Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Chức Năng Kiểm Toán Với Trách Nhiệm Của Kiểm Toán Viên Về Chất Lượng Báo Cáo Tài Chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.71 KB, 38 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................3
PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN............................................................................1
1.1. Chức năng kiểm toán..................................................................................1
1.1.1 Chức năng xác minh.................................................................................1
1.1.1.1 Cơ sở công nghệ thông tin kế toán với việc xác định mục tiêu kiểm toán....2
1.1.1.2 Xác nhận (giải trình) của nhà quản lý (giám đốc).................................7
1.1.1.3 Mục tiêu kiểm toán chung:.................................................................11
1.1.1.4 Mục tiêu kiểm toán đặc thù:...............................................................14
1.1.2 Chức năng bày tỏ ý kiến........................................................................17
1.2 Trách nhiệm của kiểm toán viên về chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính....18
1.2.1 Trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp.........................................................18
1.2.2 Trách nhiệm đối với báo cáo tài chính...................................................20
1.2.3 Trách nhiệm pháp lý...............................................................................20
1.3. Mối quan hệ giữa chức năng kiểm toán với chất lượng báo cáo tài chính.......21
1.3.1 Những yếu tố quyết định chất lượng báo cáo tài chính..........................21
1.3.1.1 Các sai phạm thuộc về khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng kiểm
toán BCTC ......................................................................................................23
1.3.1.2 Những sai phạm ở đơn vị làm ảnh hưởng tới chất lượng của BCTC.............25
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN VỀ CHẤT LƯỢNG
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH HIỆN NAY Ở NƯỚC TA...........27
2.1 Thực trạng.................................................................................................27
2.2 Nguyên nhân của thực trạng......................................................................28
2.3 Liên hệ chất lượng công tác quản lý chất lượng kiểm toán báo cáo tài
chính ở Thái Lan.............................................................................................29


PHẦN III: NHẬN XÉT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÁCH
NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN..............................................................31
3.1 Giải pháp tổ chức đào tạo..........................................................................31


3.2 Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật................................................................32
3.3 Mở rộng diện kiểm toán bắt buộc và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. 33
3.4 Định hướng phát triển các năm tới...........................................................33
KẾT LUẬN....................................................................................................35


LỜI MỞ ĐẦU
Cũng như mọi hoạt động có ý thức khác của con người, đặc biệt với
tinh chất của một hoạt động chuyên sâu cao về nghề nghiệp, kiển toán cũng
có chức năng hoạt động của riêng mình nhằm tăng cường công tác kiểm tra,
kiểm soát và giám sát quá trình sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính
của doanh nghiệp được thể hiện trên các báo cáo tài chính(BCTC). Vì vậy,
chất lượng kiểm toán BCTC không những là thước đo về tính hiệu quả của
hoạt động kiểm toán mà chất lượng BCTC còn dược thể hiện bằng việc đưa ra
lời nhận xét đúng đắn về tính trung thực hợp lý và hợp pháp các thông tin
được kiểm toám trên BCTC nhằm phục vụ cho công tác quản lý và điều hành
ngân sách Nhà nước của các cấp chính quyền, các hoạt động quản trị doanh
nghiệp, đối với các nhà quản lý, các hoạt động đầu tư tài chính và các quan hệ
giao dịch khác.Như vậy chất lượng BCTC có vai trò quan trọng trong việc
đưa ra các quyết định trong quản lý kinh tế, nếu kết quả kiểm toán đưa ra
những nhận xét không phù hợp về các thông tin dược kiểm toám trên BCTC
sẽ dẫn rới những hậu quả khó lường trong hoạt động kinh tế, tài chính đặc biệt
trong thời gian vừa qua nhất là trên các phương tiện thông tin đại chúng đề
cập tới các vụ đổ bể của không ít doanh nghiệp (kể cả một số doanh nghiệp
Nhà nước) dẫn tới tình trạng không bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh, thất
thoát nghiêm trọng về tài chính cà tài sản, hàng năm lao động bị mất việc làm
hoặc việc làm không ổn định gây nên những xáo động dư luận xã hội.Không
ít những bài báo thực hiện“ đòi hỏi“ công ty kiểm toán có trách nhiệm như thế
nào đối với kiển toán chất lượng BCTC . Vì vậy trách nhiệm của kiểm toán
viên (KTV) có vị trí rất quan trọng trong chất lượng BCTC và đòi hỏi phải

nắm vữg chức năng hoạt động nghề nghiệp của mình. với tính chất như vậy
em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài“Chức Năng Kiểm Toán Với Trách Nhiệm
Của Kiểm Toán Viên Về Chất Lượng Báo Cáo Tài Chính”


PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Chức năng kiểm toán
Hoạt động kiểm toán thực hiện hai chức năng xác minh và bày tỏ ý
kiến về đối tượng kiểm toán. Đối tượng kiểm toán nói chung và đối tượng
kiểm toán nói riêng luôn chứa đựng nhiều mối quan hệ về kinh tế, về pháp lý
phong phú và đa dạng. Do đó chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến cần được
xác định thật khoa học. Hơn nữa trong kiểm toán tài chính ý kiến hay kết luận
kiểm toán không phục vụ cho người lập hay người xác minh mà phục vụ cho
người quan tâm đến tính trung thực và hợp pháp của BCTC. Do đó kết luận
này phải dựa trên bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực với chi phí kiểm toán
thấp nhất. Do vậy việc xác định mục tiêu kiểm toán khoa học trên cơ sở các
mối quan hệ vốn có của khách thể kiểm toán sẽ giúp KTV thực hiện đúng
hướng và có hiệu quả hoạt động kiểm toán. Đặc điểm cơ bản trong triển khai
chức năng chung của kiểm toán trong kiểm toán BCTC là thu nhập bằng
chứng từ (hay xác minh), để hiểu rõ hơn chức năng này chúng ta đi tìm hiểu:
1.1.1 Chức năng xác minh.
Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu,
tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các BCTC. Xác
minh là chức năng cơ bản gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt
động kiểm toán. Bản thân chức năng nμy không ngừng phát triển và được thể
hiện khác nhau tuỳ từng đối tượng cụ thể của kiểm toán là BCTC hay nghiệp
vụ kinh tế cụ thể hoặc toàn bộ tài liệu kế toán. Đối với các BCTC việc thực
hiện chức năng xác minh này trước hết được thể hiện ở sự xác nhận của người
kiểm tra độc lập ở bên ngoài. Ngay từ thời Trung cổ những KTV độc lập mà
Edword Đệ nhất và các nam tước tuyển dụng cũng chỉ ghi một chữ " chứng

thực " trên BCTC. Cho đến ngày nay, do quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp
và yêu cầu pháp lý ngày càng cao nên việc xác minh các BCTC được cụ thể
hoá thành các mục tiêu. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 - khoản
1


