nhận thấy các tiết dạy có hiệu quả hơn.
Biện pháp này thật sự khơng khó, khơng mất nhiều thời gian. Song vì nhiều giáo
viên chưa chú trọng đến nó nên chưa thực hiện được tốt. Tơi mạn phép đưa ra
những biện pháp mà tơi đã thực hiện đối với vấn đề nêu trên để các đồng nghiệp
cùng tham khảo, góp ý xây dựng, để chúng ta cùng nhau đưa chất lượng giảng
dạy mơn thể dục càng ngày càng đi lên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh THPT Trần Ân Chiêm. n Định. Thanh Hóa
Đối tượng tơi chọn có 4 lớp 10, năm học 2017-2018, với 162 em/1 năm tỷ lệ

nam nữ giữa các lớp tương đương với nhau. Thể lực giữa các lớp lúc chọn vào là
ngẫu nhiên gần như bằng nhau. Được chia làm 2 nhóm; 1 nhóm làm thực
nghiệm (2 lớp) nhóm còn lại để đối chứng ( 2 lớp )
Nhóm thứ nhất: Học tập bình thường theo các phương pháp sư phạm phù hợp
( khơng lồng ghép trò chơi trong tiết học) bao gồm các lớp:
10B4 có 40 học sinh
10B5 có 42 học sinh.
Tổng số học sinh của nhóm thứ nhất là 82 học sinh.
Nhóm thứ hai: Giảng dạy theo các phương pháp phù hợp và Phương pháp tổ
chức trò chơi
10B6 có 40 học sinh
10B7 có 40 học sinh
Tổng số học sinh nhóm thứ hai là: 80 em.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu trong Sáng kiến
kinh nghiệm, chúng tôi áp dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:

Trang-2-


1.4.1. Phng phỏp phõn tớch v tng hp ti liu
p dng phng phỏp ny nhm mc ớch xõy dng c s lý lun ca ti.
Chn phng phỏp nghiờn cu, la chn cỏc ch tiờu ỏnh giỏ v trong thc tin
ging dy
1.4.2. Phng phỏp phng vn
Nhm thu thp cỏc test kin thc c s dng nhiu trong thc tin ging dy
1.4.3.Phng phỏp kim tra s phm
1.4.4. Phng phỏp thc nghim s phmự
Tieỏn haứnh thửùc nghieọm sử phaùm song song 2 nhúm hc sinh

1.5. Nhng im mi ca Sỏng kin kinh nghim:
* Tỡm hiu s ham thớch hc, luyn tp th dc qua cỏc trũ chi:
Thụng qua cỏc trũ chi cỏc em c gỡ? trong mc tiờu ca tit dy.
a)Khi ng th gión.
`b) Luyn tp cỏc ng tỏc ó hc.
c) Th gión cui gi
d) Rốn k nng, k xo, giỏo dc truyn thng.
* Tỡm trũ chi, nht l nhng trũ chi dõn gian do ụng cha ta li, t sỏng to
cỏc trũ chi mi, hoc ci bin nhng trũ chi tng t khi nhng trũ chi ó
bit khụng phự hp tit dy. T u nm hc cho n nay bn thõn tụi ó ỏp
dng vo tit dy thy kt qu rt kh quan.
2. NI DUNG SNG KIN KINH NGHIM:
2.1. C s lý lun:
Phng phỏp t chc trũ chi l giỳp cho hc sinh chng li mt mi trong hot
ng TDTT . Trũ chi cú nh hng c bit i vi thnh tớch thi u ca
nhiu mụn th thao v l yu t quyt nh i vi kh nng chu ng LV i
vi hc sinh.
Phng phỏp t chc trũ chi l tin cn thit cho kh nng phc hi
nhanh chúng sau cỏc lng vn ng ln.
2.2. Thc trng ca vn trc khi ỏp dng Sỏng kin kinh nghim:
Trong tỡnh hỡnh chung hin nay, a s giỏo viờn v hc sinh cha coi trng cht
lng ca tit hc th dc:

Trang-3-


-Tất cả đều cho rằng đó là môn phụ, chỉ cần hàng năm huấn luyện đội tuyển
(một số em) để tham dự Đại hội TDTT hoặc HKPĐ có thành tích xếp hạng là
được. Như vậy vô hình chung giáo viên chỉ chú trọng đến một số em có năng
khiếu.

