0
1.1 Lý do chọn đề tài
Giáo dục phổ thông là giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc
phát triển tư duy, nhân cách học sinh. Đúng như Luật Giáo dục năm 2005 đã xác
định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân.” [7, điều 23].
Đáp ứng mục tiêu trên, môn Giáo dục công dân (GDCD) ở trường Trung
học Phổ thông (THPT) đã thể hiện ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc giáo
dục, đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước. Bởi lẽ, bộ môn không chỉ
trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho học sinh mà còn cung
cấp cho các em những kiến thức cơ bản nhất về Đạo đức, Pháp luật, các vấn đề
Chính trị - xã hội có tính thời sự cao. Đây là việc làm quan trọng và cần thiết
nhằm nâng cao chất lượng học tập, góp phần đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
cho xã hội, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế của
nước ta hiện nay.
Đứng trước “sứ mệnh” to lớn như vậy thì vai trò của người giáo viên dạy
môn GDCD ngày càng được khẳng định. Dạy học được ví như là một “nghệ
thuật” và người giáo viên chính là một “nghệ sĩ”. Mỗi “nghệ sĩ” sẽ có những
cách thức khác nhau khi truyền tải kiến thức đến học sinh. Có người sẽ tạo được
hứng thú, hiệu quả học tập rất cao cho học sinh nhưng cũng không ít trường hợp
ngược lại. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có sử dụng các
kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong
học tập cho học sinh đang là vấn đề mà toàn ngành giáo dục và xã hội quan tâm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều giáo viên dạy GDCD khi lên lớp với
một tâm thế hời hợt, dạy qua loa, chiếu lệ… Việc đổi mới phương pháp dạy học
còn chậm hoặc hình thức. Từ đó, làm cho học sinh không có hứng thú với bài
học. Đặc biệt, với những kiểu bài thuộc phạm trù Đạo đức, Pháp luật… có
những kiến thức các em đã được làm quen ở lớp dưới (chẳng hạn như kiến thức
về Hôn nhân và Gia đình). Không những thế, những kiểu bài về Pháp luật
thường khô khan, khó nhớ nên việc giáo viên chỉ dạy theo phương pháp truyền
thống đọc – chép, thuyết trình thì sẽ làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán và
mệt mỏi.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, bản thân tôi là một giáo viên, đang
trực tiếp giảng dạy môn GDCD ở trường THPT, tôi luôn trăn trở làm sao để học
sinh hứng thú khi học bộ môn, tiếp nhận tri thức bộ môn một cách nhẹ nhàng và
hiệu quả nhất. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn áp dụng một số phương pháp mới
trong đó có sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực khi giảng dạy. Qua thực tế
dạy học những kiến thức về Đạo đức, Pháp luật… đặc biệt là khi dạy về quyền
“Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” tôi nhận thấy việc sử dụng những kĩ
thuật dạy học tích cực đã mang lại hiệu quả đáng kể.
1
Tôi chọn đề tài: “ Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn
GDCD 12. ” cho sáng kiến kinh nghiệm của mình, nhưng đó chỉ là những kinh
nghiệm chủ quan của cá nhân tôi. Vì thế không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được sự ủng hộ và góp ý chân thành từ đồng nghiệp.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Nội dung kiến thức ở môn GDCD lớp 12 là toàn bộ những tri thức về
Pháp luật. Đó là những nội dung gần gũi với học sinh và ít nhiều các em đã được
biết đến ở cấp học dưới. Do đó, học sinh rất dễ dàng tiếp cận kiến thức. Tuy
nhiên, nếu người thầy không biết cách tổ chức hợp lý, đa dạng các hoạt động
học thì rất dễ gây nhàm chán cho học sinh. Mặt khác, đối với học sinh lớp 12,
các em chuẩn bị ra trường, là một công dân trưởng thành, các em rất cần nắm
vững các quy phạm pháp luật. Các em cần thiết phải biết mình có quyền gì,
nghĩa vụ như thế nào đối với bản thân, gia đình và xã hội. Nếu người thầy không
biết cách tạo cảm hứng, làm học sinh chán học thì những quy phạm pháp luật ấy
sẽ chẳng thể nào truyền tải đến học sinh. Vì vậy, có thể nói chất lượng của quá
trình dạy học phụ thuộc rất lớn vào khả năng tổ chức hoạt động học của người
thầy.
Nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ đạt được hai mục đích cơ bản:
+ Thứ nhất, góp phần nâng cao nhận thức về tác dụng của việc sử dụng
một số kĩ thuật dạy học tích cực khi dạy học quyền: “Bình đẳng trong Hôn nhân
và Gia đình” môn GDCD lớp 12.
+ Thứ hai, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng thú học tập
trong học sinh.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, tôi tổng kết vấn đề sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích
cực nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy học quyền: “Bình đẳng trong Hôn nhân và
Gia đình” môn GDCD lớp 12. Đối tượng cụ thể đó là các em học sinh lớp 12
trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: đọc, phân tích, so sánh, tổng hợp,
khái quát hóa,… nhằm thu thập thông tin về lý luận.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: dự giờ, thăm lớp, thiết kế bài thực
nghiệm, trực tiếp lên lớp, phân tích các số liệu thống kê.
- Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn: xây dựng câu hỏi, bảng
biểu, xử lý số liệu nhằm tìm hiểu thực trạng của quá trình dạy học môn GDCD ở
trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
- Phương pháp thống kê toán học: xử lý kết quả thu được qua thực nghiệm
sư phạm nhằm đánh giá chất lượng và hiệu quả của quá trình thực nghiệm.
2
II. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận của vấn đê
2.1.1 Lý luận chung về Kĩ thuật dạy học tích cực
Nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, cho nên việc đổi mới
giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là hết sức cần thiết. “Phương
pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, khả năng làm việc nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”
[7, điều 28]
Trong những năm gần đây ngành Giáo dục đã, đang đẩy mạnh việc đổi
mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học. Do đó phương pháp và hình thức
dạy học nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng rất đa dạng và phong phú.