11 quy định "mục tiêu của kiểm toán BCTC là giúp cho KTV và công ty kiểm
toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở các chuẩn mực
và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chứng nhận có tuân thủ pháp luật liên
quan và có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên các khía
cạnh trọng yếu hay không?
Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho các đơn vị được kiểm toán
thấy rõ những tồn tại sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin
tài chính của đơn vị. Trong đó các khái niệm trung thực, hợp lý, hợp pháp
được hiểu:
- Trung thực là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự
thật nội dung, bản chất và giá trị của NVKTPS.
- Hợp pháp là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng pháp
luật, đúng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận).
- Hợp lý là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực
cần thiết và phù hợp về không gian thời gian và sự kiện được nhiều người
thừa nhận.
Để đạt được mục tiêu tổng quát nói trên cần cụ thể hoá hơn nữa cơ sở
để thu nhập thông tin cấu thành và tiến trình thực hiện các yêu cầu trung thực,
hợp lý, hợp pháp trong chức năng xác minh, cơ sở để thu nhập thông tin xuất
phát từ đặc điểm đối tượng kiểm toán tài chính. Có thể thấy đặc điểm nổi bật
là BCTC được hình thành qua công nghệ xử lý thông tin kế toán.
1.1.1.1 Cơ sở công nghệ thông tin kế toán với việc xác định mục
tiêu kiểm toán
Trong quá trình xử lý thông tin kế toán các phương pháp kĩ thuật riêng

có của kế toán như chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản và tổng hợp – cân đối
kế toán kết hợp chặt chẽ và tạo thành quy trình có tính liên hoàn để tạo ra sản
phẩm cuối cùng là BCTC. Do vậy tính trung thực và hợp lý của BCTC với ý
nghĩa là mục tiêu chung phải được xác định cụ thể từ chính các yếu tố đó đã
được thể chế qua các văn bản pháp lý cụ thể.
2


Để có cơ sở và xác định các mục tiêu này cần xem xét chức năng hình
thức của mỗi phương kế toán và yêu cầu quản lý vốn và tài sản từ mỗi
phương pháp kế toán.
Đầu tiên, chứng từ kế toán là phương pháp thông tin và minh chứng về
sự hình thành của các nghiệp vụ kinh tế tài chính. Để thực hiện được những
chức năng này đòi hỏi mỗi bản chứng từ phải được ghi chép đúng về số
lượng, đơn giá và tính toán chính xác thành tiền qua các phép toán số học.
Đồng thời, mỗi bản chứng từ cần tạo ra mối liên kết có tính liên hoàn với các
sổ tổng hợp (qua định khoản kế toán) và các sổ chi tiết thông qua việc xác
định và ghi đủ các yếu tố giúp cho việc phân loại chi tiết các nghiệp vụ phát
sinh. Về mặt pháp lý bước công nghệ chứng từ còn đòi hỏi tuân thủ các thủ
tục về chứng từ
kể cả việc xác định và ghi chép qua kiểm soát và xét duyệt đến luân
chuyển và lưu trữ chứng từ.
Thứ hai, tính giá là phương pháp biểu hiện giá trị của các loại tài sản,
dịch vụ khác nhau thành thước đo chung (tiền tệ) để tổng hợp chúng theo đơn
vị đo lường thống nhất. Trong kế toán, giá của tài sản, dịch vụ là giá trị thực
mà đơn vị kế toán (tổ chức kinh tế và cơ quan) bỏ tiền ra mua (giá trị thực tế).
Do đó tính giá phải tôn trọng một trong những nguyên tắc cơ bản của kế toán
là nguyên tắc "hoạt động liên tục". Đồng thời để tính giá từng loại tài sản đòi
hỏi phải phân loại đúng đối tượng tính giá (đặc biệt là loại dịch vụ, sản phẩm
để tính giá) theo yêu cầu quản lý và đặc điểm của đơn vị kế toán để mở sổ chi

tiết thích hợp.
Thứ ba, đối ứng tài sản là phương pháp phân loại tài sản và (nguồn)
vốn để phản ánh sự vận động từng loại tài sản, từng loại nguồn vốn theo quan
hệ đối ứng "nợ - có" . Dựa vào thông lệ chung của kế toán quốc tế và đặc
điểm cùng yêu cầu quản lý của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ cụ thể người ta
xây dựng những văn bản pháp lý quy định hệ thống tài khoản cụ thể cùng các
3


quan hệ đối ứng của các nghiệp vụ cơ bản tạo ra "công nghệ chuẩn " cho việc
phân loại và phản ánh các nghiệp vụ trong quá trình hoạt động của từng loại
đơn vị kết toán (loại doanh nghiệp hoặc đơn vị công cộng) theo từng hình
thức kế toán (loại sổ tổng hợp cùng liên kết giữa sổ tổng hợp với chứng từ, sổ
chi tiết với BCTC). Do vậy, trước hết các đơn vị kế toán phải phân loại và
phản ánh đúng các quan hệ đối ứng đã được quy định. Tuy nhiên, dù cụ thể
đến thế nào, các văn bản pháp lý cũng không thể dự kiến hết các nghiệp vụ cụ
thể phát sinh cần phân loại cùng các quan hệ đối ứng thích hợp. Do vậy đơn
vị kế toán cơ sở phải dựa vào bản chất và các quan hệ vốn có của các nghiệp
vụ để phân loại và định khoản đúng các nghiệp vụ phát sinh để ghi sổ. Đồng
thời với các việc ghi chép, phải thực hiện việc xét soát lại các nghiệp vụ để
đảm bảo đúng đắn (không khai khống) và đầy đủ (không bỏ sót). Trên cơ sở
đó, cuối kỳ kế toán cần cộng số phát sinh và tính ra số dư chính xác để kết
chuyển vào các BCTC cùng các bảng tổng hợp khác.
Tổng hợp – cân đối kế toán là phương pháp khái quát các quan hệ kinh
tế tài chính theo mối quan hệ vốn có thành bảng tổng hợp – cân đối với những
chỉ tiêu (khoản mục) được phân loại nhất quán với loại tài khoản và thống
nhất về pháp lý trên những nguyên tắc cơ bản. Để có BCTC trung thực, hợp
lý và hợp pháp, trước hết các bảng tổng hợp phải phù hợp về nội dung và số
tiền trên từng khoản mục về hệ thống tài khoản
(tổng hợp và chi tiết) cụ thể số tiền phản ánh trên các tài khoản phải

