MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU ..........................................................................................................2
1.1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................3
2. NỘI DUNG.......................................................................................................4
2.1.
Cơ
sở
lí
luận....................................................................................................4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm........................4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..............................................6
2.3.1. Hình thành động cơ học tập môn học Thể dục cho học sinh..................6
2.3.2. Tìm hiểu đặc điểm sức khỏe, tâm sinh lý lứa tuổi.................................7
2.3.3. Nghiên cứu kỹ nội dung, bài giảng phải súc tích, khoa học. ..................7
2.3.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực ............7
2.3.5. Tổ chức các hình thức tập luyện phong phú, phù hợp, hấp dẫn..........8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường...........................................................................................9
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục.......................................................................9
2.4.2. Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường...........................................10
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...............................................................................11
3.1. Kết luận........................................................................................................11
3.1.1. Bài học kinh nghiệm..................................................................................11
3.1.2. Khả năng ứng dụng và phát triển sáng kiến kinh nghiệm.........................11
3.2. Kiến nghị......................................................................................................11
3.2.1. Đối với đồng nghiệp..................................................................................12
3.2.2. Đối với các cấp lãnh đạo...........................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................14
1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Điều 23 - Luật Giáo dục năm 2005 đã xác định: "Mục tiêu của giáo dục
phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân..."[1]
Để thực hiện được điều đó, các môn học, hoạt động giáo dục trong nhà
trường đều có ý nghĩa, vai trò nhất định. Trong đó, môn Thể dục có vai trò quan
trọng và trực tiếp trang bị cho học sinh một số kiến thức, kỹ năng phương pháp
luyện tập, nhằm giúp học sinh biết rèn luyện thể thao, từ đó có đủ sức khoẻ và
trí thông minh để hoàn thành với hiệu quả cao nhiệm vụ học tập hiện tại và lao
động xây dựng, bảo vệ Tổ quốc sau này. Môn học Thể dục còn giúp thế hệ trẻ có
lối sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỉ luật, tinh thần tập thể... là tiền đề
hình thành nhân cách.
Tuy nhiên, trong thực tế dạy và học, vai trò môn Thể dục từ trước đến nay
chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn như nó vốn có. Ở cấp THPT, học sinh
chịu nhiều áp lực bởi chương trình học nặng hơn cũng như lo lắng nhiều cho
việc thực hiện ước mơ, hoài bão bằng con đường thi cử. Do đó, trong tất cả các
giờ học Thể dục ở trường THPT nói chung và trường THPT Triệu Sơn 5 nói
riêng, các em học sinh thường "học đối phó", tiếp thu bài một cách thụ động, lập
đi lập lại một cách máy móc, thiếu sự tích cực trong tập luyện, nhiều học sinh
còn lơ là, thiếu sự tập trung.
Vậy làm thế nào để phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh ở giờ
học Thể dục? Đây là một công việc vừa mang tính giáo dục vừa mang tính nghệ
thuật. A.Cômenxki - nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Séc và của thế giới đã viết
“Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn,
phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho gíáo viên dạy ít hơn, học
sinh hiểu nhiều hơn”[2].
Đó là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp phát huy tính tích cực của
học sinh trong giờ học Thể dục tại trường THPT Triệu Sơn 5” làm sáng kiến
kinh nghiệm của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng việc học tập của học sinh, xác
định các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của các em trong giờ học Thể
dục tại trường THPT Triệu Sơn 5.
Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả của bài học – môn học cũng như quá
trình giáo dục thể chất và phát triển thể lực cho các em trong quá trình học tập.
Đồng thời, nâng cao chất lượng trong công tác giáo dục thể chất ở các
trường THPT trong huyện, trong tỉnh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
Nghiên cứu nội dung môn Thể dục cấp THPT và việc học tập của học sinh
đối với môn học. Từ đó, sưu tầm, chọn lọc, phối hợp sử dụng một số biện pháp
để nâng cao hiệu quả và phát huy tính tích cực tập luyện của học sinh trong giờ
học Thể dục tại trường THPT Triệu Sơn 5.
Sự chuyển biến của học sinh trong quá trình thực hiện đề tài.
Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tế dạy
học, tôi chọn 3 lớp nguyên vẹn của Trường trung học phổ thông Triệu Sơn 5, cụ
thể: Lớp 10A7, 11B4, 12C2 – Năm học 2017 – 2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu của phép biện chứng duy vật: Lôgic, lịch sử,
phân tích, tổng hợp, so sánh (phân tích từng đối tượng học sinh, tổng hợp các
kết quả đạt được, phân tích tổng hợp tài liệu qua tham khảo sách, báo...).
Phương pháp đàm thoại (lấy ý kiến học sinh, phụ huynh, giáo viên...).
Phương pháp toán học thống kê.
Đặc biệt là phương pháp thực nghiệm (thông qua thực tế dạy học trên lớp,
giao bài tập, củng cố bài học, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài kết hợp với kiểm
tra, đánh giá).
3
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/06/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu:
“Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp
học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện
kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. [3] Có thể nói cốt lõi của đổi
mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động chống lại thói quen học
tập thụ động.
Mặt khác, lý luận dạy học hiện đại xem hứng thú là yếu tố có ý nghĩa to
lớn không chỉ trong quá trình dạy học mà cả dối với sự phát triển toàn diện, sự
hình thành nhân cách của học sinh. Hứng thú là yếu tố dẫn tới sự tự giác. Hứng
thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý đảm bảo tính tích cực và độc lập sáng tạo
trong học tập, ngược lại phong cách học tập tích cực, độc lập, sáng tạo ảnh
hưởng tới sự phát triển hứng thú và tự giác.
Như vậy, người giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học để giúp học
sinh học tập, tích cực hoạt động, tự giác tri thức, phát huy tư duy sáng tạo và các
tố chất cho học sinh. Tích cực hoá hoạt động của học sinh trong dạy học nói
chung và trong phân môn Thể dục nói riêng là vấn đề nóng bỏng, bức xúc, cần
thiết giúp học sinh chủ động trong các hoạt động, tự chiếm lĩnh, tự tìm kiếm
kiến thức mới tốt hơn, trở thành những người năng động, sáng tạo, làm bước đà
để học sinh thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Sự tích cực của học sinh đối với môn học đó chính là phẩm chất tâm lí cá
nhân, thể hiện ở thái độ, tư tưởng, thói quen và tính cách của từng học sinh trong
giờ học Thể dục. Có thái độ tích cực đối với môn học là tiền đề để thực hiện tốt
các yêu cầu của bài học ở từng khối lớp, mặt khác tính tích cực của học sinh đối
với môn học được phát triển liên tục và hoàn thiện trong hoạt động thể dục - thể
thao.
Để đánh giá thực trạng tính tích cực và nguyên nhân chính làm các em
chưa tích cực trong giờ học Thể dục tại trường THPT Triệu Sơn 5, tôi đã lấy
phiếu thăm dò ở một số lớp, trong đó mỗi khối lấy một lớp điển hình (10A7,
11B4, 12C2). Qua đó, nắm bắt tình hình chung về thái độ học tập của học sinh
và để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của bài học.
(Lưu ý: Phiếu điều tra không yêu cầu ghi tên người được điều tra để đảm
bảo tính khách quan).
4
Bảng 1: Về mức độ tích cực của học sinh trong giờ học Thể dục
Sự tích cực của học sinh
Lớp
Sĩ số
Tập nghiêm túc, Tập theo hứng thú
Tập
tích cực
không tích cực
SL
%
SL
%
SL
%
10B5
44
7
15,9
19
43,2
18
40,9
10B6
42
8
19,1
15
35,7
19
45,2
10B7
43
7
16,3
16
37,2
20
46,5
Tổng
129
22
17,1
50
38,7
57
44,2
Như vậy, tổng số học sinh được điều tra là 129 em, kết quả điều tra cho
thấy: chỉ 17,1% tổng số học sinh được điều tra là tập tích cực với bài học, trong
khi đó có tới 44,2% tổng số học sinh được điều tra không tích cực. Nhiều học
sinh thể hiện rõ sự căng thẳng, mệt mỏi, chán nản, không có hứng thú đối với
môn học thường cảm thấy mệt mỏi sau mỗi buổi tập luyện mà chưa hiểu biết
được về những biến đổi của các trạng thái sinh lý diễn ra trong cơ thể trước vận
động, trong vận động và sau vận động.