Nó bao gồm các phương pháp hiện đại (nghiên cứu trường hợp điển hình, dự án,
hợp đồng, thảo luận nhóm, đóng vai…) và các phương pháp truyền thống
(thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện…). Bên cạnh những phương pháp dạy học
lại có các kĩ thuật dạy học hỗ trợ. Mỗi khi dạy học một bài hoặc một chủ đề nào
đó, giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp, nhiều kĩ thuật dạy học khác
nhau miễn sao phải phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh.
Phương pháp dạy học là những cách thức, con đường dẫn đến mục tiêu
của bài học. Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của giáo
viên và học sinh trong các tình huống hoặc hoạt động nhằm thực hiện giải quyết
một nhiệm vụ hoặc nội dung cụ thể. [9]
Kĩ thuật dạy học tích cực là một thuật ngữ được dùng dể chỉ những kĩ
thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Trong đó, các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bởi giáo viên,
người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình
tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn,
qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo.
Bản chất của việc dạy học có sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực là
nhằm khai thác động lực học tập ở người học để phát triển chính họ. Mặt khác,
coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân để chuẩn bị tốt nhất cho họ thích ứng với
đời sống xã hội.
Áp dụng phương pháp dạy học tích cực, trong đó sử dụng các kĩ thuật dạy
học tích cực, đem lại cho người học hứng thú, niềm vui trong học tập, nó phù
hợp với đặc điểm tâm, sinh lý học sinh THPT là ưa thích hoạt động tìm tòi,
khám phá. Việc học đối với học sinh một khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ
giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo.
2.1.2 Lý luận về một số Kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng khi dạy
học quyền: “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD 12.
2.1.2.1 Kĩ thuật động não không công khai.
3
* Giới thiệu:
Động não không công khai là một hình thức biến đổi của thảo luận viết,
mỗi thành viên của nhóm viết ra ý nghĩ của mình để giải quyết vấn đề. Tuy
nhiên, không công khai và không tham khảo người khác, sau đó nhóm mới tiến
hành thảo luận chung.
* Dụng cụ:
Giấy, bút cho các thành viên trong nhóm.
* Thực hiện:
- Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho nhóm, quy định thời gian làm
việc cá nhân để giải quyết vấn đề trước khi thảo luận nhóm.
- Sau khi hoàn tất việc làm cá nhân, lần lượt từng người trình bày ý kiến.
- Bắt đầu thảo luận khi tất cả thành viên đã trình bày xong ý kiến.
* Lưu ý:
Trong quá trình động não, cá nhân không được tham khảo ý kiến của các
thành viên khác trong nhóm.
* Ưu điểm:
- Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào.
- Hữu ích khi sử dụng để thu thập thông tin phản hồi.
* Hạn chế:
Do không được quyền tham khảo ý kiến các thành viên khác nên các ý
kiến tham gia có thể lạc đề, lan man hoặc chú trọng những vấn đề tiểu tiết.
2.1.2.2 Kĩ thuật KWL
* Giới thiệu:
KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986. Là sơ đồ liên hệ các kiến thức
đã biết liên quan đến bài học, các kiến thức muốn biết và các kiến thức học được
sau bài học.
Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ
đề bài học. Thông tin nay sẽ được ghi nhận vào cột K (Know – điều đã biết) của
biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em
muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W
(Want to know– điều muốn biết) của biểu đồ. Trong quá trình học hoặc sau khi
học xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ
được ghi nhận vào cột L (Learned – điều đã học được).
* Dụng cụ:
Bảng KWL của Giáo viên; Phiếu học tập KWL của học sinh.
* Thực hiện:
- Bước 1: Sau khi giới thiệu bài học hoặc chủ đề Giáo viên phát phiếu học
tập KWL cho học sinh. (Kĩ thuật này có thể áp dụng cho cá nhân hoặc nhóm học
sinh).
4
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh điền các thông tin vào phiếu học tập.
- Bước 3: Học sinh điền các thông tin vào phiếu KWL
Tên bài học/chủ đề: ………………………………………….
Tên học sinh/nhóm học sinh: ………………………………..
Lớp: …………. Trường: …………………………………….
K
(Know – Điều đã biết)
-
W
(Want to know –
Điều muốn biết)
-
L
(Learned –
Điều đã học được)
-
+ Yêu cầu học sinh viết vào cột K những gì các em đã biết liên quan đến
bài học/chủ đề.
+ Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài
học/chủ đề.
- Bước 4: Sau khi kết thúc bài học/chủ đề học sinh điền vào cột L của
phiếu những gì vừa học được. Lúc này, học sinh xác nhận về những điều các em
đã học được qua bài học rồi đối chiếu với điều muốn biết, đã biết để đánh giá kết
quả học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ học.
* Lưu ý:
- Khi sử dụng kĩ thuật KWL đối với nhóm học sinh thì trước khi học sinh
điền thông tin vào cột K, Giáo viên phải yêu cầu học sinh trao đổi, thống nhất ý
kiến trong nhóm.
- Khi mới áp dụng kĩ thuật KWL, có thể dùng các câu hỏi gợi ý để học
sinh có thể viết những gì các em đã biết, muốn biết và đã học được vào các cột
tương ứng.
* Tác dụng đối với học sinh:
- Học sinh xác định được nhiệm vụ học tập, nhu cầu, mong muốn được
trang bị thêm hiểu biết, kiến thức, kĩ năng qua bài học.
- Từ việc nhìn lại những gì đã học được sau bài học, học sinh phân tích,
đánh giá những thông tin mới được hình thành và nhận thức được sự tiến bộ của
mình sau bài học.