được chuyển vào bảng tổng hợp vừa đầy đủ về cơ cấu (trọn vẹn) vừa đúng với
thực tế phát sinh của nghiệp vụ và tồn tại của tài sản (hiệu lực). Tiếp đó, mỗi
bảng tổng hợp phải thực hiện sự cân đối vốn có giữa các mặt của các mối
quan hệ kinh tế trong bảng : cân đối giữa vốn và tài sản, cân đối giữa số dư
đầu kỳ và số phát sinh tăng với số phát sinh giảm và số dư cuối kỳ ; cân đối
giữa thu với chi và thu nhập. Đặc biệt, trong bảng cân đối tài sản còn phải
phân định giữa quyền sở hữu tài sản với quyền sử dụng tạm thời đối với tài
4


sản, giữa nghĩa vụ và pháp lý về vốn với các nghĩa vụ hợp đồng ngắn hạn,
tạm thời về vốn.
Các bước trên được thực hiện trong quan hệ liên hoàn, kế tiếp nhau để
hình thành BCTC với những khoản mục cụ thể. Mỗi khoản mục lại chứa đựng
cả mặt định lượng (số tiền), và mặt định tính (nội dung kinh tế) và được thể
chế hoá trên những văn bản pháp lý cụ thể.
Mục tiêu xác minh tính trung thực, hợp lý và hợp pháp của BCTC cần
được cụ thể hoá theo các yếu tố của hệ thống kế toán (phương pháp kế toán)
trong quan hệ trực tiếp với việc hình thành các bảng này. Theo đó mục tiêu
xác minh cần phải hướng tới là:
Tính có thực của các thông tin với ý nghĩa các thông tin phản ánh tài
sản hoặc vốn phải được đảm bảo bằng sự tồn tại của tài sản, vốn hoặc tính
thực tế xảy ra của các nghiệp vụ.
Tính trọn vẹn của thông tin với ý nghĩa thông tin phản ánh trên bảng
khai tài chính không bị sót trong quá trình xử lý.
Tính đúng đắn của việc tính giá với ý nghĩa giá tài sản cũng như giá phí
(giá thành) đều được hình thành theo phương pháp kế toán là giá thực tế đơn
vị phải chi để mua hoặc thực hiện các hoạt động.
Tính chính xác về cơ học trong các phép tính số học cộng dồn cũng như
khi chuyển số, sang trang trong công nghệ kế toán.

Tính đúng đắn trong phân loại và trình bày với ý nghĩa tuân thủ các quy
định cụ thể trong phân loại tài sản và vốn cũng như các quá trình kinh doanh
qua hệ thống tài khoản tổng hợp và chi tiết cùng việc phản ánh các quan hệ
đối ứng để có thông tin hình thành BCTC. Những trường hợp đặc thù cần
được giải trình rõ rang.
Tính đúng đắn trong việc phản ánh quyền và nghĩa vụ của đơn vị kế
toán trên BCTC với ý nghĩa tài sản phản ánh trên báo cáo phải thuộc quyền sở
hữu (hoặc sử dụng lâu dài) của đơn vị, còn vốn và công nợ phản ánh đúng
nghĩa vụ của đơn vị này.
5


Những hướng xác minh kể trên được dùng cho mọi khoản mục mọi
thành phần(gọi chung là phần hợp thành) kiểm toán như một "khung" chung
nên được gọi là mục tiêu chung. Khi áp dụng vào từng phần hợp thành kiểm
toán, cần xuất phát từ đặc điểm riêng của từng phần hợp thành để xây dựng
"khung" cụ thể hơn cho từng phần và gọi là mục tiêu đặc thù. Đây là một
trong những nội dung chính trong kiểm toán. Ở đây, cần đặc biệt quan tâm
đến quan hệ giữa mục tiêu hợp lý chung của toàn bộ BCTC với các mục tiêu
chung của kiểm toán cho mọi phần hành mà cả các nhà quản lý và KTV phải
cam kết và quán triệt.
Cũng như các tài liệu kế toán khác, các bảng tổng hợp kế toán được
hình thành từ những người làm công tác kế toán và quản lý ở đơn vị được
kiểm toán(khách thể kiểm toán) và được gọi chung là nhà quản lý. Trong một
tổ chức hoặc cơ quan, người đại diện hợp pháp cao nhất là thủ trưởng (giám
đốc, Tổng giám đốc các doanh nghiệp và thủ trưởng các tổ chức, cơ quan
khác). Theo tính phổ biến của pháp lý, thủ trưởng đơn vị phải chịu trách
nhiệm về mọi hoạt động trong đơn vị, trong đó có cả trách nhiệm về quá trình
hình thành các BCTC. Quá trình hình thành tài liệu này bao gồm cả các công
việc lập, kiểm tra, kiểm soát theo yêu cầu về pháp lý với từng tài liệu cụ thể

và thuộc trách nhiệm của nhà quản lý. KTV thực hiện chức năng xác minh và
bày tỏ ý kiến các đối tượng này. Tất nhiên, kiểm toán tài chính không phải là
quá trình xét duyệt lại các nghiệp vụ theo phương pháp kế toán và kiểm tra
của các nhà quản lý mà bằng phương pháp chuyên môn của kiểm toán với
trách nhiệm riêng của KTV để thu được những sản phẩm riêng theo chuẩn
mực của kiểm toán. Tuy nhiên,giữa quá trình hình thành các thông tin và quá
trình kiểm toán các thông tin đó đều có đối tượng chung và có phần mục đích
chung và phục vụ yêu cầu của những người quan tâm. Do vậy các mục tiêu
kiểm toán cần được xác định trong quan hệ trong quan hệ về trách nhiệm giữa
nhà quản lý và KTV.Trong quan hệ này nhà quản lý trước hết là thủ trưởng
6


đơn vị kiểm toán phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, hợp lý, hợp pháp
của các thông tin. Trong quản lý hiện đại, trách nhiệm này được chuẩn hoá
trong các văn bản pháp lý, trong đó quy định nhà quản lý phải lập các giải
trình hoặc xác nhận hay cam đoan về độ tin cậy của các thông tin và tính tuân
thủ các chuẩn mực trong việc lập và trình bày các BCTC. Trên cơ sở đó KTV
xác minh lại các thông tin trên từng phần hoặc khoản mục cũng như trên toàn
bộ BCTC
1.1.1.2 Xác nhận (giải trình) của nhà quản lý (giám đốc)
Những xác nhận của nhà quản lý trực tiếp liên quan với các nguyên tắc
kế toán đã được thừa nhận. Những xác nhận là bộ phận của tiêu chuẩn mà ban
giám đốc dùng để ghi sổ và tiết lộ các thông tin kế toán trên các BCTC. Mặt
khác, theo nguyên lý chung về phân định chức năng quản lý, nhà quản lý với
đại diện cao nhất là giám đốc hay thủ trưởng đơn vị được kiểm toán (khách
thể kiểm toán) phải chịu trách nhiệm về độ tin cậy hợp lý về các thông tin trên
BCTC thông qua việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung về hệ
thống kế toán nói riêng đủ mạnh: KTV có chức năng đưa ra ý kiến xác minh
về sự tin cậy, hợp lý của các thông tin trên BCTC với những bằng chứng

thuyết phục. Trong quản lý hiện đại, các nguyên lý được thể chế hoá thành
các văn bản pháp lý cụ thể trong đó có hệ thống chuẩn mực kiểm toán. Chuẩn
mực quốc tế và chuẩn mực riêng của từng quốc gia trong hiệp hội kế toán
quốc tế đều có những chuẩn mực quy định rõ ràng trách nhiệm của nhà quản
lý và của KTV về độ tin cậy, hợp lý của các BCTC. Trong quan hệ đó nhà
quản lý cần cam kết trách nhiệm quản lý của mình trong việc trình bày các
thông tin tài chính cần được kiểm toán. Về nội dung thì các thông tin này rất
đa dạng nhưng có ba loại chính sau đây:
1. Những cam kết chung về trách nhiệm của nhà quản lý trong việc
trình bày đúng các BCTC. Thuộc loại này có cam kết hoặc giải trình về tính
độc lập khách quan và trung thực của những nhà quản lý cấp cao và những
7


