TIỂU LUẬN
Đề bài: Nêu và phân tích chức năng của thị trường? Ý nghĩa của việc
nghiên cứu vấn đề trên? Liên hệ thực tiễn Việt Nam?
Họ tên học viên: Lò Ngọc Dương.
Lớp: QTKD 10.03.
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Việt Nam là quốc gia bắt đầu thực hiện đổi mới từ năm 1986, quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường.
Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong xu thế hội nhập là một vấn đề cần thiết đối với nền kinh
tế thị trường tại Việt Nam và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước.
Trước năm 1986, do nhận thức đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội nên chúng ta đã thiết lập cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp, cơ chế kinh tế đó có vai trò tích cực trong công cuộc
kháng chiến, nhưng khi chuyển sang thời bình để xây dựng kinh tế và phát triển
đất nước thì lại trở thành lực cản đối với sự phát triển. Nên việc vận hành nền
kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
một tất yếu và cũng là cơ chế chung của nhiều nước trên thế giới, do đó tôi đã
chọn vấn đề nghiên cứu về chức năng thị trường làm bài tiểu luận cho môn Kinh
tế học quản lý phần kinh tế học vĩ mô.
1.2. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu chức năng của thị trường để làm gì? Tại sao nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường là một tất yếu?
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ chức năng của thị trường để từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề trên.
Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy tốt nhất chức năng của thị
trường, qua đó để thấy rõ sự thay đổi nền kinh tế của Việt nam là cần thiết.
Nghiên cứu một cách có hệ thống, cụ thể cả lý luận lẫn thực về sự sự vận
động theo nền kinh tế thị trường là điều tất yếu. Từ đó nhận định sự cần thiết
phải có sự quản lý của Nhà nước về nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
PHẦN II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp thu thập số liệu
1
Tìm và thu thập số liệu chủ yếu qua sách, báo, mạng internet với những số
liệu có sẵn.
2.2 Phương pháp phân tích
- Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; coi trọng phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp.
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xem xét, đánh giá thực tiễn trong sự vận
động của các nhân tố, điều kiện có liên quan đến nền kinh tế thị trường.
- Tiếp thu, kế thừa những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối
định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và những kiến thức kinh tế
học hiện đại và kế thừa chọn lọc những công trình khoa học có liên quan đến
vấn đề này.
PHẦN III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Lý luận chung về vấn đề nghiên cứu
3.1.1. Khái niện về thị trường
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường, sau đây là một
số khái niệm thường gặp:
Một là, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, hay nó là tập hợp tất cả
những dàn xếp mà thông qua đó người mua và người bán tiếp xúc với nhau để
trao đổi hàng hoá, dịch vụ.
Hai là, thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi, chuyển
nhượng hàng hoá dịch vụ và các yếu tố sản xuất. Hàng hoá ở đây không chỉ bao
hàm những sản phẩm tiêu dùng mà còn bao gồm cả những yếu tố sản xuất như
đất đai, lao động, vốn. Sự mua bán, trao đổi, chuyển nhượng này có thể được
thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp.
Ba là, thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là nơi thể hiện tổng
hoà các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa người mua và người bán. Người sản
xuất luôn mong đạt được lợi nhuận cao nhất, vì thế họ sẽ cố gắng bán được hàng
hoá, dịch vụ với giá cao nhất, tuy nhiên người mua lại luôn mong muốn mua với
giá thấp nhất để có thể đạt được lợi ích tối đa với một lượng thu nhập nhất định
của mình. Do vậy giữa người mua và người bán luôn tồn tại một mâu thuẫn và
mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết thông qua thị trường, ở đó người mua
và người bán sẽ quyết định giá mua bán trao đổi để cả người mua và người bán
đều có thể chấp nhận được. Chính vì vậy, thị trường là một mắt xích (nhân tố)
hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng.
2
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của
lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn
trên con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường
phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền
kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN. Để chuyển
lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải trở thành
phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội. Đây là một kết luận lý luận quan trọng.
Nó khái quát quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị
trường được xác định là một nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến.
3.1.2. Vai trò của thị trường
- Vai trò quan trọng nhất của thị trường được thể hiện ở chỗ thị trường là
nơi quyết định giá cả của hàng hoá dịch vụ.