2.1.2.3 Kĩ thuật sơ đồ tư duy
* Giới thiệu:
Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình
ảnh đê mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, ý tưởng
5
được liên kết sẽ bao quát được phạm vi sâu rộng. Kĩ thuật sơ đồ tư duy do Tony
Buzan đề xuất, xuất phát từ cơ sở sinh lý thần kinh về quá trình tư duy: Não trái
đóng vai trò thu thập các dữ liệu mang tính logic như số liệu. Não phải đóng vai
trò thu thập dữ liệu như hình ảnh, màu săc, hình dạng…
* Dụng cụ:
Bảng lớn, giấy khổ lớn, bút nhiều màu sắc.
* Thực hiện:
Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ, mỗi thành viên lần lượt kết nối ý
tưởng trung tâm đến ý tưởng cá nhân, mô tả ý tưởng thông qua hình ảnh, biểu
tượng hoặc một vài ký tự ngắn gọn.
* Lưu ý:
- Có nhiều cách tổ chức thông tin theo sơ đồ: Sơ đồ thứ bậc; sơ đồ mạng;
sơ đồ chuỗi… Giáo viên nên để học sinh lựa chọn sơ đồ mà các em thích.
- Giáo viên cần đưa câu hỏi gợi ý để thành viên nhóm lập sơ đồ.
- Khuyến khích sử dụng biểu tượng, ký hiệu, hình ảnh và văn bản tóm tắt.
* Ưu điểm:
- Phù hợp với tâm lý học sinh, dễ hiểu, dễ ghi nhớ.
- Rất thích hợp với kiểu bài ôn tập, tổng kết, liên kết lý thuyết với thực tế.
* Hạn chế:
Sơ đồ giấy thường khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa, tốn kém chi phí.
2.1.3 Một số yêu cầu khi dạy học quyền: “Bình đẳng trong Hôn nhân
và Gia đình” môn GDCD 12.
Môn GDCD ở trường THPT là một hệ thống các kiến thức liên quan đến
nhiều lĩnh vực, trong đó có kiến thức về Pháp luật (GDCD lớp 12). Toàn bộ nội
dung chương trình GDCD lớp 12 tập trung phân tích bản chất, vai trò của pháp
luật đối với sự tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân, nhà nước và xã hội. Đồng
thời, cũng chỉ ra một số quyền, nghĩa vụ cơ bản của mỗi công dân. Trong đó,
việc trang bị cho học sinh những kiến thức về quyền và nghĩa vụ của công dân
trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình là vô cùng cần thiết. Những tri thức này
góp phần tích cực vào việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi của người
công dân, hình thành và phát triển ở các em những phẩm chắt và năng lực cần
thiết của người công dân trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xuất
phát từ ý nghĩa to lớn đó mà việc giảng dạy hiệu quả kiến thức ở vấn đề này
càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối với mỗi người giáo viên. Tuy nhiên, để làm
tốt điều này không phải là một việc đơn giản, đòi hỏi giáo viên cần phải thực
hiện được một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, giáo viên phải thực sự nắm vững các kiến thức Pháp luật về
Hôn nhân và Gia đình. Để có kiến thức rộng, sâu giáo viên cần phải có sự đầu
tư, luôn trau dồi kiến thức, học tập, nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan đến Pháp
luật như: Luật Hôn nhân và Gia đình; Bộ luật Hình sự; Bộ luật dân sự…vv
6
Mặc dù yêu cầu cần có kiến thức sâu rộng nhưng trong quá trình giảng
dạy người giáo viên cũng không nên ôm đồm kiến thức. Điều này sẽ dễ đẫn đến
việc truyền thụ mang tính hàn lâm, khô khan. Từ đó làm cho học sinh không có
hứng thú tiếp cận bài học.
Thứ hai, khi giảng dạy kiến thức về Pháp luật, nhất thiết giáo viên phải
liên hệ với thực tiễn, phải gắn lý luận với thực tiễn. Những tri thức môn GDCD
nói chung và phần Pháp luật nói riêng luôn gắn chặt với tình hình thực tế của đời
sống xã hội, sự phát triển của đất nước, của con người Việt Nam. Cuộc sống
luôn luôn vận động, biến đổi hàng ngày, hàng giờ sẽ là thực tế sinh động góp
phần đắc lực vào việc làm sáng tỏ, chứng minh cho lý thuyết khoa học của bộ
môn.
Tuy nhiên, việc thực tế rất đa dạng và phong phú như vậy lại đòi hỏi
người giáo viên khi giảng dạy phải lựa chọn vấn đề sao cho sát với nội dung bài
học, phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý, trình độ hiểu biết, nhận thức và tư duy
của học sinh.
Thứ ba, khi giảng dạy phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản và hiện đại.
Tri thức phổ thông là những tri thức thiết yếu đối với cuộc sống, cần phải phổ
cập với mọi người. Tri thức cơ bản là hệ thống những tri thức và kỹ năng quan
trọng được lựa chọn từ các lĩnh vực khoa học, làm cơ sở vững chắc cho mọi
người học tập suốt đời. Tri thức hiện đại là những kiến thức mang tính chuẩn
mực, có khả năng ứng dụng và phù hợp với xu thế giáo dục của thế giới. [4]
Đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, hiện đại trong dạy học Pháp luật chính là
trang bị cho học sinh những kiến thức mà các em có thể vận dụng vào cuộc sống
của bản thân. Đó là những tri thức phù hợp với trình độ nhận thức, phù hợp với
đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh, sát với mục tiêu giáo dục của trường THPT.
Mặt khác, việc đảm bảo truyền thụ những tri thức mang tính phổ thông, cơ
bản, hiện đại còn giúp giáo viên tránh được khuynh hướng giảng dạy vượt quá
khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin của học sinh hoặc đơn giản hóa những tri
thức mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa.