người có liên quan trực tiếp đến việc hình thành các thông tin tài chính, cam
kết và giải trình về hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung và hệ
thống kế toán nói riêng trong quan hệ với tính trọng yếu của thông tin trong
BCTC.
2. Những cam kết về từng mặt, từng yếu tố cấu thành sự trung thực và
hợp lý. Các yếu tố cụ thể cần xét trong quan hệ trách nhiệm của nhà quản lý
trong tổ chức và thực hiện công nghệ kế toán trong quan hệ với kiểm soát nội
bộ. Trong quan hệ với công nghệ xử lý thông tin kế toán, mỗi số dư hoặc số
phát sinh ghi trên mỗi khoản mục của BCTC đều phải qua các bước công
nghệ từ chứng từ kế toán đến các bảng tổng hợp – cân đối kế toán. Các thao
tác cụ thể trong mỗi bước công nghệ này cũng được thể chế hoá trong các văn
bản pháp lý về kế toán đòi hỏi nhà quản lý phải tuân thủ theo một quy định
công nghệ nào đó, mỗi con số trên các BCTC trong hệ thống bảng tổng hợp –
cân đối đều phải lường tới các mục tiêu chung: có thực, trọn vẹn, chính xác cơ
học, phản ánh đúng quyền và nghĩa vụ, loại và giá cả tài sản, của vốn và
nghiệp vụ theo đúng quy định trong văn bản pháp lý đang có hiệu lực. Vì vậy

trong quan hệ với trách nhiệm về sự trung thực hợp lý chung với các BCTC,
nhà quản lý cũng phải chịu trách nhiệm ngay từ các yếu tố cụ thể nói trên của
đòi hỏi trung thực hợp lý. Chuẩn mực kiểm toán của Mỹ đã phân chia năm
loại xác nhận của nhà quản lý chung cho các bộ phận hợp thành của BCTC:
Thứ nhất: Xác nhận về sự tồn tại hoặc phát sinh: là sự cam kết về tính
có thực của các con số trên BCTC: các số dư trên bảng cân đối tài sản chẳng
hạn, nhà quản lý xác nhận mọi số dư về tài sản, về vốn đều tồn tại thực tế vào
ngày lập bảng; với các phát sinh (trong báo cáo kết quả kinh doanh) nhà quản
lý phải cam kết là thực tế đã xảy ra trong kỳ kế toán. Xác nhận này nhằm
tránh tình trạng khai không đúng hoặc khai không các khoản tiền không có
thực vào BCTC.

8


Thứ hai: Xác nhận về sự trọn vẹn: Là sự cam kết đã bao hàm trong các
BCTC tất cả các nghiệp vụ, các số dư cần và có thể trình bày trong bảng
tương ứng. Xác nhận về sự trọn vẹn có quan hệ ngược với xác nhận về sự tồn
tại hoặc phát sinh, xác nhân về sự trọn vẹn có quan hệ với khả năng bỏ sót
những nghiệp vụ đáng phải phản ánh trong các BCTC. Trái lại xác nhận về sự
tồn tại và phát sinh lại quan hệ với khả năng dôi ra của những khoản tiền đáng
ra không được ghi vào bảng này. Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, cả
hai mặt đối lập này được hợp nhất trong khái niệm "đúng đắn" được ghi trong
cam kết số 6 của chuẩn mực 580: "Các yếu tố sau đây được ghi nhận một
cách đúng đắn và trong trường hợp cần thiết các thông tin thích hợp đã được
nêu ra trong phần thuyết minhBCTC
-Số dư và nghiệp vụ được thực hiện với các bên có liên quan
-Thua lỗ từ các hợp đồng mua bán
-Thoả thuận và các khả năng mua lại tài sản đã được chuyển nhượng
trước đây

-Các tài sản được đem đi thế chấp"
Thứ ba: Xác nhận về quyền và nghĩa vụ: Là sự cam kết trong các
BCTC các tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của đơn vị và
công nợ thuộc nghĩa vụ thanh toán của đơn vị tại thời điểm lập bảng. Trong
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cam kết số 9 và 10 của chuẩn 580 nêu
rõ:"Công ty là chủ sở hữu tất cả các tài sản trên báo cáo tài chính và không có
bất kỳ tài sản nào bị cầm cố thế chấp hoặc bị cầm giữ, ngoại trừ những tài sản
được nêu trong phần thuyết minh X của báo cáo tài chính. Tất cả các khoản
nợ, cam kết vay và các khoản bảo lãnh của công ty với bên thứ ba đã được
công ty thanh toán và giải trình trong phần X " .(3, 580)
Thứ tư: Xác nhận về định giá và phân bổ: Giá trong kế toán được xác
định theo nguyên tắc "hoạt động liên tục" và do đó giá trong kế toán biểu hiện
giá tài sản do đơn vị thực tế bỏ tiền ra mua hoặc thực hiện dịch vụ. Vì vậy,
9


xác nhận về định giá là sự cam kết về sự thích hợp về giữa số tiền phản ánh
trên BCTC với số tiền đơn vị chi ra cho tài sản, vốn, cổ phần, thu nhập,và chi
phí ghi trên bảng từ đó các khoản tính vào thu nhập và phân phối cũng phản
ánh giá trị thực tế.
Thứ năm: Xác nhận về phân loại và trình bày là cam kết về sự phù hợp
giữa sự phân loại và trình bày các phần hợp thành của BCTC với những quy
định đang có hiệu lực về sự phân loại và thuyết trình các bộ phận này.
3. Những cam kết (giải trình) về mối quan hệ của nhà quản lý với KTV.
Tuỳ theo luật định và thực tiễn phát sinh cũng như nhu cầu giải quyết về mối
quan hệ giữa khách thể và chủ thể kiểm toán. Loại cam kết thứ ba này có thể
bao gồm các vấn đề về tính độc lập khách quan của giám đốc, của ban kiểm
toán nội bộ và KTV bên ngoài; về cách thức làm việc và phối hợp giữa ban
quản lý, bộ phận kiểm toán nội bộ với KTV bên ngoài.
Về hình thức, xác nhận hay giải trình của nhà quản lý có ý nghĩa khác

nhau trong quan hệ với bằng chứng kiểm toán cũng rất đa dạng. Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam số 580 khoản 13 xác định:
"Các giải trình bằng văn bản được đánh giá là các bằng chứng kiểm
toán có giá trị hơn các giải trình bằng lời nói. Các giải trình bằng văn bản
được thể hiện dưới các hình thức :
- bản giải trình của giám đốc
-Thư của KTV liệt kê ra tất cả những hiểu biết của mình về các giải
trình của giám đốc và được giám đốc xác nhận là đúng
-biên bản họp hội đồng quản trị hoặc báo cáo tài chính đã được giám
đốc ký.
Về cách thức sử dụng xác nhận hay giải trình, KTV phải thu nhập và
lưu vào hồ sơ kiểm toán để làm bằng chứng kiểm toán. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp các bằng chứng này không thể thay thế các bằng chứng khác như
hoá đơn, quyết toán, biên bản kiểm kê... Trong trường hợp nhà quản lý từ chối
10