Mặc dù người mua và người bán luôn hoạt động theo các quy luật trái
ngược nhau: người mua luôn mong muốn mua được hàng hoá với giá rẻ trong
khi người bán luôn mong muốn bán được hàng hoá với giá đắt; người mua mong
muốn tối đa hoá được lợi ích trong quá trình tiêu dùng còn người bán mong
muốn tối đa được lợi nhuận trong quá trình sản xuất, nhưng sự hoạt động của thị
trường thông qua sự dẫn dắt của “Bàn tay vô hình” sẽ giải quyết những mâu
thuẫn này giữa người mua và người bán. Sự tác động qua lại giữa người mua và
người bán trên thị trường sẽ xác định giá cả cụ thể của từng loại hàng hoá, dịch
vụ và mức giá đó sẽ thoả mãn cả lợi ích của người mua và người bán. Bên cạnh
đó thị trường cũng đồng thời xác định cả số lượng, chất lượng chủng loại sản
phẩm cần sản xuất và qua đó sẽ xác định việc phân bổ sử dụng tài nguyên khan
hiếm của xã hội.
- Thị trường là vấn đề sống còn của doanh nghiệp, là nơi kiểm nghiệm,
đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách
chính xác nhất.
Khi sản xuất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ thì tất cả các doanh nghiệp
đều mong muốn tiêu thụ được sản phẩm của mình trên thị trường. Nếu như sản
phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ thì cũng có nghĩa là khi đó sản phẩm đã
được thị trường chấp nhận ở khía cạnh chi phí sản xuất và chất lượng sản phẩm,
điều đó đảm bảo rằng việc lựa chọn vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào,
sản xuất cho ai là phù hợp. Ngược lại, nếu sản phẩm của doanh nghiệp không
tiêu thụ được trên thị trường thì doanh nghiệp sẽ đối mặt với nguy cơ bị phá sản.
- Thị trường là nơi mà Nhà nước có thể tác động các chính sách kinh tế vĩ
mô để điều tiết, kiểm soát, bình ổn thị trường, khuyến khích các hoạt động sản
xuất và tiêu dùng của toàn xã hội
3
Ðể đảm bảo cho lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng, và lợi ích
cho toàn xã hội, Nhà nước có thể tác động các chính sách kinh tế thông qua thị
trường như chính sách giá cả (giá trần, giá sàn), chính sách thuế (thuế đối với
người sản xuất, người tiêu dùng).
3.1.3. Chức năng của thị trường
3.1.3.1. Chức năng thừa nhận, chấp nhận
Khi người sản xuất đưa hàng hoá, dịch vụ ra thị trường để tiêu thụ, nếu
hàng hoá, dịch vụ đó bán được thì khi đó chúng đã được thị trường thừa nhận và
người mua chấp nhận. Thị trường thừa nhận hàng hoá dịch vụ ở các khía cạnh:
- Thừa nhận tổng số cung, tổng số cầu về một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó.
- Thừa nhận quan hệ cung cầu các hàng hoá, dịch vụ đó.
- Thừa nhận giá cả và chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
3.1.3.2. Chức năng kích thích, điều tiết
Kích thích và điều tiết được xem là chức năng cơ bản nhất của thị trường.
Giá bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường là một trong những yếu tố quyết định
lợi nhuận của doanh nghiệp. Do lợi nhuận là mục tiêu tối cao của tất cả các
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh cho nên nó sẽ kích thích các
doanh nghiệp tự động di chuyển các nguồn lực của mình từ ngành này sang
ngành khác, từ sản phẩm này sang sản phẩm khác để có thể thu được lợi nhuận
cao hơn. Ngoài ra, lợi nhuận cũng kích thích các doanh nghiệp phấn đấu giảm
chi phí thông qua việc áp dụng công nghệ kỹ thuật mới trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Có thể nói lợi nhuận thu được trên thị trường là động lực thúc đẩy
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất.
3.1.3.3. Chức năng thực hiện
Chức năng thực hiện của thị trường được biểu hiện trên các mặt:
- Thực hiện giá trị sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trên thị trường.
- Thực hiện giá trị sử dụng hàng hoá, dịch vụ có mặt trên thị trường.
- Thực hiện cơ cấu một loại hàng hoá dịch vụ nào đó.
Hàng hoá có hai thuộc tính: Giá trị hàng hoá và giá trị sử dụng. Trong đó
giá trị hàng hoá là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị
hàng hoá, dịch vụ; còn giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá
để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Thị trường thực hiện hai thuộc tính đó của
hàng hoá.