-Do điều kiện cơ sở vật chất (sân bãi, đồ dùng học tập) còn nhiều hạn chế nên sự
đánh giá chất lượng tiết dạy chưa đòi hỏi cao. Thể hiện ở chỗ: Số lượng giáo
viên môn thể dục đăng ký tham gia thi giáo viên giỏi vòng tỉnh hàng năm còn rất
hạn chế, có thi thì chất lượng cũng chư cao (theo đánh giá của chuyên môn).
Chính vì những lý do trên mà các tiết dạy thể dục, giáo viên chưa đầu tư tìm tòi
sáng tạo để vận dụng nhiều phương pháp vào các tiết dạy. Một trong những
phương pháp đó là chọn và tổ chức trò chơi.
2.2.1.Giáo viên chưa chú trọng chọn và tổ chức trò chơi phù hợp:
- Nhiều tiết dạy trong PPCT có ghi “TT tự chọn”, giáo viên có chọn và tổ chức
trò chơi cho có lệ. Họ chưa chú ý đến mục đích của trò chơi đó có phù hợp với
bài dạy đó hay không? Hoặc là chỉ nghĩ chơi để thư giãn cho học sinh là chủ
yếu.
2.2.2. Qua nhiều năm công tác, bản thân tôi đã được dự giờ rất nhiều. Đồng
nghiệp dạy thể dục trong trường, trò chuyện và tiếp xúc với rất nhiều đồng
nghiệp ở các trường khác và đã nắm được tình hình chung như trên (Tất nhiên
đây không phải giáo viên nào cũng thế, mà đây là đánh giá một cách tổng thể).
* Từ đầu năm học: 2017-2018 tôi đã chú ý nghiên cứu các phương pháp làm sao
để tiết dạy có chất lượng hơn.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Cách chơi và tổ chức trò
chơi:
Cũng như các môn học khác, bao giờ giáo viên cũng phải có kế hoạch cụ thể, là
giáo án mà ở đây muốn chọn được trò chơi phù hợp để đưa vào tiết dạy, trước
tiên giáo viên cần tìm hiểu và nắm được:
* Nội dung bài dạy: Lượng kiến thức theo yêu cầu trong tiết dạy đó ít hay nhiều,
yêu cầu về lượng vận động trong tiết dạy ra sao, các dạng vận động đó là dạng
nào (tay, chân, toàn thân…).
*Không gian, thời gian:
Chú ý điều kiện sân bãi: bằng phẳng, rộng, thoáng, tiếng ồn không làm ảnh
hưởng xung quanh hay ngược lại.
Một tiết dạy thời lượng cho phép 45 phút. Như vậy khi phân phối thời gian cho

phép tổ chức trò chơi, giáo viên cần lưu ý sao cho hợp lý (phần này còn lệ thuộc
vào mục đích của trò chơi). Ngoài ra cần chú ý đến thời gian vào buổi nào (ảnh
hưởng của thời tiết).
Phân loại trò chơi:
*Theo tính chất vận động: Có trò chơi động và trò chơi tĩnh.

Trang-4-


-Trò chơi động: Dạng trò chơi đòi hỏi vận động toàn thân và được thay đổi vị trí
của người chơi.
- Trò chơi tĩnh: là trò chơi chỉ vận động một bộ phận của cơ thể, và không thay
đổi vị trí của người chơi.
*Theo mục đích của trò chơi: Tất cả các trò chơi đều có một mục đích chung là
giúp cho người chơi thư giãn, song trò chơi trong tiết dạy thể dục còn có mục
đích riêng:
- Là một bài tập khởi động, làm nóng các bộ phận cơ thể liên quan mạnh đến bài
tập ở phần tiếp theo.
- Là một bài tập luyện: Thông qua trò chơi học sinh được tập luyện thêm các
động tác, các kiến thức mới được học hoặc ôn luyện những kiến thức đã học
những tiết trước.
- Là bài tập củng cố: Thông qua trò chơi học sinh được củng cố lại những kiến
thức đã được học.
* Theo thời gian trong tiết dạy: Chơi vào đầu giờ, giữa giờ hoặc cuối giờ.
Như vậy căn cứ vào mục tiêu của bài thị chọn trò chơi theo mục đích.
*NẾU TRÒ CHƠI LÀ BÀI TẬP KHỞI ĐỘNG : Thì thường được tổ chức vào đầu giờ
hoặc giữa giờ (đầu phần mới).
Loại trò chơi này ta nên chọn để áp dụng vào những tiết dạy mà sự luyện tập của
học sinh là sự vận động mạnh các cơ bắp và các khớp cơ. Tất nhiên vào đầu giờ
học bao giờ giáo viên cũng cho học sinh khởi động toàn diện, song bài tập như