cung cấp giải trình theo yêu cầu của KTV làm hạn chế phạm vi kiểm toán thì
KTV phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến từ chối.
Nếu cam kết của nhà quản lý phải hướng tới bước đòi hỏi của công
nghệ kế toán thì xác minh của KTV trước hết phải tập trung vào việc xem xét
độ tin cậy của các cam kết trên. Hơn nữa trách nhiệm chung của nhà quản lý,
và KTV là đảm bảo độ tin cậy cảu thông tin trong BCTC. Do vậy giữa xác
nhận của nhà quản lý và mục tiêu kiểm toán có quan hệ chặt chẽ với nhau về
cả nội dung và các yếu tố cấu thành độ trung thực hợp lý của BCTC. Do đó
trong hệ thống mục tiêu kiểm toán bao gồm các mục tiêu kiểm toán chung.
1.1.1.3 Mục tiêu kiểm toán chung:
Được chia làm hai loại : mục tiêu hợp lý chung và mục tiêu chung khác.
-Mục tiêu hợp lý chung:
Mục tiêu này bao hàm việc xem xét, đánh giá tổng thể số tiền ghi trên

khoản mục trên cơ sở cam kết chung về trách nhiệm của nhà quản lý và thông
tin thu được qua khảo sát thực tế ở khách thể kiểm toán trong quan hệ với
việc lựa chọn các mục tiêu khác. Do đó đánh giá sự hợp lý chung cũng hướng
tới khả năng sai sót cụ thể của các số tiền trên khoản mục. Trên cơ sở đó có
thể đánh giá khả năng đạt được của các mục tiêu khác. Nếu KTV không nhận
thấy mục tiêu hợp lý chung đã đạt được tất yếu phải dùng đến mục tiêu chung
khác. Từ đó KTV sẽ lập kế hoạch thu thập những bằng chứng chi tiết hơn trên
các khoản mục hay phần hành động cụ thể với những mục tiêu xác định. Việc
định vị các bộ phận cấu thành kèm theo định hướng mục tiêu tương ứng này
sẽ giúp ích rất lớn cho kiểm toán nâng cao hiệu suất hoạt động do có được kết
luận đúng đắn, trên cơ sở đó có bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực và chi phí
kiểm toán ít.
Đồng thời, mục tiêu hợp lý chung đòi hỏi sự nhạy bén, khả năng phán
đoán cùng tác phong sâu sát với thực tế ở đơn vị của KTV.
-Mục tiêu chung khác:
11


Những mục tiêu chung khác này được đặt ra tương ứng với cam kết của
nhà quản lý là hiệu lực, tính trọn vẹn, quyền và nghĩa vụ, chính xác cơ học,
phân loại và trình bày.
Mục tiêu hiệu lực là tính xác minh vào tính có thật của số tiền trên các
khoản mục. Có thể xem mục tiêu này là hướng tới tính đúng đắn về nội dung
kinh tế của khoản mục trong quan hệ với các nghiệp vụ, các bộ phận cấu
thành khoản mục đó. Từ đó số tiền ghi vào BCTC phải là những con số thực
tế, tức là những xác nhận này đề cập tới vấn đề tài sản, nợ và vốn cân đối
trong bảng cân đối tài sản có thực vào ngày lập bảng cân đối tài sản hay
không. Như vậy mục tiêu hiệu lực là hướng xác minh bổ sung vào cam kết về
sự tồn tại của nhà quản lý.
Mục tiêu trọn vẹn là hướng xác minh về sự đầy đủ về nội dung cấu thành

số tiền ghi trên các khoản mục. Cụ thể mục tiêu này liên quan đến tính đầy đủ
của các nghiệp vụ, tài sản và vốn cần được tính vào khoản mục. Mục tiêu này
hướng xác minh bổ sung cho xác nhận về tính trọn vẹn của nhà quản lý.
Các mục tiêu trọn vẹn và hiệu lực hướng trọng tâm chú ý vào những
quan hệ kiểm toán ngược nhau. Mục tiêu hiệu lực có quan hệ đến khả năng
phóng đại số tiền bởi những nghiệp vụ, tài sản vốn không có thực trong khi
mục tiêu trọn vẹn lại quan hệ tới nhưng bộ phận thực tế phát sinh nhưng
không ghi sổ.
Mục tiêu quyền và nghĩa vụ: Những xác nhận này của ban quản trị đề
cập đến liệu tài sản có thuộc quyền sở hữu của công ty hay không và nợ có
phải là nghĩa vụ của công ty vào ngày được xét hay không ? Mục tiêu này bổ
sung cho cam kết về quyền và nghĩa vụ với ý nghĩa xác minh lại quyền sở
hữu (hoặc sử dụng lâu dài được luật định thừa nhận) của tài sản và nghĩa vụ
pháp lý (hoặc hợp đồng dài hạn) của các khoản nợ và vốn. Thực chất của mục
tiêu này là hướng tới mối quan hệ giữa các bộ phận và giữa các khoản mục
trong và ngoài bảng cân đối tài sản.
12


Mục tiêu định giá là hướng xác minh vào cách thức và kết quả biểu
hiện tài sản, vốn và các hoạt động (chi phí, chiết khấu, thu nhập...) thành tiền.
Như vậy, mục tiêu này nghiêng về thẩm tra giá trị thực kể cả cách đánh giá
theo nguyên tắc kế toán, thực hiện các phép toán theo nguyên tắc toán học.
Tuy nhiên mục tiêu này không loại trừ xem xét tới liên hệ về cơ cấu có ảnh
hưởng tới số tiền ghi trong BCTC như việc thẩm tra các khoản cổ tức, lãi
suất, hối khấu... Đây là những khoản cấu thành chi phí, thu nhập, tài sản, vốn.
Mục tiêu này được sử dụng để làm rõ hơn cam kết của nhà quản lý về định
giá và phân phối.
Mục tiêu phân loại là hướng xem xét lại việc xác định các bộ phận,
nghiệp vụ được đưa vào tài khoản cùng việc sắp xếp các tài khoản trong các

BCTC theo bản chất kinh tế của chúng được thể chế bằng các văn bản pháp lý
cụ thể đang có hiệu lực. Trong các văn bản này, hệ thống tài khoản là cơ sở
ban đầu để thẩm tra phân loại tài sản, nghiệp vụ và vốn của khách hàng. Đồng
thời giới hạn về thời gian, đặc biệt là nghiệp vụ xảy ra cuối kỳ kế toán cũng là
một trọng tâm rà soát việc ghi vào các tài khoản. Với nội dung trên mục tiêu
này là sự bổ sung cần thiết vào cam kết phân loại và trình bày.
Mục tiêu chính xác cơ học: là hướng xác minh về sự đúng đắn tuyệt đối
qua các con số cộng sổ và chuyển sổ, các chi tiết trong số dư (cộng số phát
sinh) của tài khoản cần nhất trí với các con số trên các sổ phụ tương ứng, số
cộng gộp các tài khoản trùng hợp với số tổng cộng trên các số phụ có liên
quan, các con số chuyển sổ, sang trang phải thống nhất.
Thực tế số dư (tổng phát sinh) của tài khoản được phản ánh vào các
khoản mục xác định của BCTC. Các con số này được minh chứng từ các sổ
chi tiết trong các sổ phụ được liệt kê từ các bảng kê , nhật ký và các bảng phụ
lục do khách hàng lập. Mục tiêu chính xác cơ học sẽ bổ sung cho cam kết này
của nhà quản lý với hàm ý khẳng định mức chính xác số tổng cộng của chúng
với sổ cái.
13


