Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài sản bảo đảm cho các khoản vay tại NHTMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.6 KB, 71 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt
TSBĐ
NHCT
NHTMCP
NHCTVN
NHTM
CBTD
HĐBĐ
BĐTV
PGD
XLRR
QLRR
QSD

Tên đầy đủ
Tài sản bảo đảm
Ngân hàng Công thương
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng Công thương Việt Nam
Ngân hàng thương mại
Cán bộ tín dụng
Hợp đồng bảo đảm
Bảo đảm tiền vay
Phòng giao dịch
Xử lý rủi ro
Quản lý rủi ro
Quyền sử dụng


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ tổ chức của NHCT Hoàn Kiếm.....................................................................28
Bảng 1: Tỷ trọng dư nợ cho vay phân theo tính chất bảo đảm.................................30
Bảng 2: Dư nợ cho vay theo hình thức cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay
tại NHCT Hoàn Kiếm năm 2009.............................................................................31
Bảng 3: Tình hình dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba tại
NHTMCP Công Thương Chi nhánh Hoàn Kiếm từ 2007-2009...............................32

Lăng Thị Kiều Oanh

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn cho vay có TSBĐ tại NHTMCP Công thương Việt Nam
Chi nhánh Hoàn Kiếm qua các năm từ 2007-2009……………………………………...47
Bảng 5: Giá trị TSBĐ của nợ quá hạn trên nợ quá hạn năm 2009………………….49
Bảng 6 : Tình hình giảm giá TSBĐ tại NHCT Hoàn Kiếm trong năm 2009
.................................................................................................................... ……….50

MỤC LỤC
CHƯƠNG 3............................................................................................................ 54
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TÀI SẢN.............................54
BẢO ĐẢM CHO CÁC KHOẢN VAY TẠI NHTMCP.......................................54
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH HOÀN KIẾM............................54

Lăng Thị Kiều Oanh

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48



Chuyên đề tốt nghiệp

Lăng Thị Kiều Oanh

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài : Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan
trọng nhất trong nền kinh tế, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ dưới hình
thức huy động vốn, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Ngân hàng thương
mại có vị trí, vai trò như bà đỡ và huyết mạch của nền kinh tế, là nơi cung cấp nguồn
vốn phục vụ đầu tư, sản xuất cho mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro
tín dụng. Do đó, để hạn chế rủi ro tín dụng và nâng cao chất lượng của hoạt động tín
dụng, các ngân hàng thương mại rất coi trọng vấn đề bảo đảm an toàn cho hoạt động
này, thông qua việc quản lý tài sản bảo đảm cho các khoản vay. Nhận thức rõ được
điều này, ngay từ những năm 90 cho đến nay, việc cấp tín dụng của các ngân hàng
thương mại phần lớn đều đòi hỏi có tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, các loại tài sản lại
chưa phong phú, hầu hết chỉ mới dừng lại ở thế chấp nhà ở, quyền sử dụng đất, cầm cố
sổ tiết kiệm. Việc quản lý tài sản bảo đảm không tốt cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro
tín dụng, làm tăng nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hầu hết các
ngân hàng còn gặp nhiều vướng mắc trong việc quản lý này.
Mục đích nghiên cứu: Đề tài của chuyên đề tốt nghiệp tập trung tìm hiểu hiệu
quả của công tác quản lý tài sản bảo đảm cho các khoản vay tại NHTMCP Công
thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm. Từ đó tìm ra được những điểm mạnh để phát
huy và những điểm yếu cần khắc phục nhằm làm hoàn thiện hơn nữa chất lượng và

hiệu quả của việc quản lý tài sản bảo đảm cho ngân hàng.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hiệu quả quản lý tài
sản bảo đảm cho các khoản vay tại Ngân hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh
Hoàn Kiếm
Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề tốt nghiệp sử dụng chủ yếu các phương
pháp thống kê, mô tả, so sánh, phương pháp biện chứng, lý thuyết gắn liền với thực tiễn.

Lăng Thị Kiều Oanh

1

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng
biểu, tên viết tắt và danh mục tham khảo, chuyên đề tốt nghiệp gồm có ba phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả quản lý tài sản bảo đảm tại
ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hiệu quả quản lý tài sản bảo đảm tại NHTMCP Công
thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài sản bảo đảm cho các khoản
vay tại NHTMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm
Do thời gian thực tập có hạn, kiến thức thực tế chưa nhiều, trình độ lý luận còn
nhiều hạn chế, chuyên đề tốt nghiệp của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được sự giúp đỡ, ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, các bạn để chuyên
đề của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn đến cô giáo – PGS.TS. Phan Thị Thu
Hà, Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ NHTMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn
Kiếm đã tận tình hướng dẫn, cung cấp số liệu và đóng góp những ý kiến thiết thực để

giúp tôi hoàn thành chuyên đề thực tập cuối khóa này.

Lăng Thị Kiều Oanh

2

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.

Những vấn đề cơ bản của tài sản bảo đảm

Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các
trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập
từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng thương
mại. Rủi ro này bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm
giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước
lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Một trong những tiêu chí để
đánh giá độ tin cậy của khách hàng và đảm bảo an toàn cho vốn vay để từ đó ra quyết
định tài trợ chính là dựa trên tiêu chí tài sản bảo đảm.
Theo cách hiểu chung nhất, bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng các
biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản
nợ đã cho khách hàng vay.
Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành từ

vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với
tổ chức tín dụng.
1.2. Nội dung quản lý TSĐB cho các khoản vay của NHTM
1.2.1. Chính sách tài sản bảo đảm
1.2.1.1. Chính sách về các loại TSBĐ
Tài sản bảo đảm có vai trò vô cùng quan trọng trong quyết định cấp tín dụng
của các ngân hàng thương mại. Không phải tài sản hữu hình nào của khách hàng đem
ra để làm vật bảo đảm cho các khoản vay cũng được coi là tài sản bảo đảm. Theo quy
định chung của Nhà nước và các quyết định cụ thể của từng ngân hàng, tài sản bảo
đảm được chia thành nhiều loại khác nhau. Nhưng tựu chung lại, để thực hiện chức
năng bảo đảm cho các khoản vay của khách hàng, các tài sản ấy phải thỏa mãn những
điều kiện như:
 Tài sản phải thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay, hoặc xác định được
quyền sở hữu của khách hàng, hoặc thuộc quyền sở hữu của bên thứ ba: Khách hàng
chỉ có thể đưa những tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc của bên bảo lãnh làm vật thế
chấp, cầm cố cho các khoản vay của mình. Việc xác định rõ quyền sở hữu tài sản là
điều kiện rất quan trọng trong quá trình thẩm định hồ sơ khách hàng vay.

Lăng Thị Kiều Oanh

3

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
 Tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu tại thời điểm ký kết hợp đồng
bảo đảm: Việc xác định rõ quyền sở hữu tài sản thuộc về ai gắn liền với đảm bảo tài
sản không có bất cứ sự tranh chấp nào về quyền sở hữu. Nếu tài sản có tranh chấp sẽ
gây khó khăn cho ngân hàng khi xử lý tài sản bảo đảm nếu khách hàng không thực

hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình, đồng thời tăng rủi ro cho khoản tín
dụng và cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ.
 Tài sản không thuộc đối tượng bị pháp luật cấm giao dịch: Pháp luật đã quy
định rằng mọi người dân được phép làm những việc mà pháp luật không cấm. Điều đó
có nghĩa rằng, nếu một cá nhân hay một doanh nghiệp muốn vay vốn ở ngân hàng
bằng cách thế chấp hay cầm cố tài sản, họ chỉ có thể sử dụng những tài sản không
thuộc đối tượng Nhà nước cấm giao dịch để mang ra làm vật bảo đảm. Việc sử dụng
những tài sản thuộc hàng quốc cấm làm vật bảo đảm sẽ vi phạm pháp luật và bản thân
ngân hàng cũng sẽ không bao giờ mang tiền của mình cho người khác vay để đổi lại
thứ tài sản không thể giao dịch được.
 Trong một số cần thiết theo quy định, tài sản bảo đảm cần phải được bên
bảo đảm mua bảo hiểm vật chất/tài sản trong suốt thời hạn bảo đảm tiền vay.
Tài sản bảo đảm cần phải thỏa mãn những yêu cầu như trên và được chia thành
hai loại chính như sau:
Loại 1: Các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng hoặc
đảm bảo của bên thứ ba cho khách hàng của ngân hàng (bảo lãnh). Những tài sản này
không được hình thành từ khoản tín dụng của chính ngân hàng. Tài sản loại này có thể
có giá trị lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của khoản tín dụng tùy thuộc vào dự đoán
của ngân hàng về rủi ro. Rủi ro càng lớn thì giá trị của khoản tín dụng càng nhỏ và
ngược lại. Các khoản tín dụng dựa trên tài sản bảo đảm loại một thường đảm bảo an
toàn cho ngân hàng, song gây khó khăn cho thời gian phân tích tín dụng thường bị kéo
dài.
Loại 2: Tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng. Khi ngân hàng
cho khách hàng vay vốn nhưng khách hàng này không có đủ tài sản bảo đảm loại một
hoặc tài sản đó không thể trở thành tài sản bảo đảm cho ngân hàng thì tài sản được
hình thành từ vốn vay của ngân hàng sẽ trở thành đảm bảo loại hai. Đây là biện pháp
cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế việc người vay bán tài sản hình thành từ vốn
vay. Tuy nhiên, khi người vay không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này
cũng bị giảm giá, khó bán. Do đó, tài sản loại hai không đảm bảo cho ngân hàng thu
đủ gốc và lãi nhưng có lợi cho khách hàng. Vì vậy, ngân hàng thường chấp nhận tài


Lăng Thị Kiều Oanh

4

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
sản bảo đảm loại hai với những khách hàng lớn, uy tín và có quan hệ tín dụng lâu dài
với ngân hàng.
1.2.1.2.
Chính sách về hạn mức chung
Tài sản bảo đảm được dùng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay đối
với ngân hàng. Hay nói một cách khác, ngân hàng sẽ cam kết cho khách hàng vay một
khoản tiền dựa trên sự tin cậy rằng khách hàng sẽ trả gốc và lãi đúng như hợp đồng
cam kết giữa hai bên, nếu không, ngân hàng có thể dùng chính tài sản đó để trang trải
cho khoản nợ của khách hàng và các chi phí phát sinh khác. Tuy nhiên, không phải lúc
nào ngân hàng cũng cho khách hàng vay khoản tiền bằng đúng giá trị của tài sản bảo
đảm. Khi ngân hàng đồng ý cho khách hàng đem tài sản của chính họ hoặc của bên thứ
ba để thế chấp, cầm cố cho khoản vay, ngân hàng sẽ sử dụng các nghiệp vụ trong quá
trình thẩm định để xác định ra giá trị của tài sản bảo đảm. Hạn mức cho vay cũng được
xác định dựa trên giá trị của tài sản đó tại thời điểm định giá. Thông thường, ngân
hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền thấp hơn giá trị của tài sản được đem ra cầm cố,
thế chấp. Mỗi ngân hàng sẽ có những quy định cụ thể khác nhau về hạn mức cho vay
đối với từng loại tài sản bảo đảm.
1.2.1.3.
Các hình thức đảm bảo bằng tài sản
a.


Đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản của khách hàng vay

Đảm bảo bằng thế chấp tài sản của khách hàng vay là biện pháp bảo đảm tiền
vay của ngân hàng mà theo đó khách hàng phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền
sở hữu (hoặc quyền sử dụng) các tài sản bảo đảm sang ngân hàng nắm giữ trong thời
gian cam kết.
Thông thường, đối với một số loại tài sản như máy móc, trang thiết bị, nhà đất
đang trong quá trình sử dụng v.v…, ngân hàng chỉ nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó
trong thời gian vay vốn, còn quyền sử dụng và khai thác tài sản vẫn thuộc về khách
hàng. Đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và người
tiêu dùng. Do giá trị của tài sản này thường lớn, vì vậy doanh nghiệp có thể vay ngân
hàng với số vốn lớn để đầu tư vào các dự án của mình.
Đảm bảo bằng tài sản thế chấp cho phép người vay vốn sử dụng tài sản bảo
đảm phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đây chính là ưu điểm của hình thức bảo đảm
bằng thế chấp. Tuy nhiên, quá trình sử dụng sẽ là biến dạng tài sản. Mặt khác, do khả

Lăng Thị Kiều Oanh

5

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
năng kiểm soát tài sản bảo đảm của ngân hàng bị hạn chế nên khách hàng có thể lợi
dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Đảm bảo bằng cầm cố tài sản của khách hàng vay là hình thức mà theo đó
khách hàng vay vốn phải chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân
hàng trong thời gian thực hiện hợp đồng.
Cầm cố thích hợp với những loại tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và

bảo quản tương đối chắc chắn. Đồng thời cũng thỏa mãn việc ngân hàng nắm giữ
tài sản không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của khách hàng vay. Ngân hàng
thường có yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng vay nắm giữ tài sản bảo
đảm là không an toàn cho ngân hàng. Các tài sản mà ngân hàng cầm cố thường là
những tài sản gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi
trường tự nhiên. Đồng thời, nó cũng là những tài sản dễ bán, dễ chuyển nhượng và
khó kiểm soát được việc bán, chuyển nhượng hay không. Vì vậy, ngân hàng thường
yêu cầu khách hàng vay cầm cố tài sản khi ngân hàng có sự không chắc chắn về
việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng cho ngân hàng. Các tài sản có thể
cầm cố được thường phong phú và an toàn hơn các tài sản đem thế chấp vì ngân
hàng được nắm giữ tài sản của khách hàng và những tài sản đó lại có khả năng
chuyển đổi thành tiền cao.
b.
Đảm bảo bằng bảo lãnh của bên thứ ba
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) là việc bên bảo lãnh
cam kết với ngân hàng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách
hàng vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Bên nhận bảo lãnh là người chủ nợ,
người hưởng thụ bảo lãnh. Trong quan hệ tín dụng đó là các ngân hàng cho vay. Bên
được bảo lãnh là khách hàng vay (con nợ), người có nghĩa vụ phải thanh toán nợ cho
ngân hàng cho vay.
Biện pháp bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba thường được các ngân hàng
áp dụng nhằm mục tiêu an toàn ngân hàng để hạn chế rủi ro, tổn thất xảy ra đối
với hệ thống ngân hàng.

Lăng Thị Kiều Oanh

6

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48



Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2.
Quy trình quản lý tài sản bảo đảm
Quy trình quản lý TSBĐ được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ TSBĐ
Bước 2: Thẩm định và phê duyệt bảo đảm
Bước 3: Lập và ký hợp đồng bảo đảm
Bước 4: Đăng ký giao dịch bảo đảm
Bước 5: Nhập và kiểm tra việc nhập dữ liệu TSBĐ vào hệ thống máy tính
Bước 6: Nhận TSBĐ và hồ sơ TSBĐ
Bước 7: Quản lý TSBĐ, hồ sơ TSBĐ
Bước 8: Đánh giá, định giá lại TSBĐ, thay đổi, bổ sung TSBĐ
Bước 9: Xử lý hoặc giải chấp TSBĐ
Các nội dung chính của quy trình:
1.2.2.1. Tiếp nhận hồ sơ TSBĐ
Khi khách hàng đến xin ngân hàng thế chấp, cầm cố tài sản để vay vốn, ngân
hàng sẽ phải hướng dẫn cho khách hàng các thủ tục để cần thiết. Cán bộ tín dụng
của ngân hàng sẽ hướng dẫn, giải thích cho khách hàng hiểu đầy đủ các trách nhiệm
và nghĩa vụ của mình khi cầm cố, thế chấp, trao đổi để thu thập thông tin liên quan
đến bên bảo đảm và TSBĐ. Tùy theo tài sản bảo đảm mà khách hàng dùng để cầm
cố thế chấp là tài sản nào, ngân hàng sẽ phải thu thập đầy đủ các giấy tờ, hồ sơ liên
quan đến tài sản bảo đảm đó nhằm xác minh được quyền sở hữu của tài sản thuộc
về ai, cũng như chứng minh được tài sản được cầm cố , thế chấp thỏa mãn đầy đủ
các yêu cầu để trở thành tài sản bảo đảm như: không thuộc tài sản bị Nhà nước cấm
giao dịch, không có tranh chấp pháp lý…
Những tài liệu thu thập được sẽ là cơ sở để ngân hàng tiến hành thẩm định
TSBĐ để ra quyết định về việc cho vay đối với khách hàng.
1.2.2.2.