Thứ tư, cần sử dụng triệt để các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại
như: máy vi tính, ti vi, máy chiếu, video… nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc truyền
tải kiến thức. Các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại sẽ làm phong phú thêm
tiết dạy, thay đổi cách học, phương pháp học, tạo sự hứng thú, kích thích sự tìm
tòi, khám phá của học sinh. Đồng thời, giúp các em phát huy được tính chủ
động, sáng tạo trong học tập.
Thứ năm, như đã đề cập ở trên, quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia
đình” môn GDCD lớp 12 là những kiến thức hàm chứa tri thức về Pháp luật lẫn
Đạo đức. Những tri thức này ít nhiều học sinh đã được tiếp cận, làm quen ở lớp
học, cấp học dưới. Vì thế, khi giảng dạy ngay từ hoạt động khởi động yêu cầu
giáo viên phải làm sao để thu hút sự chú ý, tạo hứng thú cho học sinh tiếp cận tri
thức bài học. Trong các hoạt động học tập tiếp theo, giáo viên phải để học sinh
thấy được cái mới, cái hay, cái thực tế của nội dung bài học. Tránh việc học sinh
7
nhìn nhận đây là những kiến thức đã học rồi, biết rồi, không cần học nữa. Khi
dạy học nội dung này, nếu giáo viên không sử dụng phương pháp phù hợp sẽ rất
dễ làm cho học sinh thấy sáo rỗng, khô khan (đúng như cách đánh giá của nhiều
người về bản chất của Đạo đức và Pháp luật). Từ đó, các em sẽ thấy bài học
nhàm chán và không có hứng thú hoạt động học tập.
Tóm lại, kiến thức phần: “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” có vị
trí quan trọng trong toàn bộ nội dung chương trình GDCD lớp 12. Vì thế, khi
giảng dạy người giáo viên cần phải thực hiện tốt các yêu cầu trên. Điều đó giúp
giáo viên truyền thụ tri thức cho học sinh một cách hiệu quả. Đồng thời, giúp
học sinh củng cố được ý thức và hành vi của mình, định hướng phát triển và
hoàn thiện nhân cách, góp phần tích cực vào việc giáo dục học sinh thành những
công dân mới phát triển toàn diện.
2.2 Thực trạng việc sử dụng các Kĩ thuật dạy học tích cực và vấn đề
dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD lớp 12.
Như chúng ta đã biết, môn GDCD có vai trò giáo dục và giáo dưỡng. Nó
bao gồm một hệ thống các tri thức khoa học phù hợp với từng đối tượng nhận
thức. Nếu như kiến thức của các môn khoa học cơ bản khác cung cấp cho học
sinh những nguyên liệu để xây dựng nên lâu đài của tương lai thì kiến thức môn
GDCD sẽ là một kiến trúc sư thiết kế toàn bộ lâu đài đó. Nó chỉ cho chúng ta
thấy cần phải làm gì và làm như thế nào để đạt được mục đích. [4]
Tuy nhiên, trên thực tế học sinh lại có tâm lý coi môn GDCD là môn học
phụ, không thích học và không cần học. Các em chỉ dành nhiều thời gian cho
những môn học nằm trong tổ hợp truyền thống khi xét tuyển vào Đại học, Cao
đẳng như: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Tiếng Anh. Vì thế, đã thiếu đi sự
quan tâm và đầu tư cho môn học này. Bên cạnh đó, kiến thức môn học liên quan
đến Pháp luật cho nên rất khô khan, khó hiểu… Đây cũng chính là một trong
những nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không có hứng thú học tập bộ môn.
Theo kết quả điều tra việc học tập môn GDCD của học sinh lớp 12
trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên cho thấy: Có tới 47,8% học sinh nhận xét
bộ môn nhàm chán, không thích học; 33,3% học sinh nhận xét bình thường;
12,6% học sinh có hứng thú, thích học và 6,3% học sinh không có ý kiến. Mặt
khác, qua thực tế tám năm giảng dạy, tôi nhận thấy tình trạng học sinh không
học bài cũ, không xem trước bài mới còn khá phổ biến. Khi yêu cầu học sinh
làm bài tập về nhà, một số học sinh không làm, số học sinh làm bài thì cũng là
miễn cưỡng, bắt buộc, làm kiểu đối phó… Vì vậy mà hiệu qủa học tập mang lại
không cao.
Đặc thù của học sinh THPT là ham học, thích tìm hiểu, khám phá những
cái chưa biết, nhưng các em lại không nhận thấy rằng môn GDCD, đặc biệt là
phần Pháp luật rất sát với đời sống, cung cấp những kiến thức cơ bản về quyền
lợi, nghĩa vụ của công dân. Từ đó, giúp các em có cách ứng xử đúng đắn trong
các mối quan hệ ở phạm vi gia đình và xã hội. Nhìn chung, học sinh chưa thấy
8
được ý nghĩa môn học và chưa biết vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Song, có thể phân tích cụ
thể một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, xuất phát từ nội dung chương trinh môn GDCD lớp 12. Toàn bộ
nội dung là những kiến thức về Pháp luật. Đặc thù của Pháp luật là hàn lâm, khô
khan và chính xác tuyệt đối. Để hiểu sâu rộng vấn đề đặt ra yêu cầu học sinh
phải nhớ Luật. Các chương, điều, khoản, mục… của Pháp luật nói chung sẽ
khiến học sinh mệt mỏi, khó nhớ. Từ đó, ảnh hưởng đến việc tiếp thu có hiệu
quả tri thức này. Mặt khác, nhiều bài, nhiều mục nội dung kiến thức quá rộng so
với khả năng nhận thức của học sinh. Một khi không đủ trình độ tiếp nhận kiến
thức ở mức độ cao sẽ sinh ra tâm trạng chán nản, không thich học.
