Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Bài tiểu luận luật lao động đề tài lao động là người giúp việc gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.03 KB, 32 trang )

 

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA HÀNH CHÍNH – LUẬT
­­­­­­ oOo ­­­­­­

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN LUẬT LAO ĐỘNG
ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH


2

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu

Cụm từ đầy đủ

BLLĐ

Bộ Luật Lao Động

LĐGVGĐ

Lao Động Giúp Việc Gia Đình

GFCD

Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển 
cộng đồng



HĐLĐ

Hợp Đồng Lao Động

UBNĐ

Ủy Ban Nhân Dân


3

MỤC LỤC

 1.1.2.Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình                                                 
 
................................................
   
 5
 1.2.Nội dung pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình                                   
 
..................................
   
 7
 1.2.1.Khái niệm pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình                          
 
.........................
   
 8
 1.2.2.Quy định của pháp luật về lao động là người giúp việc gia đình                             

 
............................
   
 9
 CHƯƠNG 2                                                                                                                          
 
.........................................................................................................................
    
 13
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC 
 GIA ĐÌNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN                                                                  
 
.................................................................
    
 13
 2.1.  Thực trạng về lao động là người giúp việc gia đình                                                    
 
...................................................
    
 13
  Nghề giúp việc gia đình: Nhiều vấn đề cần giải quyết, laodongxanha.net, 2017.           
 
..........
    
 13
  Tình hình Lao động giúp việc gia đình, gfcd.org.vn, 2015.                                                 
 
................................................
    
 14

 2.2.  Quy định của pháp luật Việt nam về lao động là người giúp việc gia đình               
 
..............
    
 14
 2.3. Kiến nghị về định hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật                                           
 
.........................................
    
 27
  Lao động giúp việc gia đình ­ Nhìn từ giác độ pháp lý, tcdcpl.moj.gov.vn.                       
 
......................
    
 27

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH 
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái quát về lao động là người giúp việc gia đình
1.1.1. Khái niệm về lao động là người giúp việc gia đình
“Lao động giúp việc gia đình” đã từng tồn tại từ rất lâu ngay từ thời nô lệ 
và phong kiến.  Ở xã hội đó, gần như các gia đình khá giả  trên lên đều có lao  


4

động giúp việc gia đình thường được gọi là: nô lệ, gia nhân, gia nô, nô bộc, …  
nhưng trong xã hội thời bấy giờ  thì đây không được xem là một nghề  họ  bị 
hạn chế về quyền hoặc không có bất cứ quyền nào. Mà thậm chí họ chỉ được  

xem như là một loại “tài sản”. Trong xã hội tư  bản, thì đây được xem là một 
công việc. Còn hiện nay, khi mà nên kinh tế  ngày càng phát triển thì nhu cầu  
về giúp việc trong các gia đình ngày càng tăng. Vì vậy lao động là người giúp 
việc gia đình đã được trở  thành một nghề  và được pháp luật nhiều quốc gia  
trên thế  giới ghi nhận như: Philippines, Pháp, Campuchia,… Trong mối quan  
hệ lao động này, người lao động và người sử dụng lao động đều bình đẳng và  
nguyên tắc của quan hệ này là thỏa thuận, bình đẳng, tôn trọng nhau giữa các 
chủ  thể. Định nghĩa về  lao động là người giúp việc gia đình thì chưa có sự 
thống nhất trên thế  giới, mà các quốc gia quy định khác nhau trong pháp luật  
của nước mình.
Đầu   tiên,   là   tại   luật   lao   động   Philippines.   Chương   141   luật   lao   động 
Philippines định nghĩa: lao động giúp việc gia đình hay dịch vụ  giúp việc gia 
đình là dịch vụ thực hiện tại nhà của người thuê, theo nhu cầu, mong muốn về 
việc bảo trì nhà cửa và hưởng thụ, bao gồm cả việc chăm nom cho sự  thoải  
mái của các thành viên trong gia đình của người thuê1.  Ở  Campuchia, Điều 4 
Bộ  Luật Lao động định nghĩa người lao động giúp việc gia đình như  sau: 
Người lao động giúp việc là những người được thuê để  làm các công việc 
chăm sóc chủ  nhà hoặc tài sản của chủ  nhà để  đổi lấy thù lao. Nhóm người  
này bao gồm người giúp việc, bảo vệ, tài xế, người làm vườn và các nghề 
nghiệp tương tự khác miễn là có một “chủ nhà” thuê họ để làm việc trực tiếp 
tại nhà của mình2.
Trong Pháp luật Pháp có định nghĩa về  lao động giúp việc gia đình tại 
Khoản 1 Điều L7221 Bộ Luật Lao Động Pháp như  sau: “ Lao động giúp việc  
gia đình là một người được thuê làm công việc gia đình cho các cá nhân” . 
Không những thế để làm rõ hơn về định nghĩa này thì tại Điều 1 Thỏa ước lao  
 Trần Linh Trang, Pháp luật về lao động giúp việc gia đình – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc 
sĩ luật học, Hà Nội, 2015.
2
 Trần Linh Trang, Pháp luật về lao động giúp việc gia đình – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc 
sĩ luật học, Hà Nội, 2015.

