Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH ĐỂ BÁN HÀNG HÓA, CUNG ỨNG DỊCH VỤ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 46 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập nền kinh thế thế giới, cũng có nghĩa là
phải chấp nhận “luật chơi” của quốc tế, trong đó có cạnh tranh. Cạnh tranh đã
được thế giới sớm biết đến như là một động lực quan trọng để thúc đẩy kinh tế
phát triển. Thế nhưng, ở những nước bước ra từ nền kinh tế bao cấp như Việt
Nam, thì cạnh tranh là khái niệm rất xa lạ, đôi khi nó được nhìn nhận như là sự
tiêu cực của nền kinh tế. Với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, ít
nhiều đã được biết đến sớm hơn với những hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn,
gièm pha doanh nghiệp khác…Còn với pháp luật chống hạn chế cạnh tranh,
dường như rất mới đối với người tiêu dùng và cả doanh nghiệp. Vì thế, nó là
một đề tài hấp dẫn thu hút được sự quan tâm của nhiều giới, nhiều nhà khoa học,
cũng như nhiều doanh nghiệp. Nhưng ở một góc độ nào đó, sự nhận thức đầy
đủ, cặn kẽ bản chất của các hình thức biểu hiện của cạnh tranh nói chúng và
pháp luật chống hạn chế cạnh tranh nói riêng còn nhiều hạn chế. Với sự phát
triển của những công ty lớn, có tiềm lực tài chính mạnh và kinh nghiệm cạnh
tranh dồi dào thì việc nghiên cứu hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế
cạnh tranh, đặc biệt là hành vi bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ dưới giá thành

Comment [M1]: Diễn đạt chưa ổn. Nếu coi đây
là chủ ngữ thì phần vị ngữ sau chưa ăn nhập. Em
diễn đạt lại câu này rõ ràng hơn

toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cơ quan nhà nước, doanh nghiệp
có cái nhìn đúng đắn về hành vi này, tạo cơ sở cho một nền kinh tế lành mạnh.
Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là một chế định
đặc thù. Nó là sự pha lẫn giữa khoa học pháp lý và khoa học kinh tế. Do đó phải

Comment [M2]: Chú ý không sử dụng văn nói

xét trên cả hai phương diện khoa học pháp lý và khoa học kinh tế mới có thể xác


định đúng hành vi của nó. Do Luật Cạnh tranh lần đầu tiên ra đời nên nó chỉ mới

Comment [M3]: Câu không có chủ ngữ

dừng lại ở việc gọi tên, liệt kê, mô tả những dấu hiệu cơ bản. Như vậy, hiệu quả

Comment [M4]: Xem lại cách nối câu: Do...Như
vậy.

thực thi pháp luật cạnh tranh phục thuộc nhiều vào văn bản dưới luật. Từ thực
trạng đó, việc nghiên cứu pháp luật kiểm soát hành vi bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ có một ý nghĩa rất lớn về lý
1


thuyết cũng như thực tiễn áp dụng. Nó vừa hoàn thiện pháp luật chống hạn chế

Comment [M5]: Chú ý không sử dụng văn nói

cạnh tranh, vừa tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh để phục vụ cho nhu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ các phân tích ở trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Pháp luật về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh và thực tiễn thực
hiện” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình với mong muốn sẽ góp một
phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp
luật cạnh tranh nói chung, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh nói riêng. Qua đó, đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng hóa, cung

ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
2. Tình hình nghiên cứu
Cơ chế kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống thị trường nói chung và
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá
thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh nói riêng đươc hình thành từ khá
sớm trong lịch sử và dần trở thành nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật
cạnh tranh của mỗi quốc gia. Ở nước ta, sau khi Luật cạnh tranh ra đời năm
2004, đã có nhiều công trình nghiên cứu về doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu đã công bố
như: Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận giải các quy định của Luật
Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để
hạn chế cạnh tranh; Nguyễn Thị Bảo Nga (2012), Kiểm soát hành vi lạm dụng
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật Cạnh tranh Việt
Nam hiện nay; Đỗ Tuấn Lâm (2014), Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh
vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam…
2

Comment [M6]: Các nghiên cứu này là Đề tài
nghiên cứu khoa học hay bài báo, tạp chí... em cần
trích dẫn rõ hơn. Nếu là đề tài nghiên cứu khoa học
thì ghi rõ là thuộc thể loại nào, nghiên cứu ở đâu;
nếu là bài báo ghi rõ tên tạp chí, số đăng


Tuy nhiên cho đến này, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
chi tiết về pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
mặc dù đây là hành vi đang ngày càng diễn ra phổ biến với nhiều thủ đoạn tinh
vi của các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường. Khóa luận sẽ phân tích các quy
định của pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bá

hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ, thực trạng áp dụng pháp luật
và đưa ra một số giải pháp về vấn đề này nhằm góp phần tạo lập môi trường
cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Khóa luận hướng tới mục đích nghiên cứu các quy định của pháp luật cạnh
tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh, chỉ ra những
hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật cạnh tranh, từ đó đề xuất một
số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứ trên, bài viết đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến vị trí thống lĩnh,
vị trí độc quyền, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ dưới giá thành toàn bộ và pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ.
- Phân tích cơ chế kiểm soát của pháp luật đối với hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ.
- Nêu kinh nghiệm quốc tế trong kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

3



- Đánh giá thực trạng kiểm soát hành vi bán hàng hoám cung ứng dịch vụ
dưới giá thành toàn bộ, đặc biệt nêu và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng hóa, dịch vụ dưới giá
thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra
những bất cập, hạn chế và nguyên nhân;
- Kiến nghị một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng hóa, cung cứng dịch vụ
dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Trong bài viết này, người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Để áp ứng mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giải chỉ tập
trung giải quyết các vấn đề pháp lý trong kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại
bỏ đối thủ cạnh tranh. Từ đó người viết rút ra mặt tích cực, hạn chế và những
thiếu sót của những quy định pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh. Qua đó tạo cơ sở cho việc đánh giá đúng pháp luật và những kiến
nghị, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, bài viết sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin; chủ trường, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế
4


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, bài viết còn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: Phương pháp phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh pháp luật…để làm sáng tỏ mục tiêu và nội
dung nghiên cứu của đề tài.
6. Kết cấu của bài viết
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại
bỏ đối thủ cạnh tranh.
Chương 2: Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành
toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh.