Bảng 2: Về nguyên nhân chủ yếu làm học sinh chưa tích cực
trong giờ học Thể dục
Nguyên nhân
Do tiết học
Do điều kiện Do đó là môn Do không có
Lớp
Sĩ
đơn điệu,
sân bãi và
học phụ
năng khiếu
số
nhàm chán.
phương tiện
không lôi
học chưa phù
cuốn
hợp
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10B5 44
20
45,5
10
22,7
12
27,3
02
4,5
10B6 42
16
38,2
09
21,4
14
33,3
03
7,1
10B7 43
18
41,9
09
20,9
15
34,9
01
2,3
Tổng 129
54
41,9
28
21,7
41
31,8
06
4,6
Từ kết quả điều tra trên cho thấy, học sinh chưa tích cực trong giờ học Thể
dục do nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân chủ yếu nhất (chiếm tới 41,9%
tổng số học sinh được điều tra) là do chất lượng giảng dạy của giáo viên còn hạn
chế, chưa thực sự đầu tư cho chuyên môn dẫn đến tiết học đơn điệu, nhàm chán,
buồn tẻ, giáo viên chưa thực sự chú trọng đến các giải pháp nhằm phát huy tính
tự giác tích cực tập luyện, hiểu biết những diễn biến của các trạng thái sinh lý và
tác dụng của phương pháp hồi phục sau tập luyện còn hạn chế.
Vậy làm thế nào để trong giờ học Thể dục không gây cho các em sự mệt
mỏi, căng thẳng, nhàm chán, dẫn đến phản tác dụng rèn luyện mà phải kích
5
thích, tác động đến hoạt động toàn diện cả về mặt tâm sinh lý ở các em, để tạo
được sự hứng thú học tập, phát huy tính tích cực cho học sinh, nâng cao sức
khoẻ, phục vụ tốt cho việc học tập.
Chính vì vậy, ở năm học 2017-2018, tôi đã vận dụng linh hoạt một số biện
pháp trong giảng dạy Thể dục và bước đầu đã thu được những tín hiệu đáng
mừng từ học sinh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Hình thành động cơ học tập môn học Thể dục cho học sinh
Dù khối lượng kiến thức rất ít, đã vậy lại còn được vận động không bó
buộc trong không gian lớp học nhưng trong suốt bao nhiêu năm qua, môn Thể
dục vẫn luôn được xếp vào hàng ám ảnh số một của đời học sinh. Vì vậy, để
phát huy tính chủ động, tích cực của hoc snh trong mỗi giờ học Thể dục, trước
hết phải xây dựng mối quan hệ có ý thức và hứng thú vững chắc đối với mục
đích tập luyện chung cũng như các nhiệm vụ cụ thể của từng buổi học. Mà tiền
đề cần thiết của thái độ này là động cơ tham gia hoạt động đó. Các động cơ tham
gia rất đa dạng cho giáo viên phải biết khêu gợi cho học sinh hiểu được ý nghĩa
chân chính của hoạt động thể dục thể thao - một biện pháp hữu hiệu và đơn giản
nhất giúp chúng ta củng cố, giữ gìn và tăng cường sức khỏe. Nó giúp các em
giảm bớt sự căng thẳng mệt mỏi trong học tập, lao động và các sinh hoạt khác.
Các em hiểu được vấn đề này sẽ hình thành động cơ học tập, và như vậy tạo
được sụ hưng phấn, sự hứng thú đối với môn học trong các em học sinh, sinh
viên.
Để xây dựng được hứng thú bền vững, cho học sinh cần phát huy tối đa
hoạt động tư duy tích cực của các em như:
+ Tổ chức những tình huống có vấn đề đòi hỏi dự đoán, nêu giả thuyết
tranh luận giữa những ý kiến trái ngược.