1


5

động quốc gia Pháp đã mô tả  lao động giúp việc gia đình như  sau: Bản chất 
đặc biệt của nghề nghiệp này là làm việc tại nhà riêng của người sử dụng lao  
động giúp việc gia đình. Lao động giúp việc gia đình có thể làm việc toàn thời 
gian hoặc bán thời gian, thực hiện tất cả hoặc một phần công việc nhà chẳng  
hạn liên quan tới vệ sinh… Người sử dụng lao động giúp việc gia đình không  
thu được lợi nhuận thông qua công việc này.
Qua tìm hiểu pháp luật các quốc gia về lao động giúp việc gia đình có thể 
thấy rằng thuật ngữ  này không chỉ  một công việc cụ  thể  nhất định mà nó là  
bao gồm nhiều công việc khác nhau trong các công việc gia đình. Nhìn chung 
ta có thể  thấy hai tiêu chí để  xem xét thế  nào gọi là lao động giúp việc gia 
đình như sau:
Thứ nhất, lao động giúp việc gia đình là lao động được sử dụng để làm các  
công việc trong gia đình mang tính chất giúp đỡ  các hoạt động sinh hoạt của 
gia đình. Đó là những công việc chẳng hạn như: nấu ăn, dọn dẹp vệ sinh nhà  
cửa, giặt giũ, trông trẻ, chăm sóc người già,…
Thứ  hai,  Người sử  dụng lao động là lao động giúp việc gia đình không 
được phép thu lợi nhuận thông qua công việc này. Có thể hiểu tiêu chí này là  
người sử  dụng lao động không được phép sử  dụng người lao động vào các  
công việc liên quan đến hoạt động thương mại.
Qua hai tiêu chí nêu trên có thể định nghĩa lao động giúp việc gia đình như 
sau:
“ Lao động giúp việc gia đình là lao động thực hiện các công việc trong  
gia đình mang tính chất giúp đỡ  hoạt động sinh hoạt của gia đình. Và người  
sử dụng lao động không được phép thu lợi nhuận từ công việc này”.
1.1.2. Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình

 Phân loại lao động giúp việc gia đình
Chúng ta có thể phân loại LĐGVGĐ theo thời gian làm việc.
Nhóm một, người LĐGVGĐ làm việc theo hình thức không xác định thời  
gian. Trong loại hình lao động này, người lao động thường  ở  chung với chủ 
hộ được chủ hộ nuôi ăn, ở và được trả lương theo tháng.