Formatted: Vietnamese (Vietnam)

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HÀNH
VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH ĐỂ BÁN HÀNG HÓA, CUNG
ỨNG DỊCH VỤ DƯỚI GIÁ THÀNH TOÀN BỘ NHẰM LOẠI BỎ ĐỐI
THỦ CẠNH TRANH

1.1.

KHÁI QUÁT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH

THỊ TRƯỜNG
5


1.1.1. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh được xem như một trong những
vấn đề then chốt. Quá trình cạnh tranh giữa những người kinh doanh với nhau
đem đến một kết quả là sự xuất hiện của các chủ thể đạt được vị trí thống lĩnh và
vị trí độc quyền. Có thể nói, hai vị trí này mang đến rất nhiều quyền lực cho các
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, cho nên việc các doanh nghiệp mong
muốn và hướng đến việc có được hoặc duy trì vị trí thống lĩnh hay vị trí độc
quyền trong một lĩnh vực kinh doanh nào đó là điều rất hiển nhiên. Khi đã xác
lập được vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thì các doanh nghiệp lại luôn có xu
hướng lạm dụng vị trí đó để duy trì và nâng cao hơn nữa vị thế của mình trên
thương trường, để thao túng thị trường, dễ bề hành động và thu lợi nhuận tối đa.
Trong trường hợp như vậy, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền đã vi phạm pháp luật cạnh tranh và cần phải bị xử lý.
Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên hợp quốc được thông qua ngày 22 tháng
4 năm 1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của tổ chức hợp tác phát triển Liên hợp
quốc định nghĩa về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền bằng mục
đích hay khả năng duy trì và củng cố vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền của
doanh nghiệp thông qua hành vi hạn chế sự gia nhập thị trường của các doanh
nghiệp khác hay hạnh chế quá mức cạnh tranh.
Hiện nay, các văn bản có liên quan của Việt Nam không đưa ra khái niệm
cụ thể về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền. Luật cạnh tranh
Việt Nam năm 2004 chỉ liệt kê các hành vi được xem là lạm dụng vị trí thống

lĩnh, vị trí độc quyền tại Điều 13, Điều 14 và giải thích cụ thể từng hành vi trong
Nghị định 116/2005/NĐ – CP của Chính phủ ban hành ngày 15 tháng 9 năm
2005.
Ở mức độ khái quát có thể hiểu: Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền là hành vi của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh,
6


vị trí độc quyền sử dụng bằng mọi cách, mọi thủ đoạn để loại bỏ sự cạnh tranh,
loại bỏ và tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh khỏi “rào cản” phát triển của mình,
qua đó duy trì và nâng cao hơn nữa vị trí đó trên thương trường
Điều 13 Luật Cạnh tranh Việt Nam cũng quy định cụ thể các hành vi bị coi
là lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mà doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp có vị trí này bị cấm là:
- Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh của các nước gọi hành vi này là bán phá giá
– bán dưới giá vốn nhằm loại bỏ đối thủ cạnh trạnh. Đây là hành vi cạnh tranh
mang tính chất hủy diệt.
- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng. Đây là một hành vi cạnh tranh liên quan
đến yếu tố giá cả của hàng hóa, dịch vụ - một dạng phân biệt đối xử về giá.
- Hạn chế sản xuất, phân phối, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ
thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng. Đây là hành vi khống chế số
lượng hàng hóa, dịch vụ, hạn chế khách hàng, hạn chế thị trường địa lý, hạn chế
thị trường sản phẩm và hạn chế cách thức tiêu thụ sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh nhằm tạo ra sự mất ổn định của thị trường để các doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thu lợi nhuận bất chính. Hoặc là những hành vi
nhằm cản trở sự phát triển trong tương lai về kỹ thuật, công nghệ của đối thủ
cạnh tranh qua đó sẽ hạn chế sự cạnh tranh của chủ thể này.
- Áp dụng các điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau

nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh. Đây cũng là một hành vi cạnh tranh có
tính chất phân biệt đối xử về điều kiện thương mại để tạo ra ưu tiên cho một
hoặc một số khách hàng, qua đó họ có lợi thế hơn so với các đối thủ khác.

7


- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán hàng
hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp thuận các nghĩa vụ không liên
quan một cách trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Đây là hành vi cạnh tranh
không còn xa lạ đối với thị trường Việt Nam, nó diễn ra phổ biến trong các lĩnh
vực điện, nước, viễn thông, hàng không, đường sắt, bảo hiểm…Các doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền trong các lĩnh vực này thường áp đặt điều
kiện giao dịch từ trước buộc khách hàng của họ muốn giao dịch thì phái chấp
thuận toàn bộ các điều kiện đó.
- Ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ mới. Cạnh tranh chỉ
tồn tại khi không có sự độc quyền. Hành vi này nhằm duy trì thế thống lĩnh, thế
độc quyền với mục tiêu là thủ tiêu cạnh tranh bằng nhiều cách, chẳng hạn như
buộc khách hàng của họ không được quan hệ thương mại với các đối thủ cạnh
tranh mới trên thị trường liên quan, khiến các đối thủ này bị cô lập và rút lui
khỏi thị trường một cách “không song phẳng” hoặc lobby với cơ quan công
quyền để tạo ra rào cản về các điều kiện gia nhập thị trường để độc chiếm thị
trường, thu lợi nhuận bất chính.
Ngoài ra theo Điều 14 Luật Cạnh tranh nếu doanh nghiệp có vị trí độc
quyền thì ngoài các hành vi bị cấm ở trên còn bị cấm hai hành vi nữa đó là:
- Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
-Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy hợp đồng đã
giao kết mà không có lý do chính đáng
Với hai hành vi bổ sung này thể hiện thái độ khắt khe hơn của Nhà nước
đối với việc kiểm soát doanh nghiệp có vị trí độc quyền so với doanh nghiệp

hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh.
Việc Luật cạnh tranh xác định các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí
độc quyền như trên là tiếp thu và chỉnh lý có chọn lọc các hành vi bị coi là lạm
8


dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền của pháp luật cạnh tranh các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển. Đây là một bước tiến trong tư duy lập pháp và là
động thái tích cực của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đưa