Thứ hai, vấn đề tiếp theo nằm ở phương pháp dạy học. Có thể nói, với
mỗi môn học, học sinh tiếp thu kiến thức như thế nào, có thích học môn học đó
hay không phụ thuộc rất lớn vào phương pháp giảng dạy của giáo viên. Để dạy
tốt kiến thức về Pháp luật nói chung và Pháp luật về Hôn nhân và Gia đình nói
riêng đòi hỏi người giáo viên không những phải vững vàng về trình độ chuyên
môn, mà còn biết đổi mới phương pháp dạy học. Biết biến cái khô, cái khó, cái
phức tạp thành cái đơn giản, biết khơi dậy niềm hứng thú, ham học hỏi và nắm
bắt kiến thức của học sinh. Thế nhưng, đa số giáo viên dạy môn GDCD ở trường
THPT chưa đầu tư xứng đáng cho môn học, không ít giáo viên trình độ còn hạn
chế, không chịu trau dồi, học hỏi thêm kiến thức về Pháp luật. Nhiều giáo viên
khi giảng dạy chỉ tập trung nhắc lại các kiến thức trong sách giáo khoa, vẫn còn
chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình, giảng giải, không phát huy
được tính tích cực, chủ động, phát triển tư duy cho học sinh. [5]
Thứ ba, đó là việc đầu tư cơ sở vật chất phục vụ bộ môn. Với tâm lý là bộ
môn không có nhiều trường Đại học, Cao đẳng chọn làm tổ hợp xét tuyển nên kể
cả các cấp lãnh đạo, quản lý cũng coi nhẹ việc đầu tư trang thiết bị dạy học cho
bộ môn này. Lâu nay, khi giáo viên giảng dạy bộ môn muốn có những công cụ,
thiết bị để hỗ trợ quá trình dạy học thì thường phải tự tìm tòi, tự thiết kế, rất tốn
thời gian, công sức và tiền bạc. Phòng lưu trữ phương tiện, thiết bị dạy học phục
vụ bộ môn GDCD của các trường THPT nói chung thường rất “nghèo nàn”.
Thứ tư, một nguyên nhân mang tính khách quan cũng ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng dạy và học phần kiến thức này đó chính là niềm tin vào Pháp
luật Việt Nam. Thực tế trong xã hội đã chỉ ra nhiều vụ việc mà người vi phạm
“lách luật”, “chạy án”, hay những vụ án xét xử chưa đúng người, đúng tội, oan
sai khiến các cá nhân, cơ quan chức năng phải bồi thường tới vài chục tỉ đồng…
Rồi những bản án đưa ra cho hành vi vợ giết chồng, chồng bạo hành vợ, con
cháu đánh đập, ngược đãi ông bà, cha mẹ… chưa đủ sự nghiêm khắc, thiếu sự
răn đe từ Pháp luật. Từ thực trạng trên, phần nào làm cho các em giảm lòng tin
vào các tri thức Pháp luật. Như vậy, vấn đề đặt ra là làm sao để khơi dậy và lấy
9
lại niềm tin vào Pháp luật cho các em học sinh. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực rất
lớn của giáo viên trong công tác giảng dạy của mình.
Trên đây là một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng việc dạy và
học phần Pháp luật môn GDCD lớp 12 nói chung và Pháp luật về Hôn nhân và
Gia đình nói riêng còn nhiều hạn chế. Từ thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn áp
dụng một số giải pháp khi giảng dạy phần kiến thức này, nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả, chất lượng dạy và học.
2.3 Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học quyền “Bình đẳng
trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD lớp 12.
2.3.1 Sử dụng Kĩ thuật động não không công khai để dạy học khái niệm
“Bình đẳng đẳng trong Hôn nhân và Gia đình”.
* Mục đích:
- Khơi gợi trí nhớ học sinh về một số nội dung đã được làm quen ở lớp
học dưới. (Bài 12, môn GDCD lớp 10)
- Đảm bảo 100% học sinh phải tham gia tích cực vào hoạt động học.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm cá nhân.
- Phát huy khả năng, tư duy sáng tạo cho học sinh.
* Cách tiến hành:
Giáo viên chia lớp thành 6 - 8 nhóm (tùy vào số lượng học sinh trong lớp
và cách để vị trí bàn ghế), sau đó phát những mẩu giấy nhỏ (tờ giấy A4 cắt làm
4) cho từng học sinh của các nhóm đó. Yêu cầu từng học sinh ở mỗi nhóm giải
quyết nhiệm vụ mà giáo viên giao. Quy định thời gian làm việc cá nhân là 3
phút.
Trong mỗi mẩu giấy giáo viên in sẵn các câu hỏi cần giải quyết: E hiểu thế
nào là bình đẳng? Hôn nhân là gì? Gia đình là gì? Gia đình bao gồm những
thành viên nào? Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình được hiểu như thế nào?.
Mỗi học sinh động não để viết ra ý kiến của mình để giải quyết vấn đề mà
giáo viên giao. Tuy nhiên, không công khai và không tham khảo ý kiến người
khác.
Hết thời gian quy định, giáo viên yêu cầu một vài cá nhân ở mỗi nhóm
trình bày ý kiến của mình (càng nhiều học sinh trình bày càng tốt nhưng nếu
trùng ý kiến thì không cần trình bày để đảm bảo về mặt thời gian). Lúc này giáo
viên có thể nhận xét và bổ sung luôn cho ý kiến cá nhân.
10
Hình ảnh minh họa
Khi các ý kiến cá nhân hoàn tất, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận
chung theo các nhóm đã chia ban đầu. Lúc này nhiệm vụ đặt vào một câu hỏi
duy nhất là: “Thế nào là bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” ?. Thời gian
thảo luận chung là 2 phút. Quá trình học sinh thảo luận chung, giáo viên quan
sát, phát hiện khó khăn và kịp thời giúp đỡ.