Thẩm định TSBĐ
Thẩm định TSBĐ là một công việc quan trọng trong quản lý TSBĐ. Đây là
khâu đầu tiên diễn ra trong quy trình quản lý TSBĐ cũng là khâu quyết định cho sự
hợp tác của ngân hàng và khách hàng. Nếu TSBĐ đáp ứng được các yêu cầu của
ngân hàng sẽ là một căn cứ quan trọng để đưa ra quyết định cho vay của ngân hàng.
Vì vậy, việc lựa chọn tài sản bảo đảm phải phù hợp với các tiêu chí của ngân hàng
đưa ra. Cụ thể, dựa vào những hồ sơ về tài sản bảo đảm mà khách hàng cung cấp,
ngân hàng phải xác định quyền sở hữu của khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh, tài
sản được đem ra thế chấp, cầm cố cần phải đảm bảo đó là tài sản không bị tranh
chấp. Đặc biệt, cán bộ tín dụng phải xem xét mức độ được phép giao dịch của tài
sản ấy, tính chuyển nhượng của tài sản để tiện cho việc xử lý TSBĐ.

Lăng Thị Kiều Oanh

7

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
Một số tài sản bảo đảm khi được đem ra cầm cố, thế chấp cần phải mua bảo
hiểm cho tài sản đó trong thời gian thực hiện hợp đồng. Vì vậy, ngân hàng cần phải
xem xét xem tài sản có thuộc đối tượng bắt buộc phải mua bảo hiểm tài sản hay không
để tránh những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình quản lý, bảo quản tài sản.
Khâu quan trọng nhất khi thẩm định giá trị của một tài sản là định giá giá trị
của tài sản đó. Định giá là loại hoạt động chuyên môn, vừa mang tính kinh tế kỹ thuật,
tính pháp lý, vừa mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại và phát triển
gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường. Theo cách hiểu chung
nhất, định giá tài sản là sự ước tính về giá trị thị trường của tài sản đó tại một thời
điểm nhất định và phục vụ cho một mục đích nhất định. Như vậy, theo cách hiểu này

thì định giá TSBĐ là sự ước tính về giá trị thị trường của tài sản được mang ra làm
TSBĐ tại một thời điểm nhất định và phục vụ cho mục đích bảo đảm.
Giá trị của một tài sản luôn thay đổi theo từng thời kỳ, từng thời điểm và phạm
vi sử dụng của tài sản đó. Giá trị ấy luôn chịu tác động của những quy luật kinh tế và
luôn phải tuân theo những nguyên tắc kinh tế nhất định. Cụ thể có những nguyên tắc
sau đây:
Thứ nhất : Nguyên tắc cung – cầu: giá cả của tài sản bảo đảm là kết quả của cân
bằng cung – cầu trên thị trường, nhận được từ thỏa thuận giữa người mua, người bán.
Do vậy, khi xác định giá của tài sản phải lấy thời điểm cung cầu cân bằng. Người mua
tạo nên cầu trên thị trường. Nếu cầu đối với một loại tài sản cao thì giá có xu hướng
tăng, nếu cầu thấp thì giá có xu hướng giảm. Ngược lại, giá trị của tài sản đó cũng tác
động đến cung và cầu về tài sản. Cung cầu về tài sản chịu tác động bởi rất nhiều yếu
tố. Vì vậy, khi định giá cần xem xét, điều chỉnh theo xu hướng mất cân đối cung cầu
và dự báo trước các nhân tốc làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi áp
dụng nguyên tắc này cần chú ý đảm bảo rằng giá của tài sản là giá thỏa thuận, tự
nguyện giữa bên mua và bên bán mà không hề có yếu tố nào ép buộc.
Thứ hai : Nguyên tắc thay đổi: một tài sản tồn tại trong mối quan hệ nguyên
ngân – kết quả của các yếu tố ảnh hưởng đến, do vậy, giá trị của nó luôn luôn thay đổi,
không cố định do các nguyên nhân như: thay đổi về công năng, thay đổi về vị trí và
điều kiện ( đối với bất động sản), thay đổi thị trường…. Vì vậy, khi định giá, cán bộ tín
dụng cần phải dự báo trước được các thay đổi này.
Thứ ba : Nguyên tắc thay thế: hai tài sản có cùng tính hữu ích và mục đích sử
dụng giống nhau sẽ có khả năng thay thế được cho nhau. Do vậy, khi định giá tài sản
này cần phải xem giá trị của tài sản khác có thể thay thế được cho nó. Khi hai tài sản
có tính hữu ích như nhau, tài sản nào chào bán ở mức giá thấp hơn thì sẽ được bán
trước. Đây là nguyên tắc quan trọng trong khi định giá bằng phương pháp so sánh.

Lăng Thị Kiều Oanh

8


Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
Cán bộ tín dụng phải luôn có sự so sánh giữa tài sản mục tiêu (tài sản cần định giá) và
các tài sản tương tự có thể thay thế cho nó để có thể đưa ra giá của tài sản đó một cách
chính xác.
Thứ tư : Nguyên tắc sử dụng cao nhất, tốt nhất: Một tài sản được coi là sử dụng
cao nhất tốt nhất khi tài sản đó được sử dụng một cách phù hợp, hợp pháp, đạt đến
mức hữu dụng tối đa và cho thu nhập ròng (hiện tại hoặc tương lai) lớn nhất và kéo dài
liên tục.
Thứ năm: Nguyên tắc đóng góp: mỗi tài sản được cấu thành từ nhiều bộ phận
nhỏ khác nhau của tài sản ấy. Mức độ mà mỗi bộ phận của tài sản đóng góp vào tổng
thu nhập từ tòan bộ tài sản ấy có tác động đến tổng giá trị của tài sản đó. Sự có mặt
hoặc thiếu vắng của một bộ phận cấu thành có thể làm giảm hoặc tăng giá trị của tài
sản nhiều hơn chi phí để tạo ra nó. Đây là nguyên tắc cơ bản trong việc xem xét tính
khả thi của việc đầu tư bổ sung vào tài sản khi cán bộ định giá xác định mức sử dụng
tốt nhất và có hiệu quả nhất của tài sản.
Thứ sáu : Nguyên tắc nhất quán: mỗi tài sản và các bộ phân cấu thành nên tài
sản đó chỉ phát huy tác dụng trong một mục đích thống nhất, không thể tách riêng từng
bộ phận để định giá cho mục đích của bộ phận đó không liên quan đến bộ phấn khác.
Cán bộ định giá cần tuân thủ nguyên tắc nhất quán này trong việc đánh giá tài sản với
các yếu tố bên ngoài tác động như: môi trường, xu hướng phát triển kinh tế xã hội.
Thứ bảy: Nguyên tắc phù hợp: Để đạt được mục đích sử dụng cao nhất, tốt
nhất, tài sản định giá cần phải phù hợp với các yếu tố bên ngoài và phù hợp với quan
điểm, tập quán sử dụng, khai thác tài sản. Ví dụ, tài sản cần định định giá là nhà ở: cán
bộ định giá cần phải đảm bảo nhà ở đó được xây dựng phù hợp với các yếu tố như hạ
tầng, môi trường…Bất kỳ sự thiết kế nào không phù hợp sẽ làm giảm giá trị của tài
sản đó.

Thứ tám: Nguyên tắc thực tế: Cán bộ thẩm định cần phải dựa vào khả năng thực
tế của tài sản, có dự báo những thay đổi nhưng không được suy diễn mà không có căn
cứ. Ngoài ra, họ còn phải dựa vào tập quán, quan điểm thực tế trong mua bán, trao đổi
và dựa vào kết quả thực tế đã được thị trường thừa nhận để có sự điều chỉnh hợp lý
trong công tác định giá.
Thứ chín: Nguyên tắc dự báo: giá trị của tài sản có thể được xác định bằng việc
dự tính khả năng sinh lời trong tương lai. Giá trị của tài sản cũng chịu ảnh hưởng bởi
việc dự kiến thị phần của những người tham gia thị trường và những thay đổi có thể
dự tính trước trong yếu tố này cũng ảnh hưởng đến giá trị. Vì vậy, việc ước tính giá trị
của tài sản luôn dựa trên các triển vọng tương lại, lợi ích dự kiến nhận được từ quyền
sử dụng tài sản của người mua.