3.1.3.4. Chức năng thông tin
4
Thị trường là nơi cung cấp các thông tin cho người sản xuất, người tiêu
dùng, các nhà phân tích, hoạch định chính sách của Nhà nước. Thông qua thị
trường các nhà sản xuất sẽ nắm bắt được các thông tin về nhu cầu của người tiêu
dùng đối với từng loại sản phẩm: nhu cầu về khối lượng, chất lượng hàng hoá,
các thông tin về giá cả hàng hoá... từ đó đề ra các quyết định tối ưu trong quá
trình sản xuất. Cũng thông qua thị trường người tiêu dùng có những thông tin về
giá cả, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, từ đó đề ra các quyết định tối ưu trong quá
trình tiêu dùng của mình.
3.1.4. Các yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường
3.1.4.1. Độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập
dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự
chủ trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho
ai? Họ tự chịu trách nhiệm đối với quyết định sản xuất kinh doanh của bản thân
dựa trên những tín hiệu thị trường.
Về bản chất, nền kinh tế thị trường thị trường có cấu trúc đa sở hữu.
Trong cấu trúc, sở hữu tư nhân luôn luôn là thành tố tất yếu, bắt buộc. Phủ nhận
sở hữu tư nhân có nghĩa là bác bỏ kinh tế thị trường trên thực tế. Bên cạnh sở
hữu tư nhân, còn có các dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và
dạng đồng sở hữu của các chủ thể khác, ví dụ sở hữu CTCP, DN tư bản nhà
nước, v.v.
Về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh
tế thị trường là độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt động
kinh doanh. Nhưng mỗi hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở hữu lại có vai trò, vị
thế và chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường.
3.1.4.2. Hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng
Mọi nền kinh tế thị trường đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các thị
trường, bao gồm các thị trường yếu tố [các thị trường đầu vào như thị trường đất
đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường
vốn, thị trường chứng khoán), thị trường hàng hoá, thị trường khoa học - công
nghệ] và thị trường hang hóa và dịch vụ tiêu dùng. Để nền kinh tế thị trường
hoạt động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu.
- Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên.
- Các thị trường phải vận hành đồng bộ.
Để đáp ứng hai yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trường
phải tuân theo một trật tự bước đi xác định. Việc không tuân thủ trật tự đó (ví dụ
xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán nhưng hệ thống các quyền tài
5
sản không xác định rõ, thị trường đất đai không được thừa nhận chính thức)
thường dẫn đến sự rối loạn, vận hành kém hiệu quả của từng thị trường chức
năng và của cả nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trường đòi hỏi phải
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trường (chủ thể sở hữu độc lập,
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp, cơ chế phân bổ nguồn lực do
các lực lượng thị trường quyết định là chính, thông qua cạnh tranh tự do, v.v.)
trên cơ sở dược sự bảo đảm của luật pháp. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo
luật cơ sở như luật cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền,
luật chống bán phá giá thì nền kinh tế không thể hoạt động bình thường.
3.1.4.3. Hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu
quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường
Giá cả trên các loại thị trường được xác định dựa trên tương quan cung và
cầu của từng thị trường đó. Tín hiện giá cả là căn cứ khách quan đối với các chủ
thể kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất-kinh doanh của mình trong môi
trường cạnh tranh thị trường.
Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được
quyết định khách quan bởi thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận là động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp. Để phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được thiết
định trên các cơ sở khách quan và được điều tiết bằng cơ chế tự điều tiết (cạnh
tranh tự do).
3.1.4.4. Cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh
tự do
Không có cạnh tranh tự do, không thể nói đến kinh tế thị trường. Về bản
chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó còn được
gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng mỗi
khi bị trục trặc.
Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị
trường. Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh
vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi
thế phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế xác
nhận rằng cho đến nay, sau khi nền kinh tế đã vượt qua trình độ kinh tế nông dân
tự cấp - tự túc, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quả nhất.
3.1.4.5. Vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước
Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại
trong việc giải quyết một số vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói
6
nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất
bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế.
Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ
máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với
các tư cách đó, nhà nước thực hiện ba chức năng:
- Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;
- Phân phối lại thu nhập quốc dân.
- Bảo vệ môi trường.
Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết các nhiệm vụ:
- Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù
hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường;
- Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mô ổn định, có tính khuyến khích
kinh doanh;
- Cung cấp kết cấu hạ tầng (gồm hạ tầng "cứng" - giao thông vận tải, cung
cấp điện nước, v.v. và hạ tầng "mềm" - dịch vụ thông tin, bưu chính - viễn
thông; tài chính, v.v.) cũng như các dịch vụ và hàng hoá công cộng (chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường, v.v.).
- Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường
bình đẳng.