Mục tiêu trình bày hướng xác minh vào cách ghi và thuyết trình các số
dư (hoặc tổng số phát sinh của tài khoản) vào các BCTC. Thực hiện mục tiêu
này đòi hỏi KTV thử nghiệm chắc chắn là tất cả các tài khoản thuộc bảng cân
đối tài sản và báo cáo kết quả kinh doanh cùng các thông tin có liên quan đã
được trình bày đúng và thuyết minh rõ trong các bảng và giải trình kèm theo.
Với ý nghĩa đó, mục tiêu này là phần bổ sung của KTV vào xác nhận của nhà
quản lý về sự trình bày và thuyết minh.
Tuy nhiên với KTV việc xác minh không chỉ dừng ở mục tiêu (như đã
trình bày ở trên) mà phải cụ thể vào từng khoản mục hay thành phần kiểm
toán (gọi là mục tiêu đặc thù).

1.1.1.4 Mục tiêu kiểm toán đặc thù:
Mục tiêu kiểm toán đặc thù được xác định trên cơ sở mục tiêu chung và
đặc điểm của khoản mục hay phần hành cùng cách phản ánh theo dõi chúng
trong hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Theo đó mỗi mục tiêu
chung có ít nhất một mục tiêu đặc thù. Tuy nhiên việc xác định mục tiêu đặc
thù còn tuỳ thuộc vào tình huống cụ thể và phán đoán của kiểm toán viên.
Vì vậy cũng có thể không có mục tiêu đặc thù được áp dụng phổ biến
trong trường hợp khác nếu KTV xét thấy mục tiêu đó không thích hợp hoặc
không quan trọng với khoản mục hay chu trình nào đó trong tình huống cụ thể
của cuộc kiểm toán. Tình huống cụ thể thì rất đa dạng nên kinh nghiệm và khả
năng phán đoán của KTV có vai trò quan trọng trong quá trình này. Trong khi
đó sự tương ứng giữa mỗi mục tiêu chung với một hoặc nhiều mục tiêu đặc
thù thích hợp phải được hoạch định trên những luận cứ chung như mục tiêu
kiểm toán chung, đặc điểm của khoản mục hay phần hành kiểm toán, đặc
điểm tổ chức của hệ thống kiểm toán và kế toán.
Trên góc độ xác định mục tiêu đặc thù của kiểm toán cần xem xét
những đặc điểm này trong quan hệ với chức năng các mục tiêu chung của
kiểm toán. Như chúng ta biết đối tượng chung của kiểm toán tài chính có thể
14


phân thành các phần hành kiểm toán theo loại khoản mục hoặc theo chu
trình:mua hàng và thanh toán, tiền lương và nhân viên, bán hàng và thu tiền...
Kiểm toán mỗi chu trình hay loại khoản mục này đều hướng tới những mục
tiêu chung từ tính hợp lý chung đến hiệu lực, trọn vẹn, tính giá quyền và
nghĩa vụ, phân loại và trình bày, chính xác cơ học. Tuy nhiên đối tượng cụ thể
của mỗi phần hành kiểm toán có những điểm khác nhau nên cách cụ thể hoá
các mục tiêu chung vào từng phàn hành cũng khác nhau. Chẳng hạn mục tiêu
hiệu lực có hướng chung là không khai khống. Nếu cụ thể hoá mục tiêu này
vào hàng tồn kho có nghĩa là hàng hoá phải còn tồn tại thực tế... Trường hợp

các phần hành có liên quan tới cả hai mặt về tài sản và vốn cũng phải cụ thể
hoá vào cả hai mặt đó cho sát thực với mục tiêu kiểm toán. Việc định ra các
mục tiêu kiểm toán đặc thù trước hết phải dựa vào bản chất của đối tượng cụ
thể(từng khoản mục hay từng chu trình). Song thực tế, việc phân định này
thường gắn với đối tượng của hạch toán kế toán:tài sản, vốn và quá trình tuần
hoàn của tài sản. Cụ thể hơn, có thể dựa vào các quy định trong văn bản pháp
lý về tài chính, về kế toán... bởi lẽ khi soạn thảo và ban hành các văn bản này,
các nhà hoạch định chính sách đã quan tâm đến đặc điểm thuộc bản chất của
từng đối tượng. Tuy nhiên mọi chính sách đều có thể trở nên lạc hậu tại một
thời điểm nào đó. Khi đó cần trở lại bản chất của đối tượng và nguyên tắc
thông lệ chung. Trong khi xem xét về bản chất của mỗi loại đối tượng trên cần
kết hợp xem xét về hình thức biểu hiện chúng. Có nhiều khoản mục hay phần
hành có bản chất giống nhau nhưng do hình thức biểu hiện khác nhau thì
hướng kiểm toán cụ thể cũng khác nhau. Ví dụ tài sản có thể là tài sản cố định
cũng có thể là hàng hoá, khoản phải thu... Như vậy, với mỗi hình thức vật
chất đó việc lựa chọn mục tiêu kiểm toán chung cũng như việc cụ thể hoá
chúng cũng phải được quan tâm để chọn ra phương sách kiểm toán theo
hướng thích hợp

15


Trong việc định ra mục tiêu kiểm toán đặc thù, cùng với bản chất chung
của đối tượng kiểm toán cần phân tích sâu hơn cụ thể tính chất của đối tượng.
Ví dụ giữa tài sản cố định, hàng hoá, tiền... có độ biến động rất khác nhau, từ
đó nội dung, trình tự, cách tính giá của các đối tượng cũng khác nhau. Vì thế
việc lựa chọn mục tiêu kiểm toán đặc thù và cụ thể hoá chúng cho từng loại,
từng thứ đã được phản ánh trên BCTC phải quan tâm đầy đủ đến từng mặt
thuộc đặc tính của từng đối tượng kiểm toán cụ thể. Mục tiêu đặc thù cần
được hướng tới từng loại đối tượng kiểm toán để có thể tập trung chú ý vào