Comment [M7]: Chứng minh? Toàn bộ phân tích
phía trên không thấy giới thiệu về khái niệm hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền

pháp luật cạnh tranh của chúng ta tiến dần đến chuẩn mực của thông lệ và pháp
luật quốc tế. Tuy nhiên, việc quy định các hành vi bị coi là hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh, vị trí độc quyền đó cũng không đủ sức để kiểm soát được tất cả
các hành vi có tính chất lạm dụng vị thế này trên thực tế mà các doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trong một số ngành đặc thù như bưu chính viễn
thông, điện lực, nước sạch, hàng không, đường sắt, than,…ở Việt Nam vẫn thực
hiện.
1.1.2. Đặc điểm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường liên quan. Hiện
nay, Luật cạnh tranh Việt Nam xác định vị trí thống lĩnh trên thị trường dựa trên
hai tiêu chí. Tiêu chí thứ nhất là tiêu chí thị phần của các doanh nghiệp trên thị
trường liên quan được đưa ra dựa trên phương pháp định lượng. Điều 11 Luật
cạnh tranh 2004 quy định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là doanh
nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hay nhóm doanh
nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây

hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây: Hai doanh
nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan; Ba doanh
nghiệp có tổng thị phần từ 65% trên thị trường liên; Bốn doanh nghiệp có tổng
thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan. Tiêu chí thứ hai được các nhà
làm luật đưa ra là tiêu chí mang tính chất định tính, theo đó doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp có khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể. Điều 22 Nghị định số 116/2005/NĐ – CP quy đinh các căn cứ
để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể bao gồm:

9

Formatted: Indent: Left: 0 mm, First line:
10 mm, Tab stops: 15 mm, Left


1, Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
2, Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
3, Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi
phối hoạt động của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ
doanh nghiệp.
4, Năng lực tài chính của công ty mẹ.
5, Năng lực công nghệ.
6, Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
7, Quy mô của mạng lưới phân phối.
Đối với doanh nghiệp có vị trí độc quyền, Điều 12 Luật cạnh tranh 2004
quy định: “Doanhh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên
thị trường liên quan”.
Hiện nay để xác định các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay độc quyền
cơ quan thực thi luật cạnh tranh Việt Nam chủ yếu dựa trên thị phần. Tuy nhiên

có thể thấy ngoài thị phần mà doanh nghiệp nắm giữ, việc xác định liệu một
doanh nghiệp có đạt được vị trí thống lĩnh hay không còn được xác định dựa
trên những yếu tố khác là rào cản gia nhập thị trường, ví dụ như sức mua của
người tiêu dùng, khả năng tiếp cận nguồn vốn, khoa học công nghệ…
Thứ hai, hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đã hoặc đang
thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định hoặc mô tả trong
pháp luật cạnh tranh.
Các hành vi hạn chế cạnh tranh mà các doanh nghiệp thường thực hiện là
các hành vi bóc lột khách hàng, chèn ép đối thủ, ngăn cản sự gia nhập thị trường
của các đối thủ tiềm năng nhằm thu được nhiều lợi nhuận, giữa vị trí thống lĩnh
10

Formatted: Indent: Left: 0 mm, First line:
10 mm, Tab stops: 15 mm, Left


trên thị trường. Đó là những hành vi cản trở cạnh tranh lành mạnh, không để cho
cạnh tranh phát huy vai trò tích cực của nó trên thị trường. Những hành vi này
dần dần sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến khách hàng, các doanh nghiệp và xa hơn
nữa là làm cho thị trường mất cân bằng, mất cạnh tranh bình đẳng và không phát
triển được.
Pháp luật Việt Nam hiện nay không có định nghĩa cụ thể về hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền là gì. Chúngmà chỉ được định hình
dưới dạng liệt kê các hành vi thông qua Điều 13 và Điều 14 Luật cạnh tranh
2004 và được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định 116/2005/NĐ – CP của Chính phủ
ngày 15 tháng 9 năm 2005. Quy định này cho thấy rằng, chỉ các hành vi được
ghi nhận trong các điều luật này mới được xem là hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh hay vị trí độc quyền.
Ngoài những hành vi đã được liệt kê, do sự phát triển đa dạng, nhanh
chóng của thị trường và để điều chỉnh các hành vi mang bản chất lạm dụng vị trí

thống lĩnh, vị trí độc quyền mà pháp luật chưa kịp quy định, pháp luật một số
nước và khu vực như Pháp, Canada, EU… đã có quy định các hành vi có thể bị
xem xét về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nếu thỏa mãn các đặc
điểm hoặc các điều kiện đã được mô tả trong luật nhằm hạn chế tối đa tình trạng
lách luật của các doanh nghiệp.
Các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường luôn được thực hiện trên một
thị trường liên quan và việc xác định thị trường liên quan là một trong những
bước quan trọng đầu tiên khi các cơ quan có thẩm quyền xác định vị trí thống
lĩnh và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp.
Các hành vi của doanh nghiệp do chính doanh nghiệp thực hiện một cách
độc lập, dù trong trường hợp hành vi lạm dụng do nhóm doanh nghiệp thực hiện
thì các doanh nghiệp trong nhóm cũng không có sự thỏa thuận trước với nhau về

11


việc cùng thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc áp dụng các chính sách
giống nhau đối với khách hàng.
Thứ ba, hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là làm sai lệch,
cản trở hoặc làm giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan.
Rõ ràng, khi doanh nghiệp có được vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền, họ
sẽ có nhiều cơ hội hơn để tạo ra được một rào cản gia nhập từ phía các đối thủ
khác bởi khả năng chi phối đến các khâu trong quá trình sản xuất cho đến thị
trường đầu ra. Vì lí do nắm giữ một thị phần lớn trên thị trường; hoặc thậm chí
là một mình bán một loại hàng hóa, dịch vụ mà không có đối thủ cạnh tranh với
một số lượng khách hàng lớn, các công ty có được vị trí thống lĩnh hay vị trí độc
quyền trở thành những doanh nghiệp đi đầu, và họ có được những ưu thế rất lớn
trong quá trình kinh doanh. Việc nắm giữ được quyền lực thị trường khiến cho
họ có thể duy trì được mức giá trên giá cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận.
Vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền là thứ tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp

đạt được lợi nhuận tối đa. Chính vì thế mà việc chiếm được vị trí thống lĩnh hay
vị trí độc quyền luôn luôn là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Chỉ có
thể chống lại sự lạm dụng quyền lục thị trường thành công khi và chỉ khi pháp
luật và người thi hành nó xác định được những hành vi cụ thể có thể gây hại cho
cạnh tranh và đánh giá được những tác động toàn diện của chúng trên thị trường
có liên quan (chính sách cạnh tranh của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD). Các doanh nghiệp có thể tìm mọi cách để đạt được sức mạnh thị
trường, bằng cách ngăn cản các đối thủ khác tham gia vào quá trình kinh doanh,
ngăn cản họ tiếp cận với người tiêu dùng, hay thậm chí là có thể ép buộc người
tiêu dùng lệ thuộc vào mính. Quá trình lạm dụng các vị trí này khiến cho việc
cạnh tranh giữa các đối thủ bị mất đi và quyền lợi của người tiêu dùng bị xâm
phạm.

12

Formatted: Indent: Left: 0 mm, First line:
10 mm, Tab stops: 15 mm, Left


1.2.

NHU CẦU KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG

LĨNH THỊ TRƯỜNG ĐỂ BÁN HÀNG HÓA, CUNG ỨNG DỊCH VỤ DƯỚI
GIÁ THÀNH TOÀN BỘ NHẰM LOẠI BỎ ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
1.2.1. Đặc trưng của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh
Có nhiều tên gọi khác nhau cho hành vi này như: hành vi ép giá, hành vi
định giá mang tính cưỡng đoạt, bán phá giá độc quyền,...


Comment [M8]: Hành vi nào? Viết câu rõ ra,
đừng dùng lối nói tắt như vậy. Đoạn trên là đề mục,
ngay câu đầu tiên em đã viết như vậy thì không
chấp nhận được

Về hình thức, hành vi này được thể hiện thông qua hiện tượng giá bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ được ấn định với mức giá bất thường là dưới giá thành
toàn bộ. Ta so sánh giá của hàng hóa, dịch vụ và giá thành toàn bộ của nó, nếu
giá bán thực tế của nó thấp hơn giá thành toàn bộ thì sự vi phạm xảy ra. Theo
Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014 “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một

Comment [M9]: Em dùng quá nhiều văn nói,
Ta/Nó... Rà soát lại toàn bộ luận văn, cực kỳ hạn chế
sử dụng văn nói
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Formatted: Vietnamese (Vietnam)

số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Ta thấy
mục đích chính của việc kinh doanh là đem lại lợi nhuận, các doanh nghiệp luôn

Formatted: Vietnamese (Vietnam)

muốn tranh thủ được lợi nhuận tối đa có thể. Thế nhưng hành vi trên cho thấy
bản chất phi kinh tế của nó. Doanh nghiệp chấp nhận lỗ hoặc hy sinh lợi nhuận,
tức là doanh nghiệp muốn tạm hướng tới một mục đích khác. Mục đích đó là
tăng dần sản lượng, tăng thị phần, và sẽ là sự lựa chọn của khách hàng khi sử
dụng hàng hóa, dịch vụ đó
Về mục đích, hành vi này nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Điều này thể
hiện rõ bản chất lạm dụng kinh tế khác để duy trì mức giá phi kinh tế. Giai đoạn

này, khách hàng là người được hưởng lợi. Có nhiều quan điểm kinh tế học cho
rằng, trong giai đoạn này, mức giá dưới chi phí là không bị lên án. Nó bị lên án
ở giai đoạn sau khi mà loại bỏ được đối thủ cạnh tranh giá cả sẽ tăng vọt cao. Sự
nguy hiểm của hành vi này thể hiện ở hậu quả thay đổi tình trạng và cấu trúc thị
trường ở hiện tại và tương lai gần, có thể tiến tới xác lập vị trí độc quyền hoặc
13

Comment [M10]: Đây là câu mở đầu của 1 đoạn
mới, em sử dụng đại từ thay thế như vậy là không
phù hợp. Đề nghị diễn đạt lại


củng cố vị trí hiện có. Khi các đối thủ cạnh tranh không thể duy trì mức giá phi
kinh tế đó, đồng nghĩa với việc rút khỏi thị trường thì mặc nhiên Doanh nghiệp
được suy đoán là sẽ bóc lột khách hàng bằng cách tăng giá hoặc giảm sản lượng
cung ứng để tác động đến giá.
Trong điều kiện nền kinh tế mới chuyển đổi, nước ta chưa có nhiều doanh
nghiệp có quyền lực thị trường từ quá trình tích lũy trong cạnh tranh. Doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước. Các
Doanh nghiệp này thường dựa vào quyền lực thị trường trên cơ sở “một mệnh
lệnh hành chính” để thu lợi nhuận hay sử dụng cơ sở vật chất để gây khó khăn
cho đối thủ mà không phải chấp nhận lỗ. Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh chủ yếu là do các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Với thế lực tài chính hùng hậu, chúng

Formatted: Vietnamese (Vietnam)

thường chấp nhận lỗ trong thời gian đầu để chiếm lĩnh thị trường.
 CĂN CỨ XÁC ĐỊNH HÀNH VI:
Để xác định vi phạm của hành vi này chỉ dựa vào hình thức. Cụ thể, Điều


Comment [M11]: Diễn đạt
Formatted: Vietnamese (Vietnam)

23, NĐ116/2005/NĐ-CP:

Comment [M12]: Không viết tắt

Trừ những trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này, bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ với mức giá thấp hơn tổng các chi phí dưới đây:
+ Chi phí cấu thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại Điều 24
của Nghị định này hoặc giá mua hàng hóa để bán lại;

Comment [M13]: Không viết tắt

+ Chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại Điều 25 Nghị định
này