Lăng Thị Kiều Oanh

9

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ mười: Nguyên tắc ngoại ứng: giá trị của tài sản chịu tác động bởi các yếu
tố bên ngoài nó. Ngược lại, giá trị của các tài sản khác cũng chịu tác động ngoại ứng
của bản thân tài sản đang được định giá. Vì vậy, trong quá trình định giá, cán bộ tín
dụng phải xem xét đến các yếu tố ngoại ứng tích cực hay tiêu cực làm ảnh hưởng đến
giá của tài sản.
Trên đây là những nguyên tắc mà cán bộ thẩm định cần xem xét đến khi định
giá giá trị của tài sản bảo đảm. Ngoài những nguyên tắc này, để có thể phản ánh tốt
nhất giá trị của tài sản bảo đảm, cán bộ thẩm định còn phải sử dụng hợp lý phương
pháp định giá.
Hiện nay, có rất nhiều cách để định giá tài sản bảo đảm. Các ngân hàng thường

sử dụng một hoặc kết hợp các phương pháp sau: phương pháp so sánh, phương pháp
chi phí, phương pháp thu nhập, phương pháp thặng dư, phương pháp lợi nhuận.
Phương pháp so sánh: Là phương pháp thẩm định giá dựa trên cơ sở phân tích
mức giá của các tài sản tương tự với tài sản cần thẩm định giá đã giao dịch thành công
hoặc đang mua, bán trên thị trường vào thời điểm thẩm định giá hoặc gần với thời
điểm thẩm định giá để ước tính giá trị thị trường của tài sản cần thẩm định giá. Ví dụ:
khi cần định giá tài sản bảo đảm là bất động sản, ngân hàng có thể định giá bằng cách
so sánh một cách trực tiếp BĐS mục tiêu với các BĐS tương tự đã được bán trên thị
trường nhằm tìm ra giá trị của nó từ các giao dịch trước đấy. Phương pháp so sánh chủ
yếu được áp dụng trong thẩm định giá các tài sản có giao dịch, mua bán phổ biến trên
thị trường. Nó cũng là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất, thậm chí khi một
trong bốn phương pháp khác đã được người định giá sử dụng thì vẫn cần sử dụng cả
phương pháp so sánh bởi vì phương pháp này không gặp khó khăn về kỹ thuật và thể
hiện được sự đánh giá về giá trị thị trường, vì vậy nó có cơ sở vững chắc để cơ quan
pháp lý công nhận.
Phương pháp chi phí : Là phương pháp thẩm định giá được hình thành từ
nguyên tắc thay thế và giả định rằng giá trị của tài sản cần định giá được đo bằng chi
phí để làm ra một tài sản tương tự như một vật thay thế. Phương pháp này dựa trên
một giả định lỏng lẻo như vậy nên nó được coi là phương pháp ít được sử dụng và ở
một mức độ nào đó nó là cứu cánh cuối cùng khi các phương pháp khác không thể
thực hiện được hoặc chỉ dùng trong các trường hợp định giá các bất động san công
cộng như trường học, bệnh viện, thư viện… Một nhược điểm của phương pháp này là
sử dụng cách tiếp cận cộng dồn, song tổng nhiều bộ phận chưa chắc đã bằng với giá trị
của toàn bộ. Ngoài ra, việc ước tính giảm giá tích lũy nhiều khi dựa trên chủ quan của

Lăng Thị Kiều Oanh

10

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48



Chuyên đề tốt nghiệp
người định giá, chưa có một phương pháp thống nhất để tính phần giảm giá tính lũy.
Vì vậy, phương pháp này được sử dụng rất hạn chế.
Phương pháp vốn hóa (phương pháp đầu tư): Là phương pháp thẩm định giá
dựa trên cơ sở chuyển đổi các dòng thu nhập ròng trong tương lai có thể nhận được từ
việc khai thác tài sản cần thẩm định giá thành giá trị vốn hóa hiện tại của tài sản (quá
trình chuyển đổi này còn được gọi là quá trình vốn hóa thu nhập) để ước tính giá trị thị
trường của tài sản cần thẩm định giá. Phương pháp vốn hóa là phương pháp cơ bản
trong định giá tài sản, đặc biệt là định giá bất động sản.
Phương pháp thặng dư: Là phương pháp thẩm định giá mà giá trị thị trường của
tài sản cần thẩm định giá được xác định giá trị vốn hóa hiện có trên cơ sở ước tính
bằng cách lấy giá trị ước tính của sự phát triển giả định của tài sản trừ đi tất cả các chi
phí phát sinh để tạo ra sự phát triển đó. Phương pháp này chủ yếu được áp dụng trong
thẩm định giá bất động sản có tiềm năng phát triển. Phương pháp thặng dư thường gặp
nhiều khó khăn khi áp dụng như khó khăn trong việc xác định sử dụng cao nhất, tốt
nhất của tài sản đang tồn tại, cán bộ thẩm định cần phải có những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm tốt nhất để ước tính tất cả các khoản mục. Mặc dù phương pháp này có
tính đến kỳ vọng tương lai song không tính đến giá trị thời gian của tiền, việc giả định
tất cả các dòng tiền xảy ra ở cũng một thời điểm là không hiện thực.
Phương pháp lợi nhuận: Là phương pháp dựa vào sự phân tích khả năng sinh
lợi do việc sử dụng tài sản bằng cách lấy doanh thu kinh doanh kiếm được từ việc sử
dụng tài sản trừ đi tất cả các chi phí hoạt động kinh doanh hợp lý, hợp lệ, phần còn lại
thể hiện thu nhập thực hàng năm đặc trưng cho tài sản. Phương pháp lợi nhuận chủ
yếu được áp dụng trong thẩm định giá các tài sản mà việc so sánh với những tài sản
tương tự gặp khó khăn do giá trị của tài sản chủ yếu phụ thuộc vào khả năng sinh lời
của tài sản như khách sạn, nhà hàng…..Phương pháp này không đòi hỏi ước tính giá
trị cụ thể của tài sản, nó thích hợp với việc xác định giá trị của tài sản không có giao
dịch trên thị trường. Tuy nhiên, để áp dụng linh hoạt phương pháp này, đòi hỏi người

định giá cần phải có những hiểu biết nhất định về tài sản và lĩnh vực kinh doanh.
Như vậy, mỗi phương pháp định giá đều có những ưu điểm và nhược điểm
riêng. Mỗi ngân hàng cần phải phân tích, đánh giá để lựa chọn ra phương pháp định
giá phù hợp với khả năng, nguồn lực hiện có của ngân hàng mình.
1.2.2.3.
Bảo quản TSBĐ
Sau khi ngân hàng chấp nhận cho khách hàng vay vốn bằng thế chấp, cầm cố
tài sản bảo đảm thì các tài sản này sẽ được ngân hàng bảo quản, lưu giữ. Ngân hàng có
thể trực tiếp nắm giữ những tài sản này hoặc ngân hàng và khách hàng có thể thống

Lăng Thị Kiều Oanh

11

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
nhất thuê bên thứ ba quản lý, hoặc cho khách hàng trực tiếp quản lý và sử dụng dưới
sự giám sát của ngân hàng. Ngân hàng phải giữ bản gốc những giấy tờ liên quan đến
TSBĐ như giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy tờ chứng minh tài sản thuộc quyền sở hữu, hợp đồng, giấy chứng nhận bảo hiểm,
giấy ủy quyền thụ hưởng tiền bảo hiểm.
Nếu TSBĐ được khách hàng quản lý và sử dụng, do trong quá trình sử dụng sẽ
có hao mòn, ngân hàng phải chủ động đề nghị và thực hiện kiểm tra TSBĐ để phát
hiện ngay lập tức sự hao hụt giá trị của tài sản. Việc kiểm tra cần được tiến hành
thường xuyên, định kỳ, cụ thể số lượng và tình trạng tài sản, tình hình sử dụng và bảo
quản tài sản.
1.2.2.4.
Xử lý TSBĐ