+ Tiến hành dạy học ở mức độ thích hợp nhất với trình độ phát triển của
học sinh, một nội dung quá dễ hoặc quá khó đều không gây được hứng thú ,cần
biết dẩn dắt học để luôn tìm thấy cái mới, có thể tự giành lấy kiến thức hình
thành và phát triển kỹ năng.
+ Tạo được sự giao tiếp thuận lợi giữa thầy và trò, giữa trò và trò làm cho
học gắn bó với lớp, hợp tác tích cực.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh được tư duy sáng tạo trong việc
giải quyết nhiệm vụ học tập.
Ví dụ: Trong phần khởi động, giáo viên nên sử dụng một số trò chơi
thường được các em ưa thích, để gây sự tập trung và hứng thú tạo sự tích cực tập
luyện ngay trước khi vào phần cơ bản. Hoặc cho cả lớp vỗ tay hát chung một bài
hát để tạo sự thoải mái phấn khởi bước đầu cho quá trình tập luyện.
Khi dạy nội dung: Chạy ngắn – Thể dục 10: Vì yêu cầu đánh mạnh tay,
chạy nâng cao đùi và nhanh nên Gv có thể tổ chức “Trò chơi gió thổi” (3 phút):
- Giáo viên là người điều khiển bằng lời, học sinh thực hiện động tác theo
quy định:
+ Gió hiu hiu: học sinh đánh tay vòng từ sau ra trước từ từ, nhẹ nhàng.
6
+ Gió mạnh: học sinh đánh tay vòng từ sau ra trước nhanh mạnh hơn.
+ Gió thành bão:học sinh đánh tay vòng từ sau ra trước nhanh mạnh hơn
nữa.
Kết hợp hai chân chạy bước nhỏ và đổi chỗ cho người bên cạnh. Để gây
hứng thú mạnh cho học sinh, giáo viên nên điều khiển như kể một câu chuyện có
thật và liên tục thay đổi hiệu lệnh.
2.3.2. Tìm hiểu đặc điểm sức khỏe, tâm sinh lý lứa tuổi
Tìm hiểu đặc điểm sức khỏe, tâm sinh lí lứa tuổi là điều rất quan trọng
trong hoạt động thể dục thể thao cũng như môn học Thể dục để đạt được hiệu
quả cao nhất, tránh những tác dụng xấu có thể xảy ra. Cụ thể, trong giảng dạy
chúng ta cần:
- Căn cứ đặc điểm giải phẫu, sinh lý của từng lứa tuổi, giới tính, hệ vận
động, nội tạng, hệ thần kính... để có phương pháp hữu hiệu khi giảng dạy.
- Căn cứ đặc điểm phát triển tố chất cơ thể: Sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, linh hoạt, khéo léo của học sinh để có những bài tập, lượng vận động phù
hợp...
Với việc làm này, học sinh đã thay đổi nhận thức, tích cực tập luyện thể
dục thể thao hơn, hứng thú và say mê hơn với môn Thể dục vì đã có được những
môn học đúng với khả năng, lượng vận động phù hợp với bản thân. Sức duy trì
và tăng cường kết quả học tập được nâng lên.
2.3.3. Nghiên cứu kỹ nội dung, bài giảng phải súc tích, khoa học.
Trước hết người giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy. Vì nội
dung của bài chính là sự tổ chức quá trình dạy học tức là thực hiện sự thống nhất
giữa quá trình dạy và quá trình học. Trong đó quá trình dạy là người giáo viên
cung cấp những kiến thức mới cho học sinh và thông qua đó người giáo viên
thực hiện nhiệm vụ giáo dục và phát triển cho học sinh, còn đối với học sinh thì
giáo viên cần phải chủ động điều khiển, hướng dẫn lớp học để học sinh tiếp thu
kiến thức một cách chủ động và nắm vững kiến thức một cách có hệ thống và
biến những kiến thức ấy thành cái của mình.
Cụ thể giáo viên cần phải có kế hoạch, giáo án giảng dạy giờ thể dục cụ
thể và hợp lý.
Ví dụ:
- Phần khởi động : Các động tác ở phần này là động tác quen, học sinh
đã được biết trước, để tiết kiệm thời gian, nâng cao số lần tập động tác cần thiết
cũng có thể chọn một tổ hợp bài tập liên hoàn.