Comment [M14]: Không viết tắt

Như vậy, Ccăn cứ để xác định hành vi định giá để loại bỏ đối thủ làbao
gồm: giá bán hàng hóa, dịch vụ và giá thành toàn bộ của hàng hóa, dịch vụ
đó. Cụ thể:

Formatted: Vietnamese (Vietnam)

14



(i) Xác định giá bán hàng hóa, dịch vụ:

Formatted: No underline, Vietnamese
(Vietnam)

Giá bán hàng hóa, dịch vụ là giá bán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đó. Tuy
nhiên quy định trên tưởng đơn giản lại có không ít vướng mắc. Trước hết Luật
và Nghị định hướng dẫn chưa hướng dẫn thế nào là giá bán thực tế của sản

Formatted: List Paragraph, Indent: Left: 0
mm, First line: 10 mm, Numbered + Level: 1
+ Numbering Style: i, ii, iii, … + Start at: 1 +
Alignment: Left + Aligned at: 20 mm + Indent
at: 32.7 mm, Tab stops: 15 mm, Left
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Comment [M15]: Luật gì? Nghị định nào?

phẩm. Tức là giá bán thực tế này là giá bán ở khâu nào của sản phẩm: giá bán lẻ
hay giá bán cho nhà phân phối đầu tiên. Nếu một doanh nghiệp vừa trực tiếp bán
lẻ vừa bán cho đại lý thì lựa chọn giá nào.
Do tính phức tạp của thị trường nên Luật không thể đưa ra được khuôn mẫu

Comment [M16]: Luật nào

chính xác cho tất cả trường hợp. Điều này cũng có nghĩa cơ quan thực thi có
nhiều lựa chọn hơn trong quá trình điều tra, nhưng tính chính xác của nó sẽ
không được luật kiểm chứng.
(ii)

Xác định giá thành sản xuất toàn bộ


Formatted: No underline

Giá thành sản xuất toàn bộ là mức giá cơ bản được cấu thành từ các chi phí
cơ bản phát sinh trong quá trình sản xuất lưu thông… và được các doanh nghiệp
sử dụng làm căn cứ xác định giá bán hàng hóa, dịch vụ của mình. Nhiệm vụ của
cơ quan điều tra là xác định được giá thành sản xuất toàn bộ thông qua chuyên
môn nghiệp vụ của mình.
Theo Nghị Định 116/2005/ NĐ-CP, giá thành toàn bộ là tổng các chi phí
sau: chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ hoặc giá mua hàng
hóa để bán lại; và chi phí lưu thông hàng hoá, dịch vụ:
+ Chi phí vật tư trực tiếp: Gồm các chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên
liệu và động lực tiêu dung trực tiếp cho sản xuất sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm các khoản trả cho người lao động trực
tiếp sản xuất như tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương,

15

Formatted: List Paragraph, Indent: Left: 0
mm, First line: 10 mm, Numbered + Level: 1
+ Numbering Style: i, ii, iii, … + Start at: 1 +
Alignment: Left + Aligned at: 20 mm + Indent
at: 32.7 mm, Tab stops: 15 mm, Left


chi ăn ca, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn của công
nhân trực tiếp.
+ Chi phí sản xuất chung: Gồm các khoản chi phí chung phát sinh ở các
phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, phụ cấp, ăn

trưa trả cho nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ sản xuất
dung cho phân xưởng, khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê nhà xưởng, chi phí
dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền ngoài các chi phí kể trên.
Cùng với chi phí cấu thành giá thành, chi phí lưu thông hàng hóa cũng là
chi phí quan trọng quyết định giá thành toàn bộ. Đây là loại chi phí có độ co
giãn rất cao, do có nhiều yếu tố có thể tác động đến nó như: tính chất của hàng
hóa, dịch vụ; tính chất chi cắt thị trường; phương tiện vận chuyển; khoảng cách
giữa các vùng thị trường… Loại chi phí này được xác định dựa vào căn cứ kế
toán của doanh nghiệp, bao gồm: Tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho
nhân viên bán hàng; hoa hồng đại lý, hoa hồng môi giới; tiếp thị; đóng gói; bao
bì; vận chuyển; bảo quản; khấu hao tài sản cố định; vật liệu; dụng cụ; đồ dung;
bốc dỡ hàng hóa; dịch vụ mua ngoài; chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
kinh phí công đoàn cho nhân viên bán hàng theo quy định của pháp luật; chi lãi
vay vốn doanh nghiệp; chi phí quản lý doanh nghiệp được phân bổ cho việc lưu
thông hàng hóa, dịch vụ; chi phí bảo hành sản phẩm; chi phí quảng cáo; các chi
phí bằng tiền khác theoo quy định của pháp luật.
Do Vviệc xác định giá thành toàn bộ chủ yếu dựa vào sổ sách kế toán. Vậy
nên độ chính xác của những thông số trên phụ thuộc rất nhiều vào sự minh bạch,
tính trung thực của hoạt động kế toán. Đây cũng là một trong những khó khăn
của cơ quan thực thi pháp luật trong thực trạng hoạt động kế toán hiện nay.
Formatted: List Paragraph, Indent: Left: 0
mm, First line: 10 mm, Bulleted + Level: 1 +
Aligned at: 16.3 mm + Indent at: 22.7 mm,
Tab stops: 15 mm, Left

 XÁC ĐỊNH HÀNH VI LOẠI BỎ ĐỐI THỦ
Trên cơ sở xác định giá bán hàng hóa, dịch vụ và giá thành toàn bộ của
hàng hóa, dịch vụ, để xác định hành vi định giá để loại bỏ đối thủ thực hiện theo
16


Formatted: Font: (Default) Times New
Roman, 14 pt
Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Vietnamese (Vietnam)


công thức sauCông việc cuối cùng sau khi có kết luận về hai loại giá trên là so

Formatted: Vietnamese (Vietnam)

sánh chúng:
Mức chênh lệch = Giá thành toàn bộ - Giá sản phẩm
Theo đó, Nnếu kết quả có được là con số dương tức là có hành vi định giá
để loại bỏ đối thủsự vi phạm xảy ra và ngược lại.