các trọng điểm và xác định cách thức, trình tự xác minh chẳng hạn, với doanh
thu và chi phí, trọng tâm chú ý của phân loại và trình bày lại là ranh giới giữa
các loại thu, chi với nghiệp vụ thực tế đã xảy ra với nghiệp vụ có thể xảy ra kể
cả các nghiệp vụ kinh tế bất thường chưa xử lý đến cùng như là các vụ kiện
chưa xử lý xong, các tổn thất hay thu nhập bất thường chưa có quyết định xử
lý đến cùng theo nguyên tắc thận trọng với đòi hỏi chỉ ghi những chi phí có
thể xảy ra, không ghi những khoản thu có thể xảy ra .
Cùng các vấn đề chung về các quan hệ kinh tế, pháp lý của đối tượng
kiểm toán, việc xác định mục tiêu kiểm toán đặc thù cần phải đặc biệt chú ý
đến các đặc điểm về tổ chức kế toán và kiểm soát từng phần hành hay khoản
mục cần xác minh. Tất nhiên, mọi phần hành, mọi khoản mục đều phải dựa
trên các nguyên lý, nguyên tắc kế toán và kiểm soát nói chung. Tuy vậy
nguyên lý hay nguyên tắc được ứng dụng khác nhau vào từng phần hành cả
về số lượng, cơ cấu sổ sách cũng như trình tự ghi sổ và tổ chức kiểm soát nội
bộ kế toán và về quản lý. với nội dung, hình thức và trình tự kế toán khác
nhau thì các mục tiêu kiểm toán chung được cụ thể hoá thành các mục tiêu
kiểm toán đặc thù cũng khác nhau.
Cần chú ý rằng vấn đề đặt ra không phải là số lượng các mục tiêu kiểm
toán chung và số lượng các mục tiêu kiểm toán đặc thù tương ứng với mỗi
mục tiêu kiểm toán chung. Điều quan trọng nhất là tính đúng phương hướng
16


và bước đi cho cả cuộc kiểm toán cũng như cho từng phần hành kiểm toán cụ
thể. Trong quan hệ đó có thể bổ sung vào các mục tiêu kiểm toán chung “mục
tiêu giới hạn“ để xác minh việc thực hiện nguyên tắc nhất quán về thời hạn
tính nhập các khoản thu chi vào cuối kỳ kế toán. Đây là một công việc tất yếu
phải làm song có thể tách ra một mục tiêu chung độc lập hoặc có thể gộp vào
mục tiêu phân loại và trình bày.
Mỗi mục tiêu kiểm toán chung cần có mục tiêu kiểm toán đặc thù

tương ứng vào từng khoản mục, từng chu trình song số lượng mục tiêu kiểm
toán đặc thù tương ứng lại không phải máy móc là một hoặc nhiều mục tiêu.
Tuy nhiên cũng có thể tách riêng những hướng trọng tâm phải xác minh thành
những mục tiêu đặc thù độc lập.
Như vậy chức năng xác minh của kiểm toán được cụ thể hoá thành các
mục tiêu như trên là một điều hợp lý qua đó có thể nâng cao chất lượng thông
tin tài chính. Bên cạnh chức năng xác minh thì một chức năng rất quan trọng
nữa và không thể thiếu được là chức năng bày tỏ ý kiến.
1.1.2 Chức năng bày tỏ ý kiến.
Chức năng này có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất
lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Nếu kết luận về chất
lượng thông tin có quá trình phát triển lâu dài từ chỗ chỉ có từ xác nhận đến
hình thành báo cáo kiểm toán theo chuẩn mực chung thì kết luận về pháp lý
hoặc tư vấn cũng có quá trình phát triển lâu dài. Trong quá trình đó sản phẩm
cụ thể của bày tỏ ý kiên chỉ thấy rõ ở thế kỷ XX.
Tuy nhiên ngay ở thời kỳ đầu ngắn ngủi này, cách thức thực hiện chức
năng về bày tỏ ý kiến trách nhiệm và tư vấn cũng rất khác biệt giữa các khách
thể kiểm toán và giữa các nước có cơ sở kinh tế và pháp lý khác nhau.
Ở các khu vực công cộng (bao gồm cả các xí nghiệp công, các đơn vị
sự nghiệp và các cátoán nhà nước. Trong quan hệ này chức năng xác minh và
kết luận về chất lượng thông tin được thực hiện tương tự nhau. Tuy nhiên,
17


chức năng bày tỏ ý kiến về pháp lý và tư vấn kiểm toán lại rất khác nhau nhân
hưởng thụ ngân sách nhà nước) đều đặt dưới sự kiểm soát của kiểm
1.2 Trách nhiệm của kiểm toán viên về chất lượng kiểm toán báo
cáo tài chính
1.2.1 Trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp
Với mục đích để đảm bảo tính đúng đắn, hợp lý, hợp pháp của BCTC

thì trước hết trách nhiệm của KTV phải:
- Luôn coi trọng và chấp hành đúng pháp luật của Nhà nước trong quá
trình hành nghề kiểm toán.
- Trách nhiệm của KTV trong việc tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp không những được quy định trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
200 mà còn được quy định trong chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA quy định:
1. Tính độc lập: là nguyên tắc hành nghề cơ bản của KTV. Trong quá
trình kiểm toán, KTV phải thực sự không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất
cứ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng tới sự trung thực khách
quan và độc lập nghề nghiệp của mình. KTV không được nhận làm kế toán
cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế và quyền lợi kinh tế như góp vốn
cổ phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc cổ đông chi phối của
khách hàng hoặc có kí kết hợp đồng gia công dịch vụ , đại lý tiêu thụ hàng
hoá... KTV không được nhận làm kiểm toán ở những đơn vị mà bản thân có
quan hệ họ hàng thân thích với những người trong bộ máy quản lý trong đơn
vị được kiểm toán. KTV không được vừa làm dịch vụ kế toán (như trực tiếp
ghi chép, giữ sổ kế toán và lập BCTC) vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng
một khách hàng. Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập
thì KTV phải tìm cách loại bỏ được sự hạn chế này. nếu không loại bỏ được
thì KTV phải nêu rõ điều này trong báo cáo kiểm toán. Tính độc lập trong
kiểm toán có nghĩa là việc có một quan điểm vô tư khi thực hiện khảo sát
kiểm toán, đánh giá các kết quả và công bố các báo cáo kiểm toán. Tính độc
18


lập nhất định phải được xem như một trong những phẩm chất chủ yếu nhất
của kiểm toán. Lý do mà rất nhiều người sử dụng thuộc nhiều thành phần
khác nhau sử dụng báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên về tính trung thực
của các BCTC là sự tin tưởng của họ vào quan điểm vô tư đó. Điều cơ bản
không chỉ là KTV phải giữ thái độ độc lập khi thực thi trách nhiệm của mình

mà còn cả những người sử dụng các BCTC phải có niềm tin vào tính độc lập
đó. Hai mục đích này thường được gọi là tính độc lập thực sự và tính độc lập
bề ngoài. Tính độc lập thực sự có khi KTV thực tế có thể duy trì thái độ vô tư
trong suốt quá trình kiểm toán trong khi độc lập bề ngoài là kết quả của những
lời giải thích của những người khác về tính độc lập đó.
2. Chính trực: KTV phải thẳng thắn trung thực và có chính kiến rõ ràng.
3. Khách quan: KTV phải công bằng tôn trọng sự thật và không được
thành kiến thiên vị. Tức là một KTV không được chú tâm phản ánh sai sự
việc và khi hợp đồng thực hiện kiểm toán độc lập (kể cả cung cấp dịch vụ
khai thuế và dịch vụ tư vấn cho ban quản trị) KTV không được để sự phán xét
của mình lệ thuộc vào người khác.
4. Năng lực chuyên môn và tính thận trọng: KTV phải thực hiện công
việc với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và
tinh thần làm việc chuyên cần, KTV có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng
cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến
bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc.
5. Tính bí mật: KTV phải đảm bảo bí mật thông tin có được trong quá
trình kiểm toán, không được tiết lộ bất kỳ một thông tin nào khi chưa được
phép của người có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu
cầu của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
6. Tư cách nghề nghiệp: KTV phải trau dồi và bảo vệ uy tín nghề nghiệp,
không được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp của mình.