Hình ảnh minh họa
11
Hết thời gian quy định, đại diện một vài nhóm trình bày kết quả thảo luận,
nhóm khác bổ sung (nếu có). Giáo viên nhận xét, đánh giá và kết luận đơn vị
kiến thức. (Khái niệm bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình)
2.3.2 Sử dụng Kĩ thuật KWL để dạy học nội dung “Bình đẳng trong
Hôn nhân và Gia đình”.
* Mục đích:
- Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài học.
- Giúp học sinh tự giám sát quá trình học – hiểu của các em.
- Giúp học sinh tự đánh giá quá trình học – hiểu của chính các em.
- Tạo cơ hội để học sinh diễn tả ý tưởng của các em vượt ra ngoài khuôn
khổ bài học.
- Phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh.
* Cách tiến hành:
Bước 1: Giáo viên đặt vấn đề, dẫn dắt hướng học sinh vào nội dung quyền
Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình. Sau đó, giáo viên phát phiếu học tập cho
học sinh theo mẫu sau:
Tên bài học/chủ đề: ……………………………………………………..
Tên học sinh: ………………………………… Lớp: …………………..
Trường: …………………………………………………………………
K
(Know – Điều đã biết)
-
W
(Want to know –
Điều muốn biết)
-
L
(Learned –
Điều đã học được)
-
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh điền vào phiếu học tập.
Giáo viên yêu cầu học sinh viết vào cột K những gì học sinh đã biết liên
quan đến nội dung bài học. Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về
nội dung bài học.
12
Hình ảnh minh họa
Bước 3: Học sinh điền thông tin vào phiếu học tập theo sự hướng dẫn của
giáo viên.
Tên bài học/chủ đề: Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình.
Tên học sinh: Nguyễn Văn X.
Lớp: 12B2.
Trường: THPT Nguyễn Xuân Nguyên.
K
(Những điều đã biết)
W
(Những điều muốn biết)
L
(Những điều đã học được)
- Vợ chồng yêu thương,
tôn trọng nhau là tiền đề
để xây dựng 1 gia đình
hạnh phúc.
- Thực trạng bạo lực gia
đình (mà nạn nhân
thường là người vợ)
đang diễn ra khá phổ
biến ở nước ta.
- Vợ chồng bình đẳng
trong quan hệ nhân thân;
quan hệ tài sản được hiểu
như thế nào? Cụ thể ra
sao?
- Thế nào là tài sản
chung? Tài sản riêng của
vợ/chồng?
- Pháp luật xử lý như thế
nào đối với những hành
vi vi phạm nội dung bình
đẳng giữa vợ và chồng?
- Có nhiều câu chuyện
về việc cha mẹ ngược
đãi, đánh đập con và
cũng không ít những câu
- Để bảo vệ quyền lợi của trẻ em pháp luật có những quy định gì?
- Những hành vi xúc -
-
13
chuyện về việc con hành phạm, ngược đãi các con hạ, xúc phạm cha mẹ.
của cha mẹ và hành vi ngược đãi cha mẹ của các
con bị xử lý như thế nào?
- Có người ông người bà - Nghĩa vụ của ông bà chỉ coi trọng cháu trai, với các cháu và ngược lại cháu “đích tôn”.
nghĩa vụ của các cháu với ông bà thể hiện như thế
nào trong Luật Hôn nhân
và gia đình?
- Anh, chị em trong gia
đình bất hòa, tranh chấp
tài sản với nhau.
- Bình đẳng giữa anh chị, em với nhau được biểu hiện như thế nào?
-
Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, làm rõ những câu hỏi trong cột
W. Giáo viên định hướng, giúp đỡ học sinh làm sáng tỏ vấn đề mà các em muốn
biết.
Bước 4: Sau khi kết thúc bài học, học sinh điền vào cột L của phiếu học
tập những gì vừa học được. Lúc này, học sinh xác nhận về những điều các em đã
học được qua bài học, đối chiếu với điều muốn biết, đã biết để đánh giá kết quả
học tập, sự tiến bộ của mình qua giờ học.
K
(Những điều đã biết)
W
(Những điều muốn biết)
- Vợ chồng yêu thương,
tôn trọng nhau là tiền đề
để xây dựng 1 gia đình
hạnh phúc.
- Thực trạng bạo lực gia
đình (mà nạn nhân
thường là người vợ)
đang diễn ra khá phổ
biến ở nước ta.
- Vợ chồng bình đẳng
trong quan hệ nhân thân;
quan hệ tài sản được hiểu
như thế nào? Cụ thể ra
sao?
- Thế nào là tài sản
chung? Tài sản riêng của
vợ/chồng?
- Pháp luật xử lý như thế
nào đối với những hành
vi vi phạm nội dung bình
đẳng giữa vợ và chồng?
L
(Những điều đã học được)
* Bình đẳng giữa vợ và
chồng
Vợ chồng binh đẳng với
nhau, có nghĩa vụ và
quyền ngang nhau về mọi
mặt trong gia đình. Điều
này thể hiện trong quan hệ
nhân thân và tài sản.
+ Trong quan hệ nhân
thân: Vợ chồng có quyền
và nghĩa vụ ngang nhau
trong việc lựa chọn nơi cư
trú; tôn trọng và giữ gìn
danh dự, nhân phẩm, uy
tín của nhau; tôn trọng
quyền tự do tôn giáo, tín
14
- Có nhiều câu chuyện về
việc cha mẹ ngược đãi,
đánh đập con và cũng
không ít những câu
chuyện về việc con hành
hạ, xúc phạm cha mẹ.
- Để bảo vệ quyền lợi của
trẻ em pháp luật có những
quy định gì?
- Những hành vi xúc
phạm, ngược đãi các con
của cha mẹ và hành vi
ngược đãi cha mẹ của các
con bị xử lý như thế nào?
- Có người ông người bà - Nghĩa vụ của ông bà với
chỉ coi trọng cháu trai, các cháu và ngược lại
cháu “đích tôn”.
nghĩa vụ của các cháu với
ông bà thể hiện như thế
nào trong Luật Hôn nhân
và gia đình?
ngưỡng của nhau; giúp đỡ
tạo điều kiện cho nhau
phát triển về mọi mặt.