Formatted: Indent: Left: 0 mm, First line:
10 mm, Tab stops: 15 mm, Left
Formatted: Vietnamese (Vietnam)

Tuy nhiên, pháp luật cũng miễn trừ một số trường hợp mà có hiện tượng

Formatted: Indent: Left: 0 mm, Tab stops:
15 mm, Left

bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ mà không có mục đích
loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Để được miễn trừ, doanh nghiệp phải niêm yết giá
công khai, rõ ràng tại cửa hàng, nơi giao dịch về việc hạ giá sản phẩm, mức giá
cũ, mức giá mới và thời gian hạ giá. Các trường hợp được miễn trừ, cụ thể:

Formatted: Vietnamese (Vietnam)


+ Hạ giá bán hàng hóa tươi sống;
+ Hạ giá bán hàng hóa tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức,
không phù hợp với thị hiếu người tiêu dung;
+ Hạ giá bán hàng hóa theo mùa vụ;
+ Hạ giá bán hàng hóa trong chương trình khuyến mại theo quy định của
pháp luật;
+ Hạ giá bán hàng hóa trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt
động sản xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh
doanh;
+ Các biện pháp thực hiện chính sách bình ổn giá của nhà nước theo quy
hiện hành của pháp luật về giá.
1.2.2. Sự cần thiết phải kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh

17


Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với các
doanh nghiệp cạnh tranh và khách hàng của họ, có thể xa hơn nữa là gây nguy
hại đến sự cạnh tranh trên thị trường, ảnh hưởng đến lợi ích công cộng. Những
mối nguy hại này chính là nguyên nhân khiến Nhà nước cần can thiệp vào hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Khác với các vụ việc dân sự, kinh tế
thông thường luôn yêu cầu phải có một bên đưa ra thì các cơ quan đại diện Nhà
nước mới can thiệp vào mối quan hệ giữa các bên, vụ việc liên quan đến hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh có thể được cơ quan nhà
nước can thiệp bất cứ lúc nào nếu phát hiện có dấu hiệu của hành vi. Việc phát

hiện này có thể xuất phát từ phản ánh của khách hàng, người dân, các doanh
nghiệp khác, các phương tiện truyền thông hoặc chính từ các cơ quan quản lý
cạnh tranh. Tùy thuộc vào cách nhìn nhận, sự điều chỉnh và các chính sách đối
với nền kinh tế ở mỗi quốc gia, khu vực mà pháp luật cạnh tranh sẽ điều chỉnh
hành vi lạm dụng ở các mức độ khác nhau. Quốc gia, khu vực nào xem trọng
tính hiệu quả kinh tế thì hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh sẽ được đánh giá
bằng nguyên tắc hợp lý, tức hành vi lạm dụng của doanh nghiệp mang lại hiệu
quả kinh tế lớn hơn so với thiệt hại mà nó gây ra thì cùng với việc xem xét lợi
ích của khách hàng, của các doanh nghiệp khác thì hành vi này có thể được xem
xét chấp nhận. Ngược lại những quốc gia khu vực muốn đảm bảo tuyệt đối sự
cạnh tranh lành mạnh cho nên kinh tế, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của doanh
nghiệp, cá nhân thì họ có thể áp dụng các biện pháp điều tra, xử lý đối với hành
vi ngay khi nó xuất hiện, dù nó có mang lợi ích kinh tế lớn hơn thiệt hại mà nó
gây ra cho các chủ thể khác trên thị trường. Đây được gọi là nguyên tắc xử lý
coi hành vi lạm dụng có sự nguy hại tất yếu.
Bản thân doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường không phải là đối
tượng kiểm soát của pháp luật cạnh tranh. Pháp luật chỉ can thiệp khi các doanh
nghiệp này thực hiện các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của mình. Sự can
18

Formatted: Indent: Left: 0 mm, Tab stops:
15 mm, Left


thiệp này xuất phát từ những tác động tiêu cực, hậu quả nặng nề của hành vi đối
với các chủ thể trong nền kinh tế, thậm chí là cả nền kinh tế. Những đối tượng
chủ yếu chịu tác động của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh bao gồm:
Khách hàng, các doanh nghiệp khac trên thị trường, chính bản thân doanh
nghiệp và nền kinh tế.

Thứ nhất, khách hàng là đối tượng của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh,
vị trí độc quyền để bán hàng hóa, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh được hiểu là những chủ thể đang mua, đang sử dụng sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và mang lại nguồn thu cho doanh nghiệp hoặc
đang có sự quan tâm, tìm hiểu về sản phẩm của doanh nghiệp để mua các sản
phẩm đó. Khách hàng là yếu tố có tác động đến sự sống còn của doanh nghiệp
bởi đây chính là đối tượng sẽ tiêu thụ sản phẩm, mang lại nguồn thu, lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp mới thành lập, có nhiều đối thủ
cạnh tranh, đang nỗ lực giành lấy thị phần, thì địa vị của khách hàng có thể được
xem như là cao hơn so với doanh nghiệp và các yêu cầu của khách hàng sẽ đòi
hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng. Mối quan hệ này sẽ theo hướng ngược lại nếu
doanh nghiệp đã có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan. Khách hàng có thể
chấp nhận sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh dù giá cao hơn các sản phẩm cùng loại trên thị trường liên quan do thói
quen, hoặc do mức độ phổ biến của sản phẩm trên thị trường. Chính vì vậy,
nhiều doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đã có những hành vi lợi dụng
những ưu thế trên để thu lợi tối đa từ khách hàng mà những hành vi này đã xâm
hại đến lợi ích của khách hàng. Để bảo vệ quyền lợi của khách hàng, pháp luật
cần phải có các quy định để hạn chế sự lạm dụng của doanh nghiệp thống lĩnh
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ. Hầu hết các hệ thống
pháp luật cạnh tranh trên thế giới đều có quy định về vấn đề này để đảm bảo
được rằng doanh nghiệp dù có vị trí thống lĩnh cũng phải tuân thủ nguyên tắc