- Phần cơ bản :
+ Tránh mất nhiều thời gian về tập hợp, chuyển địa điểm, vị trí tập luyện
đặc biệt là thời gian chờ đợi lượt tập. Mỗi nhóm tập cũng không quá 10 – 15
học sinh.
+ Ở phần này có thể sử dụng sự giúp đỡ của cán sự lớp. Tuy nhiên cũng
phải khẳng định rằng: Dù cán sự tốt như thế nào cũng không thể thay thế được
giáo viên.
7
+ Để nâng cao mật độ vận động có thể chia nhỏ lớp học sinh theo số
lượng dụng cụ giờ học.
+ Cần có số lượng thiết bị dụng cụ cần thiết cho tập luyện.
2.3.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực
Trong tiến trình dạy học phải kết hợp linh hoạt các phương pháp/kĩ thuật
dạy học tích cực. Trong tiết học Thể dục không nhất thiết phải tuân theo qui định
khuôn khổ mà phải luôn luôn thay đổi thêm vào một số tình tiết mới dễ gây
hứng thú phát huy tính tích cực tập luyện cho học sinh. Giáo viên phải thường
xuyên cải tiến phương pháp dạy. Dạy cho học sinh cách học, giúp cho học sinh
biết cách học và có nhu cầu tự học. Cụ thể:
*Khi giáo viên sử dụng nhóm phương pháp dùng lời nói (phương pháp
giảng giải, phát vấn, đàm thoại, kể chuyện, mệnh lệnh) để truyền thụ kiến thức
cho học sinh:
- Nếu dạy động tác mới, giáo viên cần nói ngắn gọn, dễ hiểu, dùng thuật
ngữ chính xác.
- Khi phân tích kỹ thuật động tác tránh dài dòng mà cần xoáy vào trọng
tâm vào những yếu lĩnh kỹ thuật quan trọng.
- Các động tác bổ trợ không nhất thiết phải phân tích mà chỉ cần làm mẫu
và tổ chức cho học sinh tập luyện ngay.
- Trong thời gian học sinh nghỉ ngơi tích cực giữa 2 lần tập, giáo viên có
thể phát vấn, kể chuyện, trình bày ngắn gọn một vấn đề nào đó... nhằm cung cấp
thêm thông tin và gây hưng phấn cho học sinh.
*Khi giáo viên sử dụng nhóm phương pháp trực quan (làm mẫu, cho xem
tranh ảnh, biểu đồ, phim....)
- Chú ý đến vị trí làm mẫu, chọn hướng làm mẫu để học sinh có thể nhìn
rõ, nhìn thấy biên độ, góc độ động tác.
- Làm mẫu phải chính xác, làm mẫu ít nhất 2-3 lần trước khi phân tích,
giảng giải kỹ thuât.
- Tăng cường sử dụng tranh ảnh, biểu đồ... giúp cho học sinh nắm được
kỹ thuật một cách nhanh hơn mà không tốn thời gian và có thể tự so sánh giữa
động tác của mình với tranh ảnh kỹ thuật.
Ví dụ:
Khi dạy bài nhảy xa, phần hoàn thiện động tác nhảy xa, giáo viên treo
tranh (hoàn thiện các bước nhảy xa) cho học sinh quan sát. Sau đó, giáo viên
nhắc lại và làm mẫu hoàn thiện 4 giai đoạn của kĩ thuật nhảy xa. Khi thực hiện
động tác làm mẫu cho học sinh quan sát, giáo viên chỉ rõ từng bước kĩ thuật để
hoàn thành động tác.
2.3.5. Tổ chức các hình thức tập luyện phong phú, phù hợp, hấp dẫn
Khi ôn tập động tác đã học, giáo cần thay đổi hình thức tập luyện để học
sinh không bị nhàm chán.
Trước hết giáo viên cho cả lớp ôn lại, nêu những động tác khó và trọng
tâm của động tác sau đó chia lớp luyện tập theo nhóm và phân khu vực cho học
sinh tự tập luyện có sự chỉ huy của nhóm trưởng.