6

Nhóm hai, người  LĐGVGĐ làm việc theo hình thức xác định thời gian.  
Người LĐGVGĐ còn có thể làm việc theo giờ thỏa thuận, điều đó có nghĩa là 
họ không ở chung với chủ hộ. Công việc thực hiện được yêu cầu rõ ràng, trả 
lương   theo   giờ   hoặc   theo   khối   lượng   công   việc.   Ở   hình   thức   này   người  
LĐGVGĐ có thể thực hiện công việc cho nhiều hộ gia đình khác nhau.
 Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình
Qua quan sát dưới nhiều góc độ khác nhau có thể thấy LĐGVGĐ có nhiều 
đặc điểm để  phân biệt so với một số  loại lao động khác. Ví dụ  như  về  độ 
tuổi, trình độ  học vấn, chuyên môn,… Có bốn đặc điểm chính sau đây về 
LĐGVGĐ.
Thứ nhất, về độ  tuổi LĐGVGĐ có tất cả các nhóm từ 15 đến 60 tuổi, tuy  
nhiên tập trung chủ  yếu  ở  độ tuổi trung niên từ  40 trở  lên. Bởi lẽ   ở  độ  tuổi 
này phần lớn họ  đã có con cái lớn và đến tuổi lao động do đó họ  điều kiện 
thoát ly gia đình để đi làm xa, hơn nữa nhiều gia đình cũng thích thuê lao động 
ở  độ  tuổi này vì họ  có thể   ở  lại với gia đình lâu hơn và có kinh nghiệm làm  
việc gia đình cũng như  chăm sóc các thành viên trong gia đình tốt hơn. Bên 
cạnh đó, có một bộ  phận là những người  ở  ngoài độ  tuổi lao động tham gia 
vào thị trường lao động này nhưng thường không được “ưa chuộng” vì nhóm 
người này thường có sức khỏe yếu, nắm bắt công việc chậm không làm được 
công việc nặng nên nhiều hộ gia đình có tâm lí ngại thuê người già vì hay đau 
ốm và bất tiện khi để người già chăm sóc gia đình. Và chỉ ít độ tuổi 16 ­18, sở 

dĩ ở độ tuổi này ở nông thôn đa phần các em gái thường không còn đi học nên  
khi gia đình khó khăn thì để  có thêm thu nhập thì các em tranh thủ  làm thêm 
nghề giúp việc gia đình, đối tượng này có cơ  hội tham gia loại hình lao động  
bởi dễ  bảo, học việc nhanh và có thể  chơi và trông em nhỏ, tuy nhiên nhóm 
này thường trở  lại quê nhà lập gia đình hoặc có mong muốn tìm kiếm một 
công việc khác khi đến 19­20 tuổi nên tâm lí nhiều gia đình không muốn thuê 
đối tượng này vì tính ổn định thấp và dễ  phát sinh nhiều vấn đề  phức tạp vì 
chưa đến tuổi trưởng thành như  trộm cắp, dễ  bị  kẻ  xấu lợi dụng, xúi giục, 
quan hệ bất chính với chủ nhà,… Như vậy, nhóm lao động từ 40­55 là nguồn  
tiềm năng cho nhu cầu LĐGVGĐ.


7

Thứ hai, về trình độ học vấn những thành phần tham gia vời mối quan hệ 
lao động này thường là những người có trình độ  học vấn thấp. Quan niệm 
xưa nay thường xem LĐGVGĐ được coi là công việc thấp hèn và thường chỉ 
có những người sống  ở nông thôn và có trình độ  học vấn thấp mới làm công  
việc này. Những quan niệm về  nghề  giúp việc gia đình chỉ  dành cho người  
nông thôn, có trình độ  học vấn thấp và kỹ  năng giao tiếp hạn chế  là những  
điểm khá đặc trưng của phần lớn người LĐGVGĐ. Hiện nay trong xã hội 
cũng xuất hiện thêm một số  người LĐGVGĐ có trình độ  cao như  sinh viên 
đại học đi làm LĐGVGĐ theo giờ tại các gia đình người nước ngoài tại Việt 
Nam, tuy nhiên mới chỉ  có lượng ít nhưng có thể  thấy đây cũng là một công 
việc đem lại thu nhập cao so với nhiều ngành nghề khác và hứa hẹn có nhiều 
thành phần lao động ở nhiều trình độ khác nhau muốn gia nhập.
Thứ ba, Về điều kiện gia đình có thể thấy đa số  người lao động lựa chọn  
công việc là do kinh tế khó khăn. Họ đi làm để có thêm thu nhập vì tiền công  
nhận được từ LĐGVGĐ tương đối ổn định giúp họ trang trải các nhu cầu của 
gia đình và cá nhân.

Thứ tư, Về đào tạo chuyên môn phần lớn người LĐGVGĐ ở nước ta chưa 
có qua đào tạo nghề. Đa phần những trường hợp được đào tạo để đi giúp việc 
cho gia đình ở nước ngoài.
Tóm lại, đa phần là người LĐGVGĐ đều có những đặc điểm chung về độ 
tuổi, đặc trưng giới tính, trình độ  văn hóa không cao, có hoàn cảnh xuất thân  
đặc biệt. Chính những đặc thù này đã tạo nên nét đặc trưng trong đối tượng  
lao động cần được bảo vệ này.
1.2.