thế có thể một số học sinh thực hiện còn hời hợt, thì sự khởi động đó chưa đạt
yêu cầu, nhất là các tiết học vào đầu buổi sáng khi các em sau một đêm ngủ các
cơ bắp nghỉ, cơ thể còn mệt mỏi uể oải.
-Nếu giáo viên cho tổ chức trò chơi sau khi thực hiện bài tập khởi động, các em
sẽ thấy thoải mái, hưng phấn hẳn lên. Khởi động có chất lượng hơn, thì vào bài
tập luyện có sự vận động mạnh các em sẽ thấy dễ dàng và còn tránh được các tai
nạn như trật khớp, đau cơ bắp sau khi tập luyện - Do đó ta chọn trò chơi động là
chủ yếu. Theo tính chất vận động của tiết dạy mà chọn nội dung trò chơi cho
phù hợp với sự vận động đó. Có thể cải tiến những trò chơi cũ thành trò chơi
mới mà sự vận động trong trò chơi phù hợp với nội dung bài.
Ví dụ: Tiết 12 (thể dục 10) nội dung chạy nhanh.
. Ôn: chạy nâng cao đùi (tiết 40)
. Học mới: Đứng tại chỗ đánh tay. Đi chuyển sang chạy nhanh (20-30)
- Vì yêu cầu đánh mạnh tay, chạy nâng cao đùi và nhanh nên giáo viên
có thể chọn một trò chơi động như: “trò chơi gió thổi”. Trò chơi này dựa trên trò
chơi “Mưa rơi” mà nhiều giáo viên và học sinh đã biết.
- Giáo viên là người điều khiển bằng lời, học sinh thực hiện động tác
theo quy định:

Trang-5-


* Gió hiu hiu: học sinh đánh tay vòng từ sau ra trước từ từ nhẹ nhàng.
* Gió mạnh: học sinh đánh hai tay vòng từ sau ra trước nhanh mạnh hơn.
* Gió thành bão: học sinh đánh hai tay vòng từ sau ra trước nhanh mạnh
hơn nữa.
* Kết hợp hai chân chạy bước nhỏ và đổi chỗ cho người bên phải. Để
gây hứng thú mạnh cho học sinh, giáo viên điều khiển như kể một câu chuyện
có thực và thay đổi liên tục hiệu lệnh. Những học sinh làm không đúng các động
tác quy định theo hiệu lệnh thì giáo viên có thể phạt nhẹ ví dụ như: giáo viên hỏi

các em thích có bão không? Cho học sinh đó hô khẩu hiệu “Tôi thích gió nhưng
không muốn có bão” (3 lần) và cả lớp cùng vỗ tay. Trò chơi này chỉ cần thực
hiện trong vòng 3 phút và sau đó tiến hành ôn luyện.
Trò chơi này cũng có thể áp dụng vào đầu phần 2 sau khi đã ôn tập: chạy
nâng cao đùi. Lúc đó trò chơi này vừa bài tập khởi động cho phần sau vừa là bài
tập ôn luyện phần trước.
*NẾU TRÒ CHƠI LÀ BÀI TẬP LUYỆN:
Thì thường được tổ chức vào gần cuối phần cơ bản.
Theo yêu cầu của chương trình thì khoảng 70% các tiết phải có loại trò chơi này,
Trong đó có khoảng 40% số tiết giáo viên tự chọn trò chơi (đối với chương trình
lớp 10, 11, 12), 90% (đối với chương trình lớp 10).
Trò chơi loại này có tác dụng giúp các em luyện tập kiến thức với tinh thần tự
nguyện tự giác cao, nên giáo viên chú ý chọn đúng trò chơi thì tác dụng luyện
tập sẽ được nâng cao hiệu quả.
Giáo viên cần xem nội dung của tiết học yêu cầu hoạt động các động tác thế nào
để chọn trò chơi có tính chất luyện những động tác đó.
Ví dụ: Ở chương trình thể dục 10.
a. Môn chạy nhanh: Từ tiết 2 cho đến tiết 12, với trò chơi chạy tiếp sức mà
trong chương trình đã giới thiệu (tiết 37) thì chỉ dùng luyện chạy nhanh xuất
phát cao và chỉ vận dụng một vài tiết còn những tiết còn lại giáo viên phải tự
chọn: Nên giáo viên cần tìm các trò chơi có tác dụng phù hợp với tiết dạy ví dụ
như: trò chơi (gọi tên, ra lệnh) (giáo viên từ đặt tên).
Trò chơi 1: (H1) Chia lớp thành hai đội, đứng thành hai hàng cách nhau từ 23cm và đứng quay lưng vào nhau, giáo viên đặt tên cho hai đội. Khi giáo viên
gọi tên đội nào thì đội đó sẽ quay lưng lại và đuổi đội kia, đồng thời đội kia cũng
chạy bạn nào bắt được bạn của đội kia sẽ thắng, bạn bị bắt thua.