8
Để đánh giá hiệu quả của việc tập luyện theo nhóm giáo viên nên tổ chức
thi đua giữa các nhóm. Nhóm hoặc em nào tập tốt giáo viên nên ghi nhận và
biểu dương trước lớp còn nhóm hoặc cá nhân nào chưa tốt giáo viên nhận xét,
bổ sung và rút kinh nghiệm trước lớp.
Khi đã tập tương đối thuần thục cơ bản động tác giáo viên nên cho các em
tập luyện theo băng đĩa nhạc để gây hứng thú cho học sinh, làm cho giờ học
thêm sinh động.
Cần kiểm tra kết quả đạt được của học sinh một cách nhẹ nhàng, động
viên, khích lệ học sinh, để các em tích cực luyện tập thu được kết quả tốt. Không
chê những em chưa tập được mà động viên các em cố gắng luyện tập để có được
sức khoẻ tốt.
Dạy học theo hướng đổi mới không chỉ phát huy được tính chủ động, tích
cực của học sinh mà còn huy động được năng lực, nghệ thuật sư phạm của giáo
viên. Thực tế cho thấy rằng người giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh
những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn truyền đến cho các em cả lương tâm,
tình cảm và trách nhiệm của chính mình. Dạy học vừa mang tính khoa học, vừa
mang tính nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải nỗ lực, sáng tạo, không
ngừng cải tiến phương pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục
Bản thân tôi đã áp dụng một số giải pháp trên tại các lớp 10A7, 11B4,
12C2 tại trường THPT Triệu Sơn 5 đều đạt được kết quả như mong đợi có sức
lan tỏa ở tất cả các giờ dạy. Cụ thể là:
Sau thời gian áp dụng phương pháp trên tôi thấy rất thuận tiện trong việc
soạn giảng cũng như về thực tế nội dung tiết học đa số các em có tiến bộ nhiều
trong môn học, cụ thể là đa số học sinh các khối, lớp đều rất ham thích luyện
tập, đi học khá đầy đủ ở tiết học Thể dục, chất lượng tăng lên đáng kể qua từng
giai đoạn, kể cả học sinh có sức khoẻ yếu, khuyết tật,… Các em đã nắm kỹ nội
dung chương trình, tuy nhiên không đòi hỏi mức độ cao ở các em này, song
cũng đủ đảm bảo khá tốt về mặt sức khoẻ, tinh thần ý thức, thái độ tổ chức kỷ
luật, là cơ sở để các em bước vào lớp kế tiếp với bản lĩnh tự tin hơn, tiến xa hơn.
Để đánh giá cụ thể, chính xác hiệu quả của đề tài, tôi đã sử dụng phiếu
điều tra tính tích cực của học sinh trước tác động và điều tra sau tác động.
(Lưu ý: Phiếu điều tra dùng để đánh giá hiệu quả của đề tài cả trước và
sau tác động là giống nhau).
Bảng 3: Về mức độ tích cực của học sinh trong giờ học Thể dục
của các lớp qua kết quả khảo sát trước và sau tác động
Thời điểm
Mức độ hứng thú
Lớp
khảo sát
Sĩ số Tập
Tập
Tập
nghiêm túc, theo hứng thú không tích cực
tích cực
SL
%
SL
%
SL
%
9
10B5
10B6
10B7
Tổng
Trước
tác động
Sau tác động
44
7
15,9
19
43,2
18
40,9
44
23
52,2
16
36,4
5
11,4
Trước
tác động
Sau tác động
42
8
19,1
15
35,7
19
45,2
42
20
47,6
18
42,9
4
9,5
Trước
tác động
Sau tác động
43
7
16,3
16
37,2
20
46,5
43
23
53,5
17
39,5
3
7,0
Trước
tác động
Sau tác động
129
22
17,1
50
38,7
57
44,2
129
66
51,2
51
39,5
12
9,3
Với kết quả đạt được cô trò chúng tôi rất bất ngờ. Như vậy, môn học Thể
dục không còn là môn học đơn điệu, nhàm chán. không lôi cuốn như các em
nghĩ nữa.