Thông thường, khi hoạt động kinh doanh của khách hàng đạt đúng mục tiêu
theo định hướng thì khách hàng sẽ hoàn trả vốn và nhận lại TSBĐ. Nhưng trong
trường hợp khách hàng gặp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh, không có khả
năng hoàn trả lại vốn cho ngân hàng, ngân hàng được phép xử lý TSBĐ. Quy trình xử
lý TSBĐ được phân cụ thể làm năm trường hợp:
Thứ nhất, khoản vay đã hết hạn mà khách hàng không có khả năng trả nợ.
Thứ hai, ngân hàng có quyền xử lý TSBĐ trước thời hạn khi bên vay vi phạm
nghĩa vụ theo thỏa thuận hợp đồng hoặc vi phạm quy định của pháp luật.
Thứ ba, nếu khách hàng vay phải thực hiện nghĩa vụ khác, do đó yêu cầu xử lý
TSBĐ trước thời hạn. Trong trường hợp khách hàng vẫn muốn duy trì hợp đồng với
ngân hàng, phải có một TSBĐ khác có giá trị tương đương bảo đảm cho khoản vay.
Thứ tư, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh là tổ chức kinh tế bị phá sản, giải thể
thì phải hoàn thành nghĩa vụ trả nợ ngay khi giải thể. Nếu không được, ngân hàng có
quyền xử lý TSBĐ.
Thứ năm, trong trường hợp khách hàng vay, bên bảo lãnh là doanh nghiệp
chuẩn bị chia tách, giải thể, cổ phần hóa, sáp nhập v.v… thì cũng được coi là đến hạn
trả nợ. Nếu khách hàng không hoàn trả được, ngân hàng có quyền xử lý TSBĐ.
Việc xử lý TSBĐ phải được thực hiện một cách khách quan, công khai, minh
bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm, cá
nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định của pháp luật. Ngân hàng có
thể chuyển giao quyền thu hồi nợ và ủy quyền cho bên thứ ba xử lý TSBĐ. Trong
trường hợp này, bên thứ ba cũng có quyền xử lý TSBĐ để thu hồi nợ như ngân hàng.
Khi khách hàng không có khả năng hoàn trả lại khoản vay cho ngân hàng, ngân
hàng có thể lựa chọn những cách sau để xử lý TSBĐ:

Lăng Thị Kiều Oanh

12

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48



Chuyên đề tốt nghiệp
Một là, ngân hàng có thể bán trực tiếp TSBĐ, trừ trường hợp TSBĐ là quyền sử
dụng đất và các tài sản mà pháp luật quy định phải bán lại cho các tổ chức bán đấu giá
chuyên trách. Ngân hàng và khách hàng vay sau khi đã thỏa thuận giá bán tối thiểu,
khách hàng vay sẽ tự tìm người mua để bán tài sản, trường hợp này xảy ra khi người đi
vay có thiện chí trả nợ hoặc ngân hàng sẽ chủ động tìm người mua. Phương pháp này
giảm bớt được các chi phí đấu giá, rút ngắn được thời gian, ngân hàng sẽ nhanh chóng
thu hồi được khoản nợ nhưng giá bán có thể không được cao như mong muốn.
Hai là, ngân hàng có thể nhận chính TSBĐ thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
trả nợ. Trong trường hợp này, giá của TSBĐ sẽ được hai bên thỏa thuận. Nếu giá thỏa
thuận lớn hơn giá trị khoản vay và lãi thì ngân hàng sẽ phải trả lại cho khách hàng vay
chênh lệch và ngược lại.
Ba là, nếu tài sản mà khách hàng vay thế chấp là quyền đòi nợ thì ngân hàng sẽ
nhận tiền hoặc tài sản của người thứ ba, là người bị đòi nợ trong quyền đòi nợ.
Bốn là, ngân hàng có thể bán TSBĐ thông qua các tổ chức dịch vụ đấu giá.
Phương pháp này thường áp dụng cho TSBĐ là quyền sử dụng đất và các tài sản gắn
liền với đất vì chúng có giá trị lớn. Theo cách này, ngân hàng có thể thu được số tiền
lớn hơn so với việc trực tiếp bán những tài sản này và cũng có thể phải chịu chi phí
hơn và tốn nhiều thời gian hơn.

1.3. Hiệu quả quản lý TSĐB
1.3.1.
Khái niệm
Hiệu quả quản lý TSBĐ được hiểu là hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp
quản lý TSBĐ để bảo đảm rằng các TSBĐ được quản lý một cách chặt chẽ và hữu
hiệu nhất nhằm hạn chế rủi ro tín dụng cho khoản cho vay của ngân hàng. Trong
trường hợp khách hàng vay gặp khó khăn đối với việc hoàn trả nợ thì ngân hàng chỉ có
thể thu hồi được vốn thông qua việc xử lý các TSBĐ. Do đó, có thể nói quản lý TSBĐ

là một yếu tố không những đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay mà còn mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng vì giúp ngân hàng hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra. Hiệu
quả của hoạt động quản lý TSBĐ cho các khoản vay có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nên nếu được thực hiện không tốt rất có thể sẽ có
nguy cơ tiểm ẩn rủi ro xảy ra cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ vay, dẫn đến khả
năng mất vốn và có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng đối với
khách hàng. Từ lý do này có thể dẫn đến giảm uy tín của ngân hàng, tác động đến tâm
lý của khách hàng gây ra tình trạng rút tiền hàng loạt dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản.

Lăng Thị Kiều Oanh

13

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
Hoạt động của ngân hàng mang tính xã hội hóa cao, nó ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế. Do đó đòi hỏi ngân hàng khi thực hiện vấn đề quản lý TSBĐ phải chú trọng
đến vấn đề đạt được hiệu quả vì việc đạt được hiệu quả quản lý TSBĐ là điều kiện
sống còn cho bản thân mỗi ngân hàng. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả về vấn đề này
thì đòi hỏi ngân hàng cũng cần phải thực hiện tốt các công tác khác như kiểm tra giám
sát khách hàng sử dụng khoản vay, thẩm định khách hàng vay vốn, xếp hạng tín dụng
khách hàng một cách chuẩn xác, tránh trường hợp xảy ra tổn thất.
1.3.2.
Các tiêu chí phản ánh hiệu quả quản lý TSBĐ
1.3.2.1. Các chỉ tiêu định tính

Mức độ an toàn của tài sản bảo đảm
Mức độ an toàn của tài sản bảo đảm phản ánh hiệu quả quản lý TSBĐ. Đối với

những tài sản có mức độ an toàn cao hơn sẽ được các ngân hàng ưa chuộng vì nó sẽ có
độ rủi ro thấp hơn, hiệu quả của việc quản lý sẽ cao hơn. Những tài sản có độ an toàn
cao là những tài sản dễ dàng xác định được quyền sở hữu, có thị trường tiêu thụ rộng
rãi và là những tài sản dễ bán với chi phí thấp nên ngân hàng sẽ dễ thu hồi được vốn
nhanh và dễ dàng hơn.

Phương thức bảo quản tài sản bảo đảm
Ngân hàng nhận tài sản bảo đảm làm vật thế chấp, cầm cố cho các khoản vay
thì cần phải có những biện pháp thích hợp để có thể quản lý, bảo quản tài sản đó. Trên
lý thuyết, khi khách hàng mang tài sản đến cầm cố, thế chấp tại ngân hàng, tức là họ
đã chuyển giao quyền sở hữu tạm thời cho ngân hàng trong thời hạn vay vốn, đổi lại,
khách hàng sẽ được quyền sử dụng vốn vay từ ngân hàng cho mục đích sinh hoạt, sản
xuất, kinh doanh của mình. Trong thời gian nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản,
ngân hàng cần phải tích cực thực hiện các biện pháp để bảo quản tài sản, làm sao cho
tài sản đó không bị hư hỏng, thiệt hại và giảm sự hao mòn của tài sản đến mức tối đa.
Đối với những tài sản được ngân hàng nắm giữ, ngân hàng cần phải có kho bãi riêng
hoặc thuê bên thứ ba để bảo quản tài sản một cách tốt nhất. Bảo quản tài sản không chỉ
dừng lại ở việc thực hiện những biện pháp bảo quản về mặt vật lý nói chung mà ngân
hàng còn phải thường xuyên đánh giá hiệu quả tài sản bảo đảm tham gia vào đời sống
sinh hoạt hoặc quá trình sản xuất đối với những tài sản mà khách hàng thế chấp và
định giá sự giảm giá của tài sản bảo đảm để đề ra những biện pháp thích hợp để giảm
rủi ro cho ngân hàng. Phương thức mà mỗi ngân hàng áp dụng để bảo quản tài sản bảo
đảm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý tài sản bảo đảm của ngân hàng đó.
Ngân hàng nếu có sự lựa chọn tài sản bảo đảm phù hợp, sử dụng phương thức đảm

Lăng Thị Kiều Oanh

14

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48



Chuyên đề tốt nghiệp
bảo, bảo quản tốt thì sẽ tạo ra uy tín cho ngân hàng, tạo nên an toàn xã hội và chi phí
bỏ ra thấp.