+ Trong quan hệ tài sản:
Vợ chồng có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau trong
sở hữu tài sản chung
(chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt). Pháp luật còn thừa
nhận vợ chồng có quyền
có tài sản riêng.
* Bình đẳng giữa cha mẹ
và các con.
- Cha mẹ phải yêu thương,
nuôi dưỡng, chăm sóc con;
tôn trọng ý kiến của con;
chăm lo việc học tập và
phát triển lành mạnh của
con cả về thể chất, tinh
thần và đạo đức.
- Cha mẹ không phân biệt
đối xử giữa các con, ngược
đãi, hành hạ, xúc phạm
con; không lạm dụng sức
lao động của con chưa
thành niên; không xúi giục,
ép con làm việc trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội.
- Con có bổn phận yêu
quý, kính trọng, chăm sóc
nuôidưỡng cha mẹ. Không
được có hành vi ngược đãi,
hành hạ, xúc phạm cha mẹ.
* Bình đẳng giữa ông bà
và cháu.
- Ông bà nội, ngoại có
nghĩa vụ và quyền chăm
sóc, giáo dục, nêu gương
tốt cho các cháu.
- Các cháu có bổn phận
kính trọng, chăm sóc,
phụng dưỡng ông bà nội,
ngoại.
15
- Anh, chị em trong gia
đình bất hòa, tranh chấp
tài sản với nhau.
- Bình đẳng giữa anh chị, * Bình đẳng giữa các anh
em với nhau được biểu chị em.
hiện như thế nào?
- Anh chị em có bổn phận
yêu thương, chăm sóc giúp
đỡ nhau.
- Anh chị em có nghĩa vụ
đùm bọc, nuôi dưỡng nhau
trong trường hợp không
còn cha mẹ hoặc cha mẹ
không có điều kiện chăm
sóc.
2.3.3 Sử dụng Kĩ thuật Sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức quyền “Bình
đẳng trong Hôn nhân và Gia đình”.
* Mục đích:
- Phát triển tư duy logic; khả năng phân tích, tổng hợp của học sinh.
- Giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu kiến thức.
* Cách tiến hành:
Giáo viên phát cho mỗi nhóm 1 tờ giấy khổ to (A1) và một số bút màu
cho các nhóm. Sau đó yêu cầu các em sơ đồ hóa các kiến thức trong bài học.
Thời gian làm việc khoảng 5 phút.
Trong lúc các nhóm làm việc, giáo viên quan sát, phát hiện khó khăn và
kịp thời giúp đỡ.
Hết thời gian quy định giáo viên giúp các nhóm dán sản phẩm của mình
lên bảng. Học sinh quan sát, nhận xét, bổ sung ý kiến (nếu có) cho sản phẩm
của các nhóm.
Hình ảnh minh họa
16
Giáo viên nhận xét, đánh giá sản phẩm của các nhóm và kết luận bằng
một sơ đồ kiến thức của mình (Giáo viên có thể chuẩn bị sẵn trên giấy Ao hoặc
thiết kế trên Powerpoint để trình chiếu)
Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình
Khái niệm
Bình đẳng giữa
vợ và chồng
Quan hệ
nhân thân
Nội dung
Bình đẳng giữa
cha mẹ và con
Quan hệ
tài sản
Cha mẹ
với con
Bình đẳng giữa
ông bà và cháu
Con với
cha mẹ
Ý nghĩa
Bình đẳng giữa anh
chị em với nhau
Ông bà
với cháu
Cháu với
ông bà
2.4 Kết quả
Sau 3 năm thực nghiệm dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia
đình” môn GDCD lớp 12 với việc sử dụng một số kĩ thuật dạy học như trên tôi
nhận thấy:
- Bài giảng của mình đã thu hút được sự chú ý của học sinh.
- Học sinh có hứng thú học tập và yêu thích bộ môn hơn. Có tinh thần
tham gia học tập tích cực.
- Học sinh lĩnh hội và nắm được kiến thức bài học dễ dàng hơn, nhớ lâu
các kiến thức đã học.
- Kết quả các bài kiểm tra thường xuyên, định kỳ của học sinh cao hơn.
17
- Học sinh có năng lực phân tích, lý giải một cách đúng đắn những hiện
tượng, vấn đề diễn ra trong đời sống xã hội.
Đặc biệt, trong kỳ thi Giáo viên giỏi cấp Tỉnh năm học 2017 – 2018 vừa
qua, tôi cũng đã vận dụng các Kĩ thuật dạy học tích cực trên khi dạy học quyền
“Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” môn GDCD 12. Trong tiết học đó, học
sinh hoạt động rất tích cực, các em tiếp thu bài rất nhanh. Còn đối với bản thân,
tôi đã được Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hóa công nhận là Giáo viên giỏi cấp
Tỉnh. Với kết quả như vậy, tôi nhận thấy đó là tiết học thành công cho cả thầy và
trò.
Sau đây là các bảng số liệu tổng hợp kết quả điều tra, thăm dò ý kiến học
sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên.