3.2. Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước
3.2.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Khu vực Trung Đông, Bắc Mỹ và TIểu vùng Sahara sẽ có những thay đổi
đáng kể trong việc mở cửa thương mại, do đó, khu vực này sẽ đóng vai trò lớn
trong việc lắp ráp và sản xuất hàng hóa. Trong các mặt hàng xuất khẩu, máy
móc và linh kiện vận tải sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong các mặt hàng
xuất khẩu trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, các nước phát triển sẽ tiếp tục
thặng dư trong việc xuất khẩu dịch vụ sang khu vực ChâuÁ Thái bình dương, và
điều này sẽ giúp cho việc thương mại dịch vụ được phát triển nhanh chóng.
Do các điều kiện kinh tế vĩ mô của các nước được cải thiện và các nhà
đầu tư lấy lại niềm tin trong trung hạn, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
thế giới được dự báo sẽ đạt mức 1,6 nghìn tỷ USD vào năm 2014 và 1,8 nghìn tỷ
USD vào năm 2015. Tuy nhiên, những rủi ro vẫn còn lớn như sự yếu kém của
cấu trúc hệ thống tài chính toàn cầu, mức độ không chắc chắn về chính sách của
các khu vực chủ yếu của nền kinh tế thế giới còn lớn, môi trường kinh tế vĩ mô
có khả năng xấu đi,… khiến các nhà đầu tư mất niềm tin có thể dẫn đến sự sụt
giảm dòng FDI. Mặc dù vậy, các quốc gia đang phát triển được dự báo sẽ có tốc
7
độ tăng trưởng cao về tầng lớp trung lưu, điều này sẽ khiến cho dòng vốn FDI
chuyển hướng từ việc đặt nhà máy sản xuất để phục vụ xuất khẩu sang việc phục
vụ nhu cầu nội đia. Cùng với đó, xu hướng tầng lớp trung lưu của các quốc gia
đang phát triển sử dụng dịch vụ nhiều hơn, điều này cũng sẽ tạo ra xu hướng đầu
tư từ khu vực sản xuất sang khu vực dịch vụ. Dòng FDI thế giới được dự báo có
xu hướng hồi phục dần và ổn định vào các năm tiếp theo và đạt khoảng 4% GDP
thế giới từ năm 2018-2020.
Đối với lĩnh vực tài khóa tiền tệ, cho đến năm 2015, tình hình ngân sách
và nợ công của các nền kinh tế trên thế giới được dự báo sẽ không có nhiều cải
thiện đáng kể. Đến năm 2015, IMF dự báo thâm hụt ngân sách trung bình của
các nền kinh tế trên thế giới ngân sách sẽ không thay đổi nhiều từ mức 3,0%
GDP của năm 2014. Các nền kinh tế phát triển sẽ có mức thâm hụt ngân sách
năm 2015 (2,9%/GDP) giảm đáng kể so với năm 2014 (3,6%/GDP) nhờ những
nỗ lực thắt chặt tài khóa. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách của nền kinh tế Nhật Bản vẫn
đứng đầu các nền kinh tế phát triển với mức thâm hụt ngân sách được dự báo
cho 2 năm 2014 và 2015 lần lượt là 6,8%; 5,7% GDP. Tại các nền kinh tế đang
nổi và đang phát triển, tỷ lệ thâm hụt ngân sách được dự báo ở mức 2,5% năm
2014 và 2015, trong đó, con số của các nền kinh tế châu Á được dự báo trung
bình ở mức 3,1% năm 2014 và 2,6% năm 2015. Đến năm 2020, tình hình thâm
hụt ngân sách của các nền kinh tế trên thế giới có nhiều cải thiện hơn, tuy nhiên
nợ công sẽ vẫn ở mức cao. Cụ thể, thâm hụt ngân sách tại Mỹ và Nhật Bản được
dự báo lần lượt là -6,9% và 4,1%, nhưng nợ công vẫn gần như không có nhiều
cải thiện, với 257% và 115%GDP. Trong khi đó, nhờ các nỗ lực thắt chặt tài
khóa, thâm hụt ngân sách và nợ công của khu vực châu Âu sẽ được cải thiện
đáng kể, cụ thể lần lượt ở các mức 2,1% GDP và 97%GDP.