Chất lượng công tác định giá tài sản bảo đảm
Tài sản bảo đảm là yếu tố để ngân hàng quyết định mức cho vay. Do đó, việc
định giá chính xác tài sản bảo đảm là hết sức quan trọng. Nó giúp ngân hàng đảm bảo
được quyền lợi cho chính bản thân mình và cho cả khách hàng. Để đưa ra được giá
chính xác của tài sản bảo đảm là việc không dễ dàng, thậm chí là không thể. Tuy
nhiên, ngân hàng cần phải có trách nhiệm trong việc đào tạo cán bộ thẩm định có năng
lực trình độ chuyên môn cao, đồng thời đưa ra những quy định rõ ràng, hướng dẫn về
phương pháp định giá áp dụng cho từng loại tài sản bảo đảm. Nếu ngân hàng có chất
lượng định giá tài sản bảo đảm cao, ngân hàng sẽ tạo uy tín đối với khách hàng và hiệu
quả quản lý tài sản bảo đảm cho các khoản vay cũng vì thế mà được nâng cao hơn.
Ngoài những chỉ tiêu trên, chúng ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu khác để đánh
giá hiệu quả công tác quản lý TSBĐ của ngân hàng:
Ngân hàng kiểm soát, quản lý tài sản bảo đảm một cách đầy đủ chặt chẽ giúp
ngân hàng theo dõi, kiểm tra, đánh giá nhằm đảm bảo tài sản vẫn đang trong tình trạng
bình thường hoặc kịp thời phát hiện ra sự cố có liên quan làm giảm giá trị của tài sản
bảo đảm.
Việc xử lý tài sản bảo đảm với thủ tục nhanh chóng, chi phí thấp, bảo đảm được
quyền lợi cho ngân hàng và khách hàng cũng là một chỉ tiêu để nói lên hiệu quả bảo
đảm tiền vay của ngân hàng.
Trên đây là các chỉ tiêu định tính nhưng nó chỉ là những căn cứ để đánh giá
hiệu quả của hoạt động quản lý TSBĐ một cách khái quát. Để có những kết luận chính
xác hơn cần dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể.
1.3.2.2.
Các chỉ tiêu định lượng

Để đánh giá hiệu quả của hoạt động quản lý TSBĐ, chúng ta có thể kết hợp
phân tích số tương đối và số tuyệt đối, theo dõi tình hình biến động của các chỉ tiêu
phân tích qua các năm.
a.
Chỉ tiêu về nợ quá hạn
Nợ quá hạn đối với cho vay có bảo đảm bằng TS
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay có TSBĐ = ────────────────────────────
Tổng nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn cao biểu hiện độ an toàn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng là thấp và ngược lại. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh
doanh là khách quan, do đó nợ quá hạn là yếu tố tất yếu, không thể tránh khỏi được.
Song nếu một ngân hàng có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp nhiều rủi ro trong kinh

Lăng Thị Kiều Oanh

15

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
doanh vì có nguy cơ mất vốn dẫn đến giảm thu nhập và mất khả năng thanh toán. Phần
lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, ngân hàng có thể bị mất toàn bộ
vốn cho vay hoặc mất một phần. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ an toàn
trong hoạt động cho vay của ngân hàng và cũng đánh giá hiệu quả của hoạt động cho
vay nói chung, hiệu quả của hoạt động quản lý tài sản bảo đảm nói riêng.
Tỷ lệ nợ quá hạn ngầm chỉ ra rủi ro đối với các khoản cho vay và hậu quả có
thể xảy ra đối với các khoản nợ quá hạn. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xem xét đến
việc hoàn trả khi đã quá hạn chứ không xét đến tổng dư nợ có nguy cơ quá hạn. Trong
nhiều trường hợp việc sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn có thể phản ảnh rủi ro tín dụng không

chính xác vì khi ngân hàng có các khoản cho vay tăng nhanh thì số dư nợ cho vay của
ngân hàng tăng trong khi đó số nợ đến hạn chỉ tăng khi các khoản nợ đến kỳ hạn trả.
Do đó một tốc độ tăng nhanh các khoản cho vay có thể che dấu đi vấn đề nợ quá hạn.
Vì vậy, các ngân hàng thương mại cần phải thận trọng trong việc các định kỳ hạn như
thế nào được coi là quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản là yếu tố quan trọng
khi đánh giá hiệu quả quản lý tài sản. Đối với những món nợ quá hạn có tài sản đảm
bảo, ngân hàng sẽ có thể tiến hành phát mại tài sản để thu hồi nợ. Trước khi quyết định
cho khách hàng vay, ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định giá trị tài sản bảo đảm và chỉ
cho vay một tỷ lệ nhất định dựa trên giá trị tài sản đó tùy theo quyết định của từng
ngân hàng. Thông thường, ngân hàng sẽ cho vay số tiền nhỏ hơn giá trị tài sản bảo
đảm. Nếu khách hàng không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn và món nợ được
chuyển thành nợ quá hạn, ngân hàng có quyền sử dụng các biện pháp tận thu để có thể
thu hồi được khoản nợ đó ví dụ như tiến hành bán tài sản. Nếu ngân hàng thực hiện tốt
việc thẩm định cũng như định kỳ đánh giá giá trị tài sản, khi tiến hành xử lý tài sản
bằng cách bán tài sản, ngân hàng có thể lường trước được những rủi ro có thể xảy ra
đối với việc thu hồi khoản vay.
b. Chỉ tiêu về giá trị TSBĐ của nợ quá hạn
Giá trị TSBĐ của nợ quá hạn
Công thức :
──────────────────
Nợ quá hạn
Khi khoản vay của khách hàng bị chuyển thành nợ quá hạn thì ngân hàng hoàn
toàn có quyền xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Đối với những món vay có tài sản bảo đảm,
nếu giá trị TSBĐ của nợ quá hạn thấp hơn nợ quá hạn thì ngân hàng sẽ phải chịu rủi ro
rất lớn bởi lúc này, nếu như có phát mại tài sản để thu hồi nợ thì ngân hàng cũng
không thể thu được đầy đủ gốc và lãi do ngân hàng đã cho khách hàng vay số tiền

Lăng Thị Kiều Oanh


16

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
vượt quá giá trị của tài sản bảo đảm. Phần chênh lệch chính là tổn thất mà ngân hàng
phải gánh chịu.
Giá trị TSBĐ của nợ quá hạn so với nợ quá hạn cũng phản ánh hiệu quả quản lý
TSBĐ. Nếu giá trị TSBĐ của nợ quá hạn thấp hơn so với nợ quá hạn, chứng tỏ trong
quá trình thẩm định tài sản, ngân hàng đã không thể xác định được giá trị hợp lý của
TSBĐ hoặc trong quá trình quản lý, ngân hàng đã không định kỳ đánh giá lại để lường
trước những rủi ro về giảm giá trị của TSBĐ. Điều này cũng có thể do việc thẩm định
chịu tác động của của nhiều yếu tố khiến cho việc đưa ra giá trị của TSBĐ không thể
nào hoàn toàn chính xác nhưng cũng một phần thể hiện được sự bất cấp trong hiệu quả
quản lý TSBĐ.
c. Chỉ tiêu về nợ ngoại bảng
Nợ ngoại bảng
Công thức:
─────────────────────────
Giá trị TSBĐ của khoản nợ ngoại bảng
Có rất nhiều cách thức xử lý một khoản nợ xấu phát sinh trong bảng cân đối kế
toán. Trong đó, ba cách phổ biến nhất là : (1) Bán tài sản bảo đảm hay kiện ra tòa xin
phá sản doanh nghiệp để tận thu, phần tổn thất sẽ dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý;
(2) Bán khoản nợ này cho các công ty xử lý nợ, phần tổn thất cũng dùng quỹ dự phòng
rủi ro để xử lý; (3) Dùng quỹ dự phòng rủi ro chuyển toàn bộ khoản nợ ra ngoài bảng
để theo dõi. Với hai cách đầu, nợ xấu được xử lý một cách triệt để, các ngân hàng
không phải bận tâm tới chúng nữa. Tuy nhiên, cách thứ ba mới là cách thường được
các ngân hàng áp dụng.
Khi khoản nợ được xếp vào nợ xấu, tùy từng trường hợp mà ngân hàng sẽ sử