Bảng 1 : Kết quả thăm dò ý kiến học sinh khi chưa vận dụng các Kĩ
thuật dạy học tích cực vào dạy quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia
đình” môn GDCD lớp 12. (Lớp đối chứng)
Lớp
Sĩ số
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Không
hứng thú
12BTN
12B1
12B4
12B6
42
44
42
40
11,9%
4,5%
16,7%
5%
16,7%
9,1%
11,9%
17,5%
31%
45,5%
38,1%
25%
40,4%
40,9%
33,3%
52,5%
Bảng 2: Kết quả thăm dò ý kiến học sinh khi vận dụng các Kĩ thuật
dạy học tích cực vào dạy học quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia
đình” môn GDCD lớp 12. (Lớp thực nghiệm)
Lớp
12B2
12B3
12B5
12B7
Sĩ số
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Không
hứng thú
38
45
42
40
52,6%
48,9%
40,5%
32,5%
36,8%
33,3%
26,2%
47,5%
5,3%
15,6%
21,4%
15%
5,3%
2,2%
11,9%
5%
18
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Nội dung chương trình môn GDCD lớp 12 là toàn bộ những kiến thức về
Pháp luật. Trong đó, quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” là một
trong những quyền quan trọng của công dân. Dạy học quyền này kiến thức
không khó, không trừu tượng mà rất cụ thể, sát với thực tế. Tuy nhiên, rất dễ gây
nhàm chán, mệt mỏi cho học sinh bởi lẽ kiến thức có phần khô khan, sáo rỗng.
Do đó để học sinh có hứng thú học quyền này và lĩnh hội chúng có hiệu quả
không phải là vấn đề đơn giản. Nó đòi hỏi người giáo viên không những vững
vàng về trình độ chuyên môn mà còn phải am hiểu nhiều kiến thức xã hội khác.
Ngoài ra, cũng đòi hỏi người giáo viên phải có những phương pháp mới và vận
dụng sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Với việc giảng dạy quyền “Bình đẳng trong Hôn nhân và Gia đình” theo
một số phương pháp mới có sử dụng những Kĩ thuật dạy học tích cực như trên,
học sinh sẽ hứng thú học tập và lưu giữ kiến thức lâu hơn, bền hơn. Không
những vậy, nó còn phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong học
sinh. Từ đó, sẽ là động lực để thúc đẩy hoạt động dạy và học có hiệu quả hơn.
* Bài học kinh nghiệm:
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, kiểm nghiệm kết quả, tôi đã đúc rút
được những kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, để giảng dạy có hiệu quả kiến thức về Pháp luật không phải là
vấn đề đơn giản. Tuy nhiên, phần kiến thức này lại vô cùng quan trọng đối với
học sinh lớp 12 vì nó giúp các em nhận thức rõ bản thân mình có quyền lợi gì và
nghĩa vụ như thế nào khi các em chuẩn bị bước vào cuộc sống của một công dân
trưởng thành.
Thứ hai, nếu giáo viên biết sử dụng tốt các phương pháp mới, các Kĩ thuật
dạy học tích cực khi giảng dạy các kiến thức về Pháp luật sẽ làm cho học sinh
yêu thích môn học, hứng thú với giờ học và tham gia tích cực vào các hoạt động
học tập do giáo viên tổ chức.
Thứ ba, nên sử dụng đa dạng các phương pháp, kĩ thuật trong một tiết dạy
để tạo nên hiệu quả học tập cho học sinh. Tuy nhiên, cũng cần phải đảm bảo tính
khoa học, tính thực tiễn và tính vừa sức đối với học sinh. Đặc biệt, phải chú ý
đến đối tượng học sinh khác nhau ở các lớp khác nhau mà áp dụng cho phù hợp.
Thứ tư, dạy học theo phương pháp mới, có sử dụng các kĩ thuật dạy học
tích cực như trên không tốn kém về tiền bạc, sẽ phù hợp với điều kiện cơ sở vật
chất của các trường THPT trên địa bàn huyện Quảng Xương nói riêng và tỉnh
Thanh Hóa nói chung, đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
3.2 Kiến nghị
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
+ Cần tiếp tục thực hiện và nâng cao chất lượng các đợt tập huấn chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên GDCD trong tỉnh. Đặc biệt, cần tăng
cường tập huấn cho giáo viên những kiến thức về Pháp luật.
19
+ Các chuyên viên cần tập trung nghiên cứu thành chuyên đề để vận dụng
vào việc giảng dạy phần Pháp luật, làm tư liệu tham khảo cho giáo viên các
trường THPT trong tỉnh.
- Đối với nhà trường, tổ bộ môn:
+ Cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ bộ môn GDCD.
+ Nên tổ chức kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm cho các giờ học để thấy
được hiệu quả của nó. Từ đó, tuyên dương, khen thưởng kịp thời để khích lệ tinh
thần giáo viên và học sinh.
- Đối với giáo viên:
+ Để tạo hứng thú cho học sinh khi học môn GDCD, trước hết người giáo
viên phải là người yêu nghề, nhiệt huyết với nghề. Vì khi giáo viên yêu công
việc của mình mới dồn hết sự say mê, tâm huyết vào công việc ấy. Từ đó, sẽ nảy
sinh được nhiều ý tưởng sáng tạo.
+ Để dạy tốt phần kiến thức về Pháp luật, giáo viên cần bồi dưỡng, học
hỏi để nâng cao trình độ. Ngoài ra, cần phải tìm hiểu, trau dồi kiến thức từ thực
tiễn đời sống xã hội.
+ Giáo viên cũng cần kết hợp một cách khéo léo các phương pháp, kĩ
thuật dạy học khác để tạo nên sự cộng hưởng và đạt hiệu quả cao.
+ Giúp đỡ học sinh trong quá trình sưu tầm, tìm kiếm tài liệu, thiết bị,
phương tiện… phục vụ cho quá trình học tập.
Quá trình thực hiện đề tài là sự đúc rút kinh nghiệm trong thực tế giảng
dạy của bản thân cũng như đồng nghiệp. Tôi mong muốn sẽ góp một phần nhỏ
bé của mình vào quá trình đổi mới môn học, giúp học sinh phát triển về nhân
cách, có khả năng xử lý nhanh nhẹn, chính xác những tình huống trong cuộc
sống, trở thành con người phát triển toàn diện.
Tuy nhiên, do tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều nên
chắc chắn đề tài của tôi sẽ còn phải bổ sung. Rất mong nhận được sự góp ý chân
thành từ các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 18 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là Sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người thực hiện đề tài
Phùng Thanh Loan.
20
21
22