2.4.2. Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Bản thân tôi hoàn toàn yên tâm khi sử dụng các biện pháp này và vững tin
bước vào giờ dạy. Sự thành công của giờ học càng thôi thúc tôi tìm tòi tư liệu,
phương pháp/kĩ thuật dạy học mới. Đối với tôi, “mỗi ngày đến trường thực sự
là một ngày vui”.
Điều làm tôi vui mừng hơn nữa là những đồng nghiệp dạy môn Thể dục
cũng đang nghiên cứu những biện pháp của tôi để áp dụng vào bài dạy của mình.
Đặc biệt, tại đơn vị trường THPT Triệu Sơn 5, lãnh đạo nhà trường luôn
ủng hộ tôi trong cách cải tiến phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng dạy
học có kết hợp với phương tiện, kĩ thuật dạy học tích cực, đã góp phần quan
trọng vào quá trình thay đổi thái độ của học sinh về môn Thể dục.
10
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.1.1. Bài học kinh nghiệm
Từ việc sử dụng một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh
trong giờ học thể dục tại trường THPT Triệu Sơn 5, bản thân tôi rút ra một số bài
học kinh nghiệm sau:
Dạy học vừa mang tính khoa học , vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy
học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay đòi hỏi người giáo viên
phải nỗ lực ,sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp để nâng cao hiệu quả
giảng dạy.
Muốn nâng cao hiệu quả và học tập hứng thú trong quá trình giảng dạy,
đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị: kế hoạch dạy học, hệ thống câu hỏi:
- Thâm nhập kĩ giáo án, hiểu rõ ý đồ sách giáo khoa .
- Có thiết kế khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu.
- Lựa chọn phương pháp dạy học, có hiểu quả.
- Tạo ra sự liên kết chặt chẽ,lô gic của bài dạy.
- Sử dụng tối đa ĐDDH và có hiệu quả trong từng tiết dạy, trong từng
môn học.
- GV phải có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội.
- GV cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri
thức.
- Thực hiện tốt chỉ thị của Bộ GDDT; bám sát chủ đề năm học để lên kế
hoạch tháng, tuần cho phù hợp và khoa học.
Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi ngay từ bây giờ tôi xác
định rằng muốn trở thành một người GV thực sự thì trước hết phải có lòng say
mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao. Phải có ý thức trách nhiệm đối với bản
thân, đối với nghề nghiệp và xã hội.
Để chuẩn bị cho một giờ lên lớp, GV cần phải chuẩn bị rất chu đáo về
mọi công việc như: DDDH, giáo án và thâm nhập giáo án một cách kĩ càng. Khi
đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn, ngôn ngữ truyền đạt rõ
ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài một cách dễ dàng. Đồng
thời khai thác nội dung để phát huy tính sáng tạo của HS khá, giỏi.
3.1.2. Khả năng ứng dụng và phát triển sáng kiến kinh nghiệm
Những quan điểm và giải pháp trình bày trong sáng kiến đã được bản thân
đúc rút kinh nghiệm từ những năm học qua và được các giáo viên khác trong tổ
bộ môn áp dụng khi giảng dạy, tôi nhận thấy kết quả rất khả quan: Lớp học sôi
nổi, học sinh hứng thú; phát huy năng lực và nghệ thuật sư phạm của giáo viên.
Đặc biệt, đề tài của tôi cũng đã được một số đồng nghiệp dạy các môn học
khác nghiên cứu và ứng dụng phù hợp.
11
3.2. Kiến nghị
Qua tổ chức thực hiện cũng như qua kết quả nghiên cứu bước đầu từ thực
tế giảng dạy, tôi có một vài kiến nghị, đề xuất như sau:
3.2.1. Đối với đồng nghiệp
- Chúng ta đều biết TDTT là một lĩnh vực khoa học, không có kiến thức
khoa học về TDTT thì không có niềm tin mãnh liệt vào lợi ích, tác dụng kỳ diệu
của TDTT đối với sức khoẻ con người và không thể xây dựng cho mình nếp
sống văn minh khoa học, nếp sống lành mạnh, hằng ngày rèn luyện thân thể đều
đặn. Cho nên việc GDTC là con dao hai lưỡi, người giáo viên hướng dẫn học
sinh tập luyện mà không nắm được tình hình sức khoẻ, đặc điểm tâm sinh lý của
học sinh thì dễ đưa đến hậu quả khó lường, gây nguy hại đến sức khoẻ, tác động
xấu đến sự phát triển tố chất của học sinh. Để thực hiện được chương trình và
giảng dạy cho học sinh tập luyện có hiệu quả, điều quan trọng có tính quyết định
là phải có giáo viên thể dục có trình độ vững vàng, yêu thích TDTT, có sức khoẻ
tốt.