Nội dung pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình

Pháp luật Việt Nam đã có những ghi nhận về lao động giúp việc gia đình. 
Ở  Bộ  Luật Lao động 1994, đã đề  cấp đến vấn đề  này tại các Điều 2, Điều  
28, Điều 139 nhưng vẫn còn khá mơ hồ chưa được rõ ràng và cũng như chưa  
được hướng dẫn cụ thể. Nhưng  ở  Bộ  Luật Lao động 2012 thì lao động giúp 
việc gia đình đã được quy định một cách rõ ràng từ  khái niệm đến nghĩa vụ 
của các bên khi tham gia quan hệ  lao động này. Không những thế  tại năm 


8

2014, các vấn đề về lao động giúp việc gia đình được hướng dẫn một các cụ 
thể bởi các Thông tư và Nghị định đi kèm. Với sự thay đổi của pháp luật này, 
lao động giúp việc gia đình được công nhận như một nghề. Và xã hội cũng có  
nhìn nhận khác về những người là lao động giúp việc gia đình.
1.2.1. Khái niệm pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình
Ở pháp luật Việt Nam, thuật ngữ “Lao động là người giúp việc gia đình” 
được định nghĩa là người lao động thực hiện các công việc trong gia đình của 
một hay nhiều hộ gia đình khác nhau một cách thường xuyên. Với định nghĩa 
này ta thấy rằng nhà làm luật không hạn chế phạm vi thực hiện công việc của 

người LĐGVGĐ, họ  có thể  làm việc cho một hoặc nhiều hộ  gia đình. Quy 
định này tạo điều kiện cho họ  nâng cao thu nhập từ  đó cải thiện cuộc sống.  
Bởi vì đa số  những người lựa chọn công việc giúp việc gia đình thường có 
hoàn cảnh khó khăn hoặc không có trình độ  chuyên môn, và công việc này  
mang lại thu nhập tương đối  ổn định cho họ. Hơn nữa cũng sẽ  có một số 
trường hợp họ  chỉ  thực hiện công việc giúp việc gia đình  ở  một khoản thời  
gian trong ngày, đây không phải là công việc duy nhất của họ, nên pháp luật 
đã tạo điều kiện để  họ  tận dụng thời gian đó để  lao động giúp việc cho gia  
đình khác. Các công việc mà người LĐGVGĐ có thể  làm nhiều công việc 
như: nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người  
già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên 
quan đến hoạt động thương mại. Xuất phát từ  bản chất của công việc giúp  
việc gia đình, đó chỉ  đơn thuần là các công việc với mục đích chăm sóc gia  
đình về ăn uống, sinh hoạt,… chứ không nhằm mục đích tạo ra thu nhập cho  
người sử dụng lao động nên người LĐGVGĐ sẽ không làm các công việc liên 
quan đến sản xuất, kinh doanh tạo ra lợi nhận hoặc cạnh tranh trên thị trường. 
Ngoài ra pháp luật lao động còn quy định người làm công việc trong gia 
đình theo hình thức khoán việc không được xem là lao động giúp việc gia đình. 
BLLĐ có quy định này do tính chất công việc của lao động giúp việc gia đình 
là làm việc thường xuyên.Tính thường xuyên  ở  đây không phải là tình trạng  
lặp đi lặp lại trong một chu kỳ  làm việc mà phải là tính chất lặp đi lặp lại 


9

liên tục hằng ngày của công việc. Công việc của người LĐGVGĐ mang tính 
chất ổn định, hàng ngày họ có mặt thực hiện nghĩa vụ với tính chất làm công 
ăn lương và được biên chế  vào thành phần sinh hoạt của gia đình. Nhưng  
trong hình thức khoán việc  thì những công việc chỉ mang tính thời vụ diễn ra  
trong một thời điểm nhất định. Chẳng hạn như một người lao động được thuê 