19


7. Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn: KTV phải thực hiện công việc
kiểm toán theo những kỹ thuật và chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được
Việt Nam chấp nhận theo các quy định pháp luật hiện hành.

1.2.2 Trách nhiệm đối với báo cáo tài chính
Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam giám đốc (hoặc người đứng đầu)
đơn vị được kiểm toán chịu trách nhiệm lập, trình bày trung thực, hợp lý
BCTC theo đúng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp
thuận) và các quy định có liên quan. KTV và công ty kiểm toán phải chịu
trách nhiệm kiểm tra, chuẩn bị và trình bày ý kiến của mình về BCTC. Việc
kiểm toán tài chính không làm giảm nhẹ trách nhiệm của giám đốc đơn vị
được kiểm toán đối với BCTC.
Trong chuẩn mực kiểm toán quốc tế: Trách nhiệm lập và trình bày
BCTC thuộc về ban giám đốc công ty, chuyên gia kiểm toán chỉ chịu trách
nhiệm hoàn thành và diễn đạt ý kiến về BCTC. Việc kiểm toán BCTC cũng
không miễn hoàn toàn trách nhiệm của ban giám đốc.
1.2.3 Trách nhiệm pháp lý
KTV không những phải tuân thủ trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp mà
còn phải tuân thủ trách nhiệm pháp lý của mình. Viêc xác định trách nhiệm
pháp lý của KTV tuỳ thuộc vào pháp luật của từng quốc qia gồm:
+Trách nhiệm dân sự
Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu của những sai phạm có thể dẫn tới
trách nhiệm dân sự thường do KTV thiếu thận trọng đúng mực, hoặc do
không tôn trọng các chuẩn mực nghề nghiệp. Lúc này họ có thể chịu trách
nhiệm dân sự trước các đối tượng:
- Chịu trách nhiệm đối với khách hàng là người thuê kiểm toán BCTC
thường liên quan đến việc không hoàn thành hợp đồng kiểm toán và gây thiệt
hại cho khách hàng.
20


- Chịu trách nhiệm đối với người sở hữu chứng khoáng của công ty
- Chịu trách nhiệm với các bên thứ 3 có liên quan
+Trách nhiệm hình sự

Ngoài trách nhiệm dân sự nếu do gian lận, KTV còn phải chịu trách
nhiệm hình sự về những sai phạm của mình. Tại nhiều quốc gia trong đó có
Việt Nam KTV sẽ bị truy tố và Toà án hình sự sẽ xét xử.
Với những trách nhiệm đạo đức, pháp lý ... được trình bày ở phần trên
thì nếu KTV tuân thủ đúng đắn sẽ hạn chế không những được rất nhiều sai
phạm mà còn tăng chất lượng kiểm toán BCTC.
1.3. Mối quan hệ giữa chức năng kiểm toán với chất lượng báo cáo
tài chính.
1.3.1 Những yếu tố quyết định chất lượng báo cáo tài chính.
Đầu tiên là tính độc lập của cơ quan kiểm toán là vấn đề cơ bản cho
công tác kiểm tra tài chính có hiệu lực và hiệu quả. Kết quả kiểm tra tài chính
đối với tất cả các cơ quan, đơn vị, các tổ chức... nói chung chịu nhiều tác
động về nhiều mặt. Tính độc lập đầy đủ của cơ quan kiểm toán, cũng như
KTV là yếu tố quan trọng trực tiếp tác động đến chất lượng kiểm toán bởi vì
trong hoạt động kiểm toán mọi ý kiến đánh giá, nhận xét và kết luận của KTV
đều dựa vào bằng chứng kiểm toán và tuân thủ pháp luật không chịu sự tác
động của bất kì sức ép nào nhất là sức ép quyền lực.
Thứ hai: trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của KTV là nhân
tố quyết định đến chất lượng kiểm toán. Nếu tất cả các yếu tố hợp thành tạo
nên môi trường kiểm toán thuận lợi nhưng do KTV thiếu trình độ nghiệp vụ
không đáp ứng nhiệm vụ được giao hoặc không trung thực, khách quan hoặc
để các lợi ích cá nhân chi phối đến hoạt động kiểm toán thì kết quả kiểm toán
sẽ bị sai lệch, bóp méo.
Thứ ba là cơ cấu tổ chức và cơ chế phân cấp phân nhiệm của cơ quan
kiểm toán có tác động đến chất lượng kiểm toán. Nếu cơ cấu tổ chức hợp lý
21


quy định rõ chức năng nhiệm vụ của đơn vị theo từng chuyên ngành sẽ tạo
điều kiện cho các đơn vị chuyên môn hoá hoạt động kiểm toán theo hướng

chuyên sâu thì hiệu quả chất lượng kiểm toán từng bước được nâng cao và
ngược lại. Việc bố trí hợp lý và giao việc phù hợp với khả năng chuyên môn
nghiệp vụ của từng thành viên trong đoàn là yếu tố quyết định đến chất lượng
và hiệu quả kiểm toán.
Yếu tố tiếp theo ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC là việc
tuyển dụng cán bộ, KTV: KTV là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng
kiểm toán, ngoài những tiêu chuẩn của một công chức khi tuyển dụng KTV
cần đặc biệt chú ý đến hai tiêu chuẩn đó là: phải có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và có kiến thức về pháp luật có nghĩa là người đó đã tốt nghiệp
theo một chuyên ngành về mặt pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh
vực được đào tạo. Việc đánh giá về phẩm chất đạo đức được thực hiện chủ
yếu là đánh giá trên hai góc độ đó là về mặt lý lịch về lịch sử cá nhân thông
qua cơ quan quản lý cán bộ và các tổ chức, đoàn thể mà người đó đã từng
tham gia đồng thời phải kết hợp với việc thăm dò dư luận của quần chúng để
xác định đối chiếu những ý kiến nhận xét đã nêu trong lí lịch.
Mặt khác chính sách cán bộ và đào tạo cũng ảnh hưởng đến chất lượng
kiểm toán BCTC. Chính sách này luôn tác động trực tiếp đến tâm lý làm việc
của KTV, nếu chính sách cán bộ tốt sẽ khuyến khích KTV hăng say có trách
nhiệm trong công việc được giao và ngược lại. Vì vậy muốn xây dựng, ban
hành các chính sách cán bộ để mọi KTV biết lấy đó làm mục tiêu phấn đấu.
Việc đánh giá năng lực để phân loại đề bạt khen thưởng KTV phải được thực
hiện thường xuyên, việc đánh giá phải dựa trên kết quả các cuộc kiểm toán
mà KTV đó có thực hiện, thông qua hội đồng bình xét theo từng cấp độ để
đảm bảo tính dân chủ, khách quan, tránh mọi biểu hiện định kiến cá nhân. Vì
vậy việc đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và pháp luật là hết sức
quan trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay.
22



×