- Giáo viên thể dục phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao
trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của tiến trình giảng dạy, nâng cao chất
lượng dạy học của bộ môn, phải thường xuyên dự giờ, trao đổi kinh nghiệm với
đồng nghiệng, tham khảo các bài giảng mẫu để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp
vụ sư phạm. Giáo viên luôn tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với
điều kiện thực tiễn, không nên áp đặt, máy móc.
- Nhà trường thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên đi học các lớp bồi
dưỡng về chuyên môn để nâng cao nghiệp vụ giảng dạy, phục vụ tốt cho công
tác giảng dạy chăm lo sức khoẻ học sinh.
Với kết quả của đề tài này, tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp quan tâm,
chia sẻ vào việc dạy học bộ môn ở nhiều bài khác nhau để tạo hứng thú và nâng
cao kết quả học tập cho học sinh.
3.2.2. Đối với các cấp lãnh đạo
- Để đảm bảo công tác GDTC cho học sinh đòi hỏi phải tăng cường các
thiết bị dụng cụ, phục vụ cho việc giảng dạy của giáo viên và việc tập luyện của
học sinh theo hướng phát huy tính tích cực, học sinh chủ động trong học tập.
- Mỗi năm nhà trường cần tham khảo với giáo viên thể dục để mua sắn
thêm một số thiết bị, dụng cụ học tập như: mua thêm nệm, xà nhảy cao, bóng
chuyền, cầu đá…
- Mỗi năm giáo viên thể dục phối hợp cùng nhà trường và học sinh tự làm
thêm một số thiết bị dụng cụ như: cờ, ván giậm nhảy, hố cát, sân bóng..., góp
phần làm giàu thêm cơ sở vật chất của nhà trường phục vụ tốt cho công tác
giảng dạy GDTC cho học sinh.
- Thường xuyên cải tạo và nâng cao mặt bằng các sân tập.
- Tiến tới xây dựng nhà tập đa năng để đảm bảo việc học tập, tập luyện
thường xuyên cho học sinh khi thời tiết không thuận lợi.
- Kiện toàn đội ngũ giáo viên. Định kỳ tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình
độ chuyên môn và xây dựng hệ thống tài liệu tham khảo cho giáo viên.
12
Tôi cũng rất mong muốn được nhà trường và các cấp quản lí giáo dục
quan tâm, giúp đỡ tạo điều kiện để có thể sử dụng một số giải pháp này trong
giảng dạy ở các lớp khác trong những năm học tiếp theo.
Đề tài này được đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân, do đó không
thể tránh khỏi những hạn chế và bất cập. Tôi rất mong nhận được những đóng
góp quý báu của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học nhà trường, đặc biệt là những
thông tin phản hồi từ phía học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, tổ chuyên môn, đồng nghiệp và
các em học sinh đã nhiệt tình hưởng ứng và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
HOÀNG VĂN ĐỨC
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Luật giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung 2014) – NXB Chính trị quốc gia
[2]. Chân dung nhà giáo tiêu biểu - Nguồn elib4u.
[3]. Quyết định số 16/2006/QD-BGD ĐT NGÀY 5/6/2006 – Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và đào tạo.
[4]. SGK Thể dục 10 – NXB Giáo dục – Năm 2017.
[5]. SGV Thể dục 10 – NXB Giáo dục – Năm 2017.
[6]. SGK Thể dục 11 – NXB Giáo dục – Năm 2017.
[7]. SGV Thể dục 11 – NXB Giáo dục – Năm 2017.
[8]. SGK Thể dục 12 – NXB Giáo dục – Năm 2017.
[9]. SGV Thể dục 12 – NXB Giáo dục – Năm 2017.
14