dụng quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng mình để chuyển khoản nợ đó hạch toán ra
ngoại bảng để theo dõi và xử lý sau. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả quản lý tài sản bảo
đảm, chỉ tiêu nợ ngoại bảng/ giá trị TSBĐ cũng là chỉ tiêu quan trọng cần theo dõi.
Trong những món nợ được theo dõi ngoại bảng, chúng ta cần chú ý đến những món nợ
có tài sản bảo đảm và phải đánh giá xem liệu giá trị của tài sản đó có đủ lớn để ngân
hàng có thể thu hồi được gốc và lãi hay không. Nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn giá
trị khoản nợ được hạch toán ngoại bảng thì ngân hàng có thể xử lý tài sản bảo đảm đó
để thu hồi nợ. Ngược lại, nếu giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn giá trị khoản nợ ngoại
bảng, ngân hàng sẽ gặp rủi ro tín dụng rất lớn vì dù có bán tài sản bảo đảm đó đi thì số
tiền thu hồi về cũng không thể trang trải hết nợ gốc, lãi và các chi phí phát sinh khác.
d. Chỉ tiêu về giảm giá trị TSBĐ
Giảm giá trị TSBĐ

Lăng Thị Kiều Oanh

17

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
Công thức:

─────────────────────
Giá trị TSBĐ hiện hành
Một công việc rất quan trọng trong quá trình quản lý tài sản bảo đảm là định kỳ
đánh giá lại giá trị tài sản bảo đảm. Việc đánh giá lại sẽ giúp ngân hàng có thể lường
trước được những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình thu hồi nợ. Nếu tài sản bảo
đảm giảm giá, ngân hàng cần thông báo đến cho khách hàng được biết để có thể hoặc
yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản khác để đảm bảo đủ cho món vay, hoặc yêu

cầu khách hàng thanh toán trước hạn.
Khi đánh giá hiệu quả quản lý tài sản bảo đảm, các ngân hàng cần thiết phải
đánh giá được sự giảm giá tài sản bảo đảm so sánh với giá trị TSBĐ hiện hành. Nếu
giá trị TSBĐ giảm quá lớn, ngân hàng cần phải xem xét lại khâu thẩm định tài sản để
có thể dự báo được mức độ giảm giá để có thể đưa ra được giá trị hợp lý của tài sản
bảo đảm.
e.
Chỉ tiêu về giá trị TSBĐ không hợp pháp/hợp lệ, không xử lý được
Giá trị TSBĐ không hợp pháp/hợp lệ, không xử lý được
Công thức: ────────────────────────────────────
Giá trị món nợ
Theo quy định chung của Ngân hàng Nhà nước cũng như những quyết định cụ
thể của từng ngân hàng, các ngân hàng chỉ được phép nhận những tài sản bảo đảm
được Nhà nước quy định. Tuy nhiên, có những trường hợp khi ngân hàng quyết định
cho khách hàng vay thì tại thời điểm đó, tài sản bảo đảm cho khoản vay đó vẫn đáp
ứng được các điều kiện để được xem là tài sản bảo đảm, nó không thuộc đối tượng bị
Nhà nước cấm giao dịch. Tuy nhiên, do thay đổi của những quy định pháp luật, đến
thời điểm xử lý món nợ thì những tài sản đó lại bị Nhà nước cấm giao dịch hoặc tài
sản đó không còn được giao dịch trên thị trường vì quá cũ thì khi đánh giá hiệu quả
quản lý tài sản, ngân hàng cũng cần phải theo dõi chỉ tiêu này. Nếu giá trị TSBĐ
không hợp pháp/hợp lệ, không xử lý được càng lớn thì sẽ thiệt hại cho ngân hàng càng
cao vì ngân hàng không thể bán chúng ra ngoài thị trường để thu hồi nợ được. Vì vậy,
các ngân hàng muốn đạt được hiệu quả quản lý tài sản bảo đảm cao thì cần phải hạn
chế được giá trị TSBĐ không hợp pháp/hợp lệ, không xử lý được đến mức tối đa. Để
thực hiện được điều này, ngân hàng cần phải coi trọng khâu thẩm định tài sản bảo
đảm. Việc thẩm định tài sản không chỉ đơn giản là đưa ra giá trị của tài sản đó, mà còn
cần chú trọng đến thẩm định rủi ro của tài sản. Ngân hàng cần đánh giá được rủi ro về
hồ sơ pháp lý, rủi ro do sự thay đổi của chính sách của Nhà nước.
f. Chỉ tiêu về giá trị tổn thất ròng


Lăng Thị Kiều Oanh

18

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp

Công thức:
Giá trị tổn thất ròng = Giá trị phát mại – Giá trị món nợ
Khi ngân hàng tiến hành xử lý nợ bằng cách phát mại tài sản bảo đảm, ngân
hàng phải tính đển giá trị tổn thất ròng. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn không, ngân hàng
không phải chịu tổn thất do số tiền thu hồi được từ việc bán tài sản bảo đảm đủ để
trang trải cho món nợ và các chi phí phát sinh khác. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này nhỏ
hơn không, ngân hàng sẽ phải trích dự phòng rủi ro để bù đắp cho khoản tổn thất từ
việc phát mại tài sản.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý TSBĐ
1.3.3.1.
Các nhân tố thuộc về ngân hàng

Chất lượng của cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định của ngân hàng
Con người luôn là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động, là yếu tố quyết định
sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng như hiệu quả
của công tác bảo đảm tiền vay. Nhân tố con người trong ngân hàng chính là các cán bộ
ngân hàng mà tiêu biểu là cán bộ tín dụng, là những người trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng vay vốn, là người thay mặt ngân hàng thẩm định đánh giá khách hàng để đưa ra
các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và quản lý TSBĐ nói riêng phù hợp với
từng đối tượng khách hàng sau khi đã có sự điều tra, thẩm định về khách hàng. Trình
độ của các bộ tín dụng, cán bộ thẩm định là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn

đến việc cho vay có đạt hiệu quả hay không. Một ngân hàng mà có đội ngũ cán bộ giỏi
chuyên môn, có kiến thức và kinh nghiệm, am hiểu pháp luật thì sẽ có khả năng phân
tích khách hàng một cách chính xác hơn. Trong trường hợp cho vay có bảo đảm bằng
tài sản, việc đánh giá chính xác được giá trị tài sản bảo đảm, xác định được tài sản là
có thực hay không, khách hàng vay có gian lận trong tài sản bảo đảm hay không là
một vấn đề hết sức khó khăn đòi hòi phải có đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên môn giỏi.
Tuy nhiên một đội ngũ cán độ giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm chưa phải là đủ mà
bên cạnh đó cần phải có đạo đức nghề nghiệp. Như Bác hồ đã nói “ có tài mà không có
đức là người vô dụng”, trong hoạt động ngân hàng cũng vậy, tất cả mọi việc đều do
con người quyết định, nếu như những người làm tín dụng, thẩm định không có đạo
đức nghề nghiệp, cấu kết với khách hàng thì rất dễ dẫn đến việc ra quyết định sai trái.
Đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền nên rất dễ làm những người thường xuyên
trực tiếp làm việc với nó có những động cơ xấu, họ có thể móc nối với khách hàng để
lừa đảo rút tiền ngân hàng, Trong thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp như vậy. Các cán
bộ cố tình đánh giá sai giá trị tài sản bảo đảm để đưa ra mức cho vay cao hơn giá trị
thật của nó, do đó gây ảnh hưởng rất lớn đến việc xử lý tài sản bảo đảm sau này khi
mà khách hàng vay không có khả năng trả nợ. Vì vậy, các ngân hàng cần phải đào tạo

Lăng Thị Kiều Oanh

19

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp
một đội ngũ cán bộ đặc biệt là cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định, những người trực
tiếp ra quyết định, không những phải có chuyên môn sâu mà còn phải đáp ứng cả đạo
đức nghề nghiệp nữa để có thể đưa ra những quyết định mang lại hiệu quả kinh tế cao
đối với ngân hàng.