Trang-6-



20m


3m

20m

(H1)

Trò chơi 2: Vẽ một vòng cách vạch xuất phát 20m (tùy thuộc vào lượt
em chạy). Ở vạch xuất phát, học sinh được xếp hàng ngang. Khi có hiệu lệnh
của giáo viên hàng đầu vào vạch  chạy lên và đứng vào vòng tròn, mỗi vòng
chỉ đứng một số em theo quy định lúc ban đầu.
.Như vậy số em được đứng trong vòng tròn sẽ bằng 2/3 số em chạy lên.
.Nên học sinh sẽ chạy nhanh để dành chỗ đứng của mình, em nào không đứng
được trong vòng tròn sẽ xuống và chạy lại vào những hàng sau.
Với trò chơi như trên giáo viên có thể tự đặt tên và hướng dẫn các em chơi,
luyện chạy nhanh xuất phát cao.
*Tác động:
- Đây là trò chơi hoàn thiện bài tập chạy nhanh xuất phát cao nên áp dụng từ tiết

2-8. Những tiết từ 8-12, có thể chọn trò chơi nhẹ nhàng hơn (tương trự trò chơi
của phần khởi động đã giới thiệu) với bộ môn chạy, nếu là xuất phát thấp nên cải
biến trò chơi sao cho có tính chất kỹ năng bật chạy nhanh nhẹn.



20m




















Hình 2
Trò chơi 3: (H3) Ví dụ chia lớp thành 4 hoặc 6 nhóm ngồi thành một
vòng tròn lớn, bán kính của vòng tròn là quãng đường chạy. Thùy theo sân bãi

mà vòng tròn lớn hay nhỏ. Chia vòng tròn nhỏ bán kính khoảng 50 cm trong
vòng nhỏ bỏ một số vật (cái cờ nhỏ, cái khăn,…)
Số vật trong vòng tròn nhỏ sẽ ít hơn số tổ 12. Khi có hiệu lệnh những
em mang số 1 sẽ chạy lên vòng tròn nhỏ và lấy vật (phải lấy được một vật) chạy
về đưa cho bạn số 2, bạn số 2 lên bỏ vật vào vòng tròn và chạy về cứ như thế

Trang-7-


chạy cho đến hết bạn cuối cùng của tổ. Giáo viên điều khiển sẽ bấm thời gian
của mỗi tổ và xếp thi đua (nhất, nhì…).
* Tác động:
Với trò chơi này sẽ rèn luyện các em tham gia chạy nhanh xuất phát thấp
với kỹ năng nhanh nhẹn, khéo léo, giáo dục được tính tổ chức, tinh thần tập thể
đoàn kết tên trò chơi giáo viên có thể tự đặt sao cho phù hợp với nội dung của
tiết dạy.


*
*

Hình 3
b.Môn bật nhảy: Từ tiết 38 đến tiết 53. Ngoài ba trò chơi mà trong
chương trình đã giới thiệu: “Nhảy ô tiếp sức”, “Bật xa tiếp sức, giáo viên tự
chọn trò chơi khác sinh động hơn, tôi xin giới thiệu cải biến một trò chơi như
sau:
Ở trò chơi rèn luyện chạy nhanh xuất phát thấp mà tôi đã giới thiệu ở trên,
có thể thay đổi một số chi tiết bằng cách: Cho vòng tròn lớn có bán kính khoảng
12m, cách tâm (vòng tròn nhỏ) khoảng 3m vẽ một vòng tròn nữa tại đó.
Cách chơi: Ở trò chơi này các em sẽ đứng quanh vòng tròn lớn, khi có

hiệu lệnh, các em mang số 1 sẽ chạy (xuất phát cao) đến vòng tròn thứ hai rồi
chụm chân bật nhảy vào vòng tròn ở tâm để lấy mẫu vật trong vòng tròn này, khi
quay về cũng bật nhảy ra vòng tròn thứ hai rồi mới chạy về đưa cho bạn thứ hai