Thị trường lao động việc làm thế giới được dự báo sẽ chưa có nhiều cải
thiện trong thời gian tới. Theo báo cáo ILO , nếu xu hướng này còn tiếp diễn, tỷ
lệ thất nghiệp toàn cầu sẽ dần xấu đi và số lao động thiếu việc làm có thể sẽ lên
tới hơn 215 triệu vào năm 2018 (Bảng 2). ILO dự báo khoảng 40 triệu việc làm
mới sẽ được tạo ra mỗi năm, ít hơn con số 42,6 triệu người được kỳ vọng sẽ
tham gia vào thị trường lao động hàng năm.
3.2.2. Bối cảnh kinh tế trong nước
Trong hành trình gần 70 năm, kể từ khi nước nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, thì Việt Nam đã có hơn 30 năm
trải qua chiến tranh vệ quốc vô cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết đến
công cuộc đổi mới ở Việt Nam như một bằng chứng về sự thành công chuyển
đổi kinh tế trong lịch sử đương đại. Tuy vẫn là một nước nghèo, nhưng qua 20
năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử.
8
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phát triển kinh tế đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp.
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối đổi
mới của Đảng đã tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và
dịch vụ.
Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của
dân cư đều tăng cả chất lượng và số lượng, đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng
trong nước và tham gia xuất khẩu.
Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối của
thập kỷ 90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của
các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn
FDI, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại,
có thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước khuyến khích bằng các
cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng, nên trong những năm qua phát triển
khá nhanh và ổn định hơn hẳn khu vực công nghiệp trong nước. Tính đến nay đã
có hơn 5.000 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký
hơn 45 tỷ USD. Các doanh nghiệp này đóng góp gần 15% GDP, chiếm hơn 30%
tổng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp 4,9% tổng thu ngân sách Nhà nước và tạo
ra hàng vạn công ăn việc làm.
Ngoài giá trị về kinh tế, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng triệu việc
làm, góp phần bổ sung và hoàn thiện các mô hình quản lý và tổ chức sản xuất
mới phù hợp với cơ chế thị trường ở Việt Nam. Mô hình khu công nghiệp, khu
chế xuất (KCN, KCX) chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp với các
ngành sản phẩm mũi nhọn, có chất lượng cao, phục vụ xuất khẩu. Đến nay, cả
nước có 122 KCN được cấp giấy phép họat động. Sự tham gia của công nghiệp
FDI nói chung và các KCN nói riêng đã tạo ra sức cạnh tranh cần thiết thúc đẩy
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế Việt Nam đầu tư chiều sâu, đổi
mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại để giảm chi phí sản xuất, tăng
chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước
và xuất khẩu.
9
Do nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm nên tích
luỹ của nền kinh tế ngày càng mở rộng. Năm 1990 tỷ lệ tích luỹ tài sản trong sử
dụng tổng sản phẩm trong nước chiếm 14,36%; đến năm 2004 tỷ lệ này đạt
35,58%.
Thành tựu nổi bật và to lớn nhất của nông nghiệp trong 15 năm đổi mới là
đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
thứ hai thế giới liên tục từ năm 1989 đến nay.
Nhờ kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục nhiều năm liền nên đời
sống vật chất, văn hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện rõ rệt.
Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên
biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 2000 Việt
Nam đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học. Giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học có bước mở rộng nhanh
về quy mô đào tạo.
Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Hệ thống
y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại hình dịch vụ
y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp.
Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được
những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Chủ trương của Đảng và Nhà
nước ưu tiên phát triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã thành
công trong việc giải phóng sức sản xuất của dân cư nông thôn và khuyến khích
họ tự mình phấn đấu cải thiện cuộc sống. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ
nghèo đã giảm từ trên 70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000 và 28,9% vào
năm 2001-2002. Như vậy so với năm 1990, năm 2000 Việt Nam đã giảm 1/2 tỷ
lệ nghèo và về điều này Việt Nam đã đạt được mục tiêu phát triển của Thiên
niên kỷ do Quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn 19902015.
Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia, quan hệ kinh
tế thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 80 quốc
gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam... Chưa bao giờ mối quan hệ
ngoại giao và kinh tế của Việt Nam lại phát triển sâu rộng và đa dạng như ngày
nay.
3.3. Thực trạng (vấn đề nghiên cứu)
3.3.1. Ưu điểm
10
Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó, làm cho nền kinh tế
phát triển năng động, có hiệu quả.
Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát
giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu
nhu cầu của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng
cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà
nước làm sẽ phải thực hiện một số công việc rất lớn, có khi không thực hiện
được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra các quyết định.
Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản
xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất
như không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm,
đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một
cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối
các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ
chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế
được phân bố một cách tối ưu.
Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh
của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện
kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
3.3.2. Hạn chế
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi có cạnh
tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, thì hiệu lực của cơ chế
thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể
giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc
quyền, thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.
Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì
vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của
con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được bảo đảm.
Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, vì vậy sự tác động của cơ
chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác
động xấu đến đạo đức và tình người.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh
khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp. Do
cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế
11
không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà
nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó nền kinh tế, như
người ta gọi, là nền kinh tế hỗn hợp.
3.4 Bài học rút ra sau nghiên cứu
3.4.1. Phương hướng
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quán triệt những phương hướng rõ ràng
trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong
những thập kỷ tới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định rõ: “Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, điều cần thiết trước hết là nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh
tế thị trường ở nước ta”(1).
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 tái khẳng định:
“Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu
cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng
đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức…
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ
với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,…”(2).
Để thực hiện được các định hướng trên, cần phải: phát triển mạnh các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp...; phát
triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường... ; nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(3).
3.4.2. Những giải php cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
- Xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống thị trường, nhất là thị trường
các yếu tố sản xuất; Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các
loại thị trường.
1
2
3
12
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, không ngừng đổi mới cơ chế
chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn; Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và
thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
-Hoàn thiện cơ chế quản lý của nhà nước phù hợp với kinh tế thị trường;
bảo đảm sự tương thích cơ chế quản lý nhà nước với cơ chế vận động khách
quan của thị trường. Nhà nước trở thành chất xúc tác cho các chủ thể kinh tế vận
hành hiệu quả và ổn định theo đúng quy luật thị trường. Các công cụ can thiệp
nhà nước phải mang tính minh bạch, dễ tiên liệu, phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước; Phân định rõ
quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, hoàn thiện
cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp.
- Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển, nhất là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài;“Kinh tế
tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế” (4); phát triển các loại hình
sản xuất kinh doanh. “Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử
dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo
đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình" (5).
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế
- Nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân nhằm cải thiện
năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế
toàn cầu. Để đạt mục tiêu quan trọng này cần phải đẩy mạnh CNH, HĐH, ứng
dụng nhanh thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh phân công lao
động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội; Cải tạo,
nâng cấp và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng như hệ thống giao thông vận tải,
bến cảng, kho bãi, viễn thông, điện nước, v.v.
- Đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt chú ý các nhà quản lý, doanh nhân, đội
ngũ người lao động lành nghề và nâng cao trình độ tư duy kinh tế, kiến thức
kinh doanh cho các chủ hộ gia đình, hộ tiểu chủ;
- Quan tâm tới việc tái sản xuất sức lao động của lực lượng lao động để họ
đủ sức lực và trình độ vận hành cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế
quốc dân. Chế độ chính sách về tiền lương/tiền công, phúc lợi xã hội, an sinh xã
hội, v.v. cần được điều chỉnh kịp thời, sát với điều kiện biến đổi của thị trường.
Thứ ba, Tận dụng tri thức và nguồn lực từ bên ngoài
4
5
13
- Tiếp cận hệ thống tri thức nhân loại về nền kinh tế thị trường thông qua
hợp tác giáo dục - đào tạo, trao đổi học thuật, nghiên cứu, hội thảo...
- Học hỏi kinh nghiệm xây dựng nền kinh tế thị trường của các nước trong
khu vực và trên thế giới thông qua tư vấn, tham quan, nghiên cứu mô hình...
- Tận dụng cơ hội phát triển, lợi thế nước đi sau trong việc xây dựng mô
hình phát triển thông qua hợp tác, liên doanh, chuyển giao...
- Tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, ngoại
lực càng trở nên quan trọng. Một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước
ta muốn vươn lên để theo kịp theo các nước, không thể coi nhẹ việc thu hút và
sử dụng tốt nhất ngoại lực. Muốn phát huy tốt ngoại lực, phải có một chiến lược
phù hợp và môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, trước hết là có một hệ
thống thể chế, chính sách đồng bộ, một nền hành chính minh bạch, hiệu lực,
hiệu quả đặc biệt phải có một cơ chế thị trường theo đúng nghĩa.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.25.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 98 - 99.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 35 -37.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 74.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 74.
6. Nguồn: ww.ncseif.gov.vn, bài Bối cảnh kinh tế thế giới 2015-2020, Tác
giả: TS. Lương Văn Khôi và Nhóm nghiên cứu Ban KTTG.
7. Nguồn: ww.chinhphu.vn , bài viết tổng quan kinh tế - xã hội việt nam.
14