 Chất lượng công tác thẩm định tài sản bảo đảm
Mục đích của công tác này nằm giúp ngân hàng biết được hiệu quả kinh tế, giá
trị của tài sản bảo đảm và những rủi ro có thể xảy ra để đưa ra quyết định cho vay phù
hợp. Chất lượng của công tác thẩm định quyết định hiệu quả của công tác quản lý
TSBĐ. Nếu chất lượng của công tác thẩm định tốt, ngân hàng sẽ tiến hành phân tích
đánh giá chính xác giá trị của tài sản bảo đảm để từ đó có quyết định đúng đắn đảm
bảo khả năng thu hồi được vốn và lãi.
Chất lượng của công tác thẩm định tải sản bảo đảm phụ thuộc vào các nhân tố:

Trình độ chuyên môn của các cán bộ thẩm định: Như đã được trình bày
ở trên, trình độ của cán bộ thẩm định là một yếu tốc rất quan trọng. Để thẩm định tốt
tài sản bảo đảm đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn vững vàng
không chỉ trong lĩnh vực tài chính, tín dụng ngân hàng mà còn trong các lĩnh vực khác
như kỹ thuật, công nghệ, xây dựng….

Quy trình thẩm định: quy trình thẩm định là rất quan trọng, nó giúp ngân
hàng thấy được điểm mạnh, điểm yếu của khách hàng để từ đó giúp ngân hàng có
được quyết định đầu tư đúng đắn. Ngân hàng khi quyết định cho vay đều phải xem xét
tình hình thẩm định như thế nào mà đưa ra các hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài
sản hay không. Đối với những khoản vay cần có tài sản bảo đảm thì quy trình thẩm
định tài sản cũng đòi hỏi ngân hàng phải có những đánh giá đúng về giá thị trường của
tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả quản lý tài sản bảo đảm cần phải có những
thông tin về tài sản bảo đảm một cách đầy đủ, khách quan và chính xác. Nếu những
thông tin thu thập được về khách hàng có độ tin cậy và chính xác cao thì việc ngân
hàng ra quyết đinh cho vay là an toàn hơn. Do vậy, thu thập thông tin và xử lý thông
tin về tài sản bảo đảm của khách hàng là một yếu tố rất cần thiết đối với ngân hàng.
Trên thực tế có rất nhiều loại tài sản bảo đảm mà có những loại cán bộ thẩm định của
ngân hàng chưa chắc đã am hiểu. Do đó, việc thu thập thông tin về tài sản có thể sẽ
gặp khó khăn, ngân hàng sẽ không có thông tin chính xác về tài sản bảo đảm, về giá trị

thị trường của tài sản bảo đảm. Vì vậy, khi thẩm định tài sản thuộc lĩnh vực chuyên
môn nào thì ngân hàng nên thuê các chuyên gia về vấn đề đó để có thể đánh giá được
hiệu quả cao nhất, giúp cho ngân hàng có quyết định cho vay hợp lý.
1.3.3.2. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng

Lăng Thị Kiều Oanh

20

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


Chuyên đề tốt nghiệp


Tính trung thưc, chính xác của những thông tin về tài sản bảo đảm mà

khách hàng cung cấp cho ngân hàng:
Tính trung thực, tư cách đạo đức của khách hàng vay cũng có tác động đến hiệu
quả hoạt động quản lý TSBĐ. Trong nhiều trường hợp, khách hàng vay vốn đã có sự
thiếu trung thực trong các báo cáo, các chứng từ và tài liệu liên quan đến mục đích vay
vốn và sử dụng vốn như thế nào hoặc khách hàng sẽ cung cấp cho ngân hàng những
hồ sơ không chính xác về tài sản bảo đảm. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng
trong đưa ra những quyết định đúng đắn về việc cho vay dựa trên tài sản bảo đảm. Từ
đó, ngân hàng sẽ gặp rủi ro rất lớn nếu cho khách hàng vay mà tài sản bảo đảm của họ
có vấn đề như tài sản đang có tranh chấp, giá trị tài sản không đúng như trong hợp
đồng, hóa đơn mua bán…Những thông tin về khách hàng đề chủ yếu dựa trên sự cung
cấp của khách hàng. Do đó, nếu các khách hàng cố tình lừa đảo, cung cấp các thông
tin không đúng sự thật thì khả năng ngân hàng gặp phải rủi ro là rất cao và làm cho
vấn đề cho vay có bảo đảm bằng tài sản trở nên không còn ý nghĩa. Để đạt được hiệu

quả của công tác quản lý TSBĐ thì ngân hàng phải lựa chọn để tìm được những khách
hàng có tư cách đạo đức, có đủ năng lực tài chính, có uy tín, có hoạt động sản xuất
kinh doanh đạt kết quả cao.
Vì vậy, song song với khâu thẩm định tài sản, ngân hàng còn phải thực hiện tốt
khâu thẩm định khách hàng, nhằm đảm bảo tính trung trực và chính xác của những
thông tin mà khách hàng cung cấp về tài sản bảo đảm cho ngân hàng để từ đó có thể
đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn, những biện pháp kịp thời, điều này làm hiệu
quả của hoạt động quản lý TSBĐ được nâng cao.

Văn bản pháp lý liên quan đến tài sản bảo đảm
Mỗi quốc gia đều có các văn bản pháp luật do Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
và các Bộ, Ngành có liên quan ban hành ra nhằm hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại
trong việc thực hiện hoạt động bảo đảm tiền vay nói chung và quản lý tài sản bảo đảm
nói riêng. Các chính sách về tài sản bảo đảm áp dụng cho mỗi nước tùy thuộc vào tình
hình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà các văn bản quy định được ban hành ra
là nới lỏng hay thắt chặt. Các hệ thống văn bản pháp luật về quản lý TSBĐ có sự
thống nhất, hoàn thiện và chặt chẽ sẽ là hành lang pháp lý giúp các ngân hàng ngân
hàng thương mại thực hiện vấn đề an toàn trong cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên,
trong thực tế thì quá trình thực hiện hoạt động quản lý TSBĐ thì ngân hàng đã gặp
phải những vướng mắc do các văn bản quy định đang có sự chồng chéo nhau, không
phù hợp với thực tế. Do đó, đã có những trường hợp khách hàng lợi dụng các kẽ hở
pháp luật để lừa đảo ngân hàng. Vì vậy, để giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong việc ra

Lăng Thị Kiều Oanh

21

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48



Chuyên đề tốt nghiệp
quyết định cho vay, giảm bớt thời gian thẩm định thì Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
và các Bộ, Ngành có liên quan cần phải có chính sách, chủ trương chỉnh sửa các văn
bản theo hướng ngày càng hoàn thiện, giảm bớt các áp lực và tại sự đồng thuận cho
hoạt động quản lý tài sản bảo đảm của các ngân.

Những nhân tố bất khả kháng
Những nhân tố như thiên tai, chiến tranh , hỏa hoạn, dịch bệnh là những nhân tố
bất khả kháng mà khách hàng nào cũng phải đối mặt, nó có thể tạo thuận lợi hay gây
khó khăn cho khách hàng. Các nhân tố này được gọi là bất khả kháng vì chúng thường
vượt quá tầm kiểm soát của cả ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, sự tác động của
những nhân tố này tới người vay thường là rất nặng nề, họ thường bị tổn thất lớn, khả
năng trả nợ của ngân hàng bị giảm sút, thậm chí không còn khả năng trả nợ. Những
nhân tố này cũng tác động rất lớn làm giảm giá trị của tài sản bảo đảm khiến cho ngân
hàng gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý chúng nếu khách hàng không có khả năng
trả nợ.

Lăng Thị Kiều Oanh

22

Lớp: TCDN tiếng Pháp K48


×