*



o

Trang-8-


* Tác động:
- Với trò chơi này giáo viên tổ chức chơi như trò chơi ở chạy nhanh xuất
phát thấp, nên khi giới thiệu trò chơi cho các em không mất nhiều thời gian,
cách chơi cũng dễ mà huy động được 100% các em tham gia trò chơi.
c. Môn đá cầu: Từ tiết 38-48.
Do yêu cầu của bộ môn chủ yếu là rèn luyện sự khéo léo, nhanh nhẹn. Nên
giáo viên có thể sao cho mục đích của trò chơi có tác dụng như trên.
Trò chơi 5: (hình 5) chia lớp làm 2 nhóm, mỗi học sinh có 1 quả cầu đá.
Cách chơi: Kẻ 1 đường giới hạn cách đường giới hạn 4m ta vẽ vòng tròn
đường kính 1m50 2 nhóm đứng trước 2 vòng có vạch giới hạn lần lượt cầm cầu đá
sao cho cầu vào vòng tròn, đội nào có số lượng cầu đá vào vòng tròn nhiều hơn thì
đội đó thắng. Trò chơi này có thể gọi là “Đá cầu trúng đích”



1,5
0m



4m
Hình 5
* Tác động:
Trò chơi này vừa giáo dục tính đoàn kết và rèn luyện sự khéo léo cho học
sinh, hoặc cho học sinh mỗi nhóm thi tâng cầu hay có thể giáo viên tổ chức trò
chơi khác trò chơi trên, nhưng làm thế nào để trò chơi là bài tập luyện có tính
giáo dục cao là được. Nó phụ thuộc vào sự sáng tạo của giáo viên trong cách tổ
chức trò chơi.
Những trò chơi là bài tập luyện thì chỉ cần giáo viên chú ý đến các động tác
luyện tập của bài học và tự cải biến trò chơi có động tác phù hợp là được, là
msao đảm bảo tính giáo dục toàn diện cho các em học sinh. Trò chơi loại này có
tác dụng lớn đối với học tập TDTT đối với các em học sinh THCS.
-NẾU TRÒ CHƠI CÓ TÍNH THƯ GIẢN ĐƠN THUẦN: thì thường được tổ chức vào
cuối giờ. Chỉ áp dụng cho những tiết dạy mà giáo viên đã cho các em học sinh
luyện tập nhiều lần, đảm bảo được yêu cầu của bài.
* Nếu tiết dạy đòi hỏi lượng vận động lớn, giáo viên cho luyện nhiều, lúc
các em đã thấm mệt. Giáo viên nên tổ chức trò chơi tĩnh, chủ yếu để các em lấy

Trang-9-


tinh thần vui vẻ thoải mái, trường hợp này có thể áp dụng cho các tiết luyện tập
chạy bền.
Thời gian tổ chức các trò chơi này khoảng từ 5-7 phút cuối giờ.
2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm:

2.4.1.Đối với hoạt động giáo dục:
Qua điều tra các lớp học do tôi trực tiếp giảng dạy trong năm học 2017-2018

-Gần 100% học sinh thích các tiết học có trò chơi.
- 97% học sinh thấy sức khỏe thoải mái sau các tiết dạy này.
- Số học sinh trốn tiết và nghỉ học môn thể dục giảm 90% so với những
năm học trước.
Lớp

Số học sinh

Cảm giác của học sinh khi học môn Giáo dục thể
chất
Hứng thú

Chưa hứng thú

nhàm chán

10B4

40

15

10

15

10B5

42


17

12

13

10B6

40

39

1

0

10B7

40

38

2

0

2.4.2.Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
-Trong các tiết dạy thể dục, giáo viên biết lựa chọn và tổ chức trò chơi hợp lý sẽ
có tác dụng lớn trong việc luyện tập thể lực một cách toàn diện cho học sinh gây
được hứng thú học cho học sinh và hứng thú dạy cho giáo viên. Từ đó nâng cao

chất lượng dạy và học.
- Xóa được tư tưởng: “xem nhẹ bộ môn” ở giáo viên làm cho giáo viên thêm yêu
nghề.
- Giáo dục truyền thống đạo đức lối sống, tính tổ chức kỷ luật, tính đoàn kết cho
các em học sinh.
- Qua những trò chơi hợp lý giáo viên tận dụng được thời gian tiết dạy để học
sinh “chơi mà học”.
- Giáo viên không mất nhiều công sức, thời gian tìm tòi các trò chơi này mà chỉ
cần chú ý suy nghĩ và sáng tạo làm thế nào để các em học sinh vui chơi bổ ích
có tính tổ chức, tính giáo dục đặc biệt tăng chất lượng tiết học lên.
3.Kết luận và kiến nghị:

Trang10-


3.1. Kết luận:
Môn thể dục được coi là môn năng khiếu, song không phải ai có năng
khiếu thể dục thể thao là đã có một sức khỏe tốt mà đòi hỏi phải có sự tập luyện
hợp lý thường xuyên. Tùy thuộc vào tâm lý lứa tuổi, sự phát triển về mặt sinh
học mà có kế hoạch luyện tập hợp lý. Nếu giáo viên giảng dạy mà không chú ý
thì kết quả giáo dục sẽ ngược lại.
Áp dụng sáng kiến này tôi thấy mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc phát
triển trũ chơi trong tiết dạy cho học sinh, giáo dục cho các em tinh thần đoàn kết
gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau cùng học tập – tập luyện . Giúp cho học sinh hứng thú
hơn và chịu đựng được lượng vận động lớn, khắc phục khó khăn, chống lại mệt
mỏi hồi phục nhanh chóng sau một giờ tập , buổi tập. Làm cho các em luôn tích
cực hăng say và hiểu rõ được kỹ năng vận động, phương pháp tập luyện của một
giờ học, một buổi học . Nâng cao hiệu quả phát triển toàn diện về đức , trí , thể ,
mĩ trong nhà trường phổ thông. Theo đúng chủ trương đường lối của Đảng và
Nhà nước trong việc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ hôm nay.

Đây mới chỉ là quan điểm của tôi qua quá trình giảng dạy và huấn luyện, vì vậy
sẽ còn những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp ý kiến chân
thành của các đồng nghiệp để bản sáng kiến được hoàn chỉnh hơn.
3.2. Kiến nghị:
Bản thân tôi mạnh dạn kiến nghị, đề nghị với các cấp Uỷ Đảng địa phương,
lãnh đạo nhà trường quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, tài liệu tham khảo đặc biệt
là việc cấp thêm diện tích đất để làm sân thể dục lấy mặt bằng để giảng dạy và
huấn luyện cho học sinh phát triển về thể chất tốt hơn nữa, tạo cho các em niềm
đam mê hứng thú trong tập luyện.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày.... tháng ... năm...
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Trang11-


MỤC LỤC
1.Mở
đầu:...............................................................................................
1
1.1.Lý do chọn đề
tài:................................................................................1
1.2.
Mục
đích

nghiên
cứu:......................................................................1
1.3.
Đối
tượng
nghiên
cứu:.....................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên
cứu:..................................................................2
1.4.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu:.............................3
1.4.2.

Phương

pháp

phỏng

vấn:............................................................3
1.4.3.Phương

pháp

kiểm

tra



phạm:................................................3

1.4.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:.........................................3
1.5. Những điểm mới của Sáng kiến kinh nghiệm:.............................3
2.Nội dung sáng kiến kinh
nghiệm:.........................................................3
2.1. Cơ sở lý
luận:.....................................................................................3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm:
.....................................................................................................
..............3
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Cách chơi và tổ chức trò
chơi:..............................................................................................
............4
2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm:..........................................9
2.4.1.Đối với hoạt động giáo dục:.............................................................10
2.4.2.Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:........................10
Trang12-


3.Kt
lun
v
ngh:......................................................................10

kin

3.1.
Kt
lun:........................................................................................10
3.2.
Kin

ngh:......................................................................................11

tài liệu tham khảo
1.Lý luận và phơng pháp TDTT.
(Nguyễn Toán - Phạm Danh Tốn - NXB TDTT - 1995)
2. Sinh lý học TDTT.
( Lu Quang Hiệp - NXB TDTT - 1993)
3. Tuyển tập nghiên cứu khoa học giáo dục sức khoẻ thể
chất trong trờng học các cấp.
( NXB TDTT - 1993)
4. Sách giáo khoa thể dục lớp 10 11 12.
( Nhiều tác giả - NXB GD - 1992)
5. Phơng pháp toán học thống kê.
(Nguyễn Đức Văn - TDTT - 1987)

Trang13-



×