19

Formatted: Indent: Left: 0 mm, First line:
10 mm, Tab stops: 15 mm, Left


chung của thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để làm hài lòng

khách hàng.
Thứ hai, đối với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Phần lớn các hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là nhằm vào các đối thủ cạnh tranh của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Các đối thủ cạnh tranh ở đây là các doanh
nghiệp cùng hoạt động trên thị trường liên quan. Dù có đạt được vị trí thống lĩnh
trên thị trường liên quan rồi thì doanh nghiệp vẫn đứng trước nguy cơ bị các
doanh nghiệp khác chiếm mất vị trí đó để trở thành doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh mới – đó là quy luật tất yếu và chính là động lực thúc đẩy sự phát triển thị
trường. Vì vậy, các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường luôn phải đau đầu nghĩ
cách loại bỏ đối thủ canh tranh để duy trì lợi thế của mình. Các hành vi lạm
dụng thường được áp dụng là các biện pháp về giá, đặc biệt là bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ, khiến các doanh nghiệp khác không
tiêu thụ được sản phẩm và bị loại bỏ thị trường. Hành vi này khiến cho doanh
nghiệp nhỏ hơn dù chất lượng sản phẩm tốt, giá thành có rẻ cũng khó tiếp cận
được với khách hàng trên thị trường. Điều này gây ra sự bất bình đẳng giữa các
doanh nghiệp mà đối tượng chịu thiệt sẽ là các doanh nghiệp nhỏ hơn.
Thứ ba, đối với bản thân doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường: Việc
thực hiện hành vi lợi dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh sẽ gây hại đến chính bản
thân các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh có
thể sẽ không đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất vì ỷ lại vào vị trí
thống lĩnh của mình hoặc do quá tập trung vào các hành vi loại bỏ đối thủ khác.
Một khi xuất hiện một doanh nghiệp lớn gia nhập thị trường hoặc thị trường có
sự thay đổi về nhu cầu thì doanh nghiệp sẽ không thích ứng được, không chống
chọi được và sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, thậm chí dẫn tới phá sản. Mặt khác,
hành vi lạm dụng khiến doanh nghiệp mất uy tín với khách hàng và các đối tác.

20



Thứ tư, đối với nền kinh tế, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ làm ảnh hưởng đến cạnh tranh trên
thị trường, tác động tiêu cực đến các quy luật của thị trường vì các nguồn lực
kinh tế không thật sự tập trung vào các doanh nghiệp có khả năng. Điều này đã
làm sai lệch sự vận động của thị trường, gây ra sự hỗn loạn và làm thị trường
mất đi sự ổn định, nhịp nhàng vốn có. Ngoài ra, hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ gây hao phí
nguồn lực kinh tế vì doanh nghiệp không sử dụng các nguồn lực kinh tế vào đầu
tư kỹ thuật, mở rộng sản xuất, việc dồn các nguồn lực tài chính vào các hoạt
động nhằm hạn chế cạnh tranh, chèn ép đối thủ và khách hàng khiến chô nguồn
lực bị phân bổ một cách sai lầm, gây tổn hại đến các hoạt động khác.
Như vậy, từ những tác động tiêu cực và các nguy cơ mà hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành
toàn bộ mang lại, pháp luật hầu hết các nước đều đưa ra các văn bản pháp luật
hoặc các quy định cụ thể nằm trọng các ngành luật khác nhau để có thể kiểm
soát hiệu quả hành vi này, nhằm duy trì sự ổn định, tính cạnh tranh bình đẳng
giữa các doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, để đảm bảo sự cạnh tranh lành
mạnh của thị trường và có biện pháp chế tì áp dụng khi có hành vi vi phạm xảy
ra, Nhà nước sẽ là chủ thể đặt ra các biện pháp nhằm kiểm soát hành vi lạm
dụng này thông qua hệ thống các cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ quan
quản lý về cạnh tranh.
1.3.

Các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để

bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh
Theo kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển,
Nhằm đảm bảo để để quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế được diễn ra sinh
động , hiệu quả, kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát

triển là phải sử dụng nhiều biện pháp để quản lý và kiểm soát, trong đó, hiệu quả
21


nhất là biện pháp pháp luật. Các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ bao gồm:
Thứ nhất, các biện pháp về hành chính – kinh tế:

Formatted: Vietnamese (Vietnam)

Đây là các biện pháp được áp dụng thường xuyên để kiểm tra cấu trúc thị
trường, các quan hệ ứng xử trên thị trường; kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ. Các công
cụ chủ yếu được thực hiện bao gồm:
- Kiểm soát quá trình thành lập, chia tách các doanh nghiệp thông qua
chính sách phát triển ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, quá trình thành lập
và tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp;
- Kiểm soát hoạt động và xu thế tăng trưởng của các doanh nghiệp thông
qua chính sách thuế. Các doanh nghiệp độc quyền, thường phải chịu mức thuế
suất rất cao nhằm điều tiết thu nhập. Chính sách thuế cũng áp dụng đối với
trường hợp bán giá thấp hơn giá quy định mà không có căn cứ hợp pháp…
- Kiểm soát giá cả với mục tiêu là Nhà nước ngăn cấm và giảm bớt quyền
tự định giá của các doanh nghiệp có vị trí độc quyền nhằm khắc phục tình trạng
các doanh nghiệp này lạm dụng vị thế để tăng, giảm giá sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ gây thiệt hại cho người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích xã hội;
- Thực hiện điều chỉnh độc quyền bằng các biện pháp mang tính hành
chính nhà nước nhằm ngăn cản sự lạm dụng quá mức vào vị trí và ưu thế của
các doanh nghiệp độc quyền như: Quy định về tổ chức, hoạt động kinh doanh và
phân phối lợi ích của các doanh nghiệp có vị trí độc quyền; quy định về danh
mục và số lượng sản phẩm, hàng hóa được phép sản xuất và lưu thông; quy định

các điều kiện về kiểm soát quy định đầu vào, đầu ra, tiêu chuẩn, chất lượng của
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cũng như giá cả lưu thông của các sản phẩm này.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng quy định rõ về yêu cầu bảo vệ môi trường,
chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách đối với người lao động, an toàn
lao động, phát triển thị trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…Quy định
công khai hóa hoạt động, chi phí sản xuất và lợi nhuận của các doanh nghiệp có
22


vị trí thống lĩnh; thiết lập chế độ giám sát của Nhà nước, của xã hội và người
tiêu dùng đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mang tính độc quyền.
Thứ hai, ban hành pháp luật, hướng dẫn thi hành pháp luật cạnh tranh:
Các quy định của pháp luật cạnh tranh được coi như công cụ trực tiếp, hiệu
quả nhất trong ta Nhà nước nhằm kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
để bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh. Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều ban hành
Luật cạnh tranh để điều tiết các quan hệ cạnh tranh trong nền kinh tế đặc biệt là
để kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh trong đó có hành vi bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ với mức giá gây lỗ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Với tư
cách là quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh trực tiếp các quan
hệ xã hội trong quá trinh trình tiến hành hoạt động cạnh tranh kinh tế pháp luật
quy định rõ về giới hạn cho phép của các hành vi cạnh tranh, quy định quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia cạnh tranh, từ đó khuyến khích cạnh tranh
lành mạnh, ngăn cấm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG BÁN HÀNG HÓA, CUNG ỨNG DỊCH
VỤ DƯỚI GIÁ THÀNH TOÀN BỘ NHẰM LOẠI BỎ ĐỐI THỦ CẠNH
TRANH
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT HÀNH

VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG ĐỂ BÁN HÀNG HÓA,
CUNG ỨNG DỊCH VỤ DƯỚI GIÁ THÀNH TOÀN BỘ NHẰM LOẠI BỎ
ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
2.1.1. Xác định vị trí thống lĩnh thị trường để bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
Xác định vị trí thống lĩnh thị trường là một trong những nội dung cơ bản
của chế định pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
23


để hạn chế cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh của các nước có những cách tiếp cận
khác nhau về khái niệm và cách thức xác định vị trí thống lĩnh thị trường của
doanh nghiệp do sự tập trung tư bản ở các lĩnh vực và đặc điểm kinh tế - xã hội
ở các nước là khác nhau.
Luật cạnh tranh các nước đều lấy thị phần là yếu tố đầu tiên để xác định
một doanh nghiệp nào đó đã đạt đến vị trí thống lĩnh thị trường hay chưa và có
thể coi thị phần là yếu tố quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, mức thị phần cụ thể
mà doanh nghiệp nắm giữ lại có sự khác nhau giữa các nước. Ví dụ, theo Luật
bảo vệ cạnh tranh của Croatia thì doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh
thị trường nếu thị phần doanh nghiệp đó vượt quá 30%; Luật cạnh tranh của
Canada là 35%; Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Mông Cổ, Luật
bảo vệ cạnh tranh kinh tế của Ucraina là 50%, Luật cạnh tranh của Pháp là
80%... Nếu là nhóm doanh nghiệp, Luật bảo vệ cạnh tranh của Croatia xác định
mức thị phần là 50% đối với hai doanh nghiệp, 60% đối với ba doanh nghiệp và
75% đối với bốn doanh nghiệp…
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp nếu chỉ dựa vào yếu tố thị phần để kết
luận một doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp nào đó đã đạt đến vị trí thống lĩnh
thị trường chưa hẳn đã chuẩn xác, do đó, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới chú trọng cách đáng giá trên tiêu chí, ngoài yếu tố thị phần còn dựa vào các
yếu tố như doanh thu hàng năm, năng lực hay sức mạnh tài chính; quy mô nhân

sự, mạng lưới phân phối và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ; khả năng gia nhập thị
trường của các đối thủ tiềm năng… Ví dụ Khoản 7, Điều 2 của Luật Thương
mại lành mạnh và những quy định về độc quyền năm 1980 (gọi tắt là Luật
Thương mại Hàn Quốc) có quy định: “Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị
trường là bất kỳ người mua, người bán trong một lĩnh vực thương mại nhất định
và nắm giữ vai trò thống lĩnh thị trường để ấn định, duy trì hoặc thay đổi giá cả,
khối lượng, chất lượng và các điều kiện thương mại khác hoặc trên cơ sở độc
lập, hoặc trên cơ sở câu kết với các doanh nghiệp khác. Khi xét đoán các doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường, cần phải tính đến các yếu tố như thị phần, sự tồn
24


tại và quy mô của rào cản đối với việc thâm nhập thị trường và các quy mô
tương đối của các doanh nghiệp cạnh tranh”. Quy định này chỉ ra vị trí thống
lĩnh thị trường có thể thuộc một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp
cùng hành động. Các doanh nghiệp này có khả năng kiểm soát thực tế hoặc tiềm
năng đối với thị trường liên quan mà doanh nghiệp đó đang hoặc sẽ hoạt động.
Và việc xem xét vị trí thống lĩnh thị trường sẽ căn cứ trên nhiều tiêu chí thị
phần, quy mô rào cản theo khả năng thực tế của doanh nghiệp trên thị trường.
Luật cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam không đưa ra khái niệm cụ thể thế
nào là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, mà
chỉ quy định các trường hợp có vị trí thống lĩnh và căn cứ để xác định vị trí
thống lĩnh thị trường theo Điều 11 thông qua phương pháp định lượng (xác định
thị phần của chúng trên thị trường liên quan) và phương pháp định tính (có khả
năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể).
Thứ nhất, xác định theo thị phần của doanh nghiệp
Khoản 5 Điều 3 Luật cạnh tranh quy định: “Thị phần của doanh nghiệp đối
với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán
ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm”.

Như vậy, căn cứ để xác định thị phần là (i) tổng doanh thu hoặc doanh số của tất
cả các doanh nghiệp cùng trên một thị trường liên quan; (ii) doanh thu hoặc
doanh số của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp bị điều tra. Doanh thu, doanh
số mua vào đối với một loại hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp được xác định
theo quy định của pháp luật về thuế, chuẩn mực kế toán Việt Nam.
Luật cạnh tranh Việt Nam đưa ra bốn mức thị phần quan trọng tương ứng
với số lượng doanh nghiệp là 30% (một doanh nghiệp); 50% (hai doanh nghiệp);
65% (ba doanh nghiệp); 75% (bốn doanh nghiệp). Cơ sở để đề xuất mức thị
phần như trên là dựa vào thực tiễn thị trường Việt Nam, trong đó, có 96% doanh
nghiệp tham gia kinh doanh là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, số doanh
nghiệp có được thị phần là 30% trở lên không phải là nhiều.
25


×