mướn theo hình thức cứ  đến một ngày nhất định trong tháng lại thực hiện  
công việc nhất định sao đó lại dược nhận một khoản tiền cho dịch vụ đó thì  
không được coi là LĐGVGĐ mà họ  là những người làm việc theo hình thức 
khoán việc. Việc thực hiện công việc khoán việc của họ được điều chỉnh bởi  
Bộ Luật Dân sự.
1.2.2. Quy định của pháp luật về lao động là người giúp việc gia đình
Hiện nay, nhu cầu sử dụng lao động giúp việc gia đình ngày càng tăng cao. 
Tuy nhiên trong một thời gian dài lao động giúp việc gia đình được xem như 
một công việc không được xã hội tôn trọng. Vì vậy, để  làm cho người sử 
dụng lao động có những hành vi và thái độ  phù hợp với người lao động giúp 
việc gia đình, tạo những điều kiện thích hợp để người lao động giúp việc gia 
đình hoàn thành tốt công việc của mình, cũng như  ràng buộc quyền và nghĩa 
vụ của các bên. Bộ luật Lao động  đã có những quy định riêng về lao động là  
người giúp việc gia đình.
Thứ nhất, đó là vấn đề hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp 
việc gia đình. Nhằm cụ thể hóa về quyền và nghĩa vụ vủa các bên, tạo cơ sở 
cho việc giải quyết các tranh chấp, BLLĐ 2012 đã có sự thay đổi so với BLLĐ 
1994 về  hình thức của hợp đồng LĐGVGĐ. BLLĐ 2012 buộc hợp đồng lao  
động của quan hệ này phải được lập thành văn bản. Tức là về mặt hình thức  
hợp đồng này phải được lập thành văn bản chứ  không như  BLLĐ 1994 thì 
không bắt buộc về mặt hình thức. Trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận của hai 
bên, BLLĐ 2012 cho phép hai bên tự thỏa thuận thời hạn hợp đồng lao dộng.  
Có thể hiểu là các bên có thể lựa chọn giao kết hợp đồng lao động  không xác  
định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo 
mùa vụ  hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. Tiếp 


10

theo là về nội dung của hợp đồng, hình thức trả lương, kỳ hạn trả lương, thời  

giờ  làm việc hàng ngày, chỗ   ở  là những nội dung cần ghi rõ trong hợp đồng. 
Nội dung cụ thể của hợp đồng được ghi nhận tại các văn bản hướng dẫn thi 
gồm: thông tin cá nhân của các bên ký hợp đồng lao động; công việc và địa 
điểm làm việc; thời hạn của hợp đồng lao động; tiền lương; tiền thưởng (nếu  
có); thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; trang bị bảo hộ lao động; bảo hiểm 
xã hội, bảo hiểm y tế; ăn và chỗ ở của người lao động; tiền tàu xe về nơi cư 
trú khi chấm dứt hợp đồng lao động đúng thời hạn; hỗ trợ học nghề, văn hóa  
(nếu có); trách nhiệm bồi thường của người lao động; những hành vi nghiêm 
cấm.
Thứ hai, đó là về vấn đề quyền và nghĩa vụ của người sử dụng LĐGVGĐ  
và người LĐGVGĐ. Khi hợp đồng lao động được ký kết sẽ  làm phát sinh 
quyền và nghĩa vụ  của các bên. Đây có thể  gọi là  “quyền và nghĩa vụ  đối  
ứng”3. Nghĩa vụ đầu tiên phải được nhắc đến của người sử  dụng LĐGVGĐ 
là:  Thực hiện đầy đủ  thỏa thuận đã giao kết trong hợp đồng lao động. Các 
thỏa thuận này có thể  là thỏa thuận về  thời hạn thực hiện hợp đồng; thỏa 
thuận về  tiền lương, hình thức trả  lương, kỳ  hạn trả  lương; thỏa thuận về 
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ  ngơi, nghỉ hàng tuần, nghỉ  lễ, nghỉ  tết. Cũng  
như đối với các lao động khác, để đảm bảo cuộc sống về già hoặc không có  
thu nhập, đồng thời được chăm sóc sức khỏe khi đau ốm, bệnh tật của người  
LĐGVGĐ, người sử  dụng LĐGVGĐ có nghĩa vụ  trả  cho người LĐGVGĐ 
một khoản tiền theo quy định của pháp luật để  họ  tự  lo đóng bảo hiểm xã 
hội, bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó người sử  dụng LĐGVGĐ phải tôn trọng 
danh dự, nhân phẩm của người giúp việc gia đình. Người sử dụng LĐGVGĐ 
phải bố trí chỗ  ăn, ở sạch sẽ, hợp vệ sinh cho người giúp việc gia đình, nếu  
có thỏa thuận.Tạo điều kiện cho người giúp việc gia đình được tham gia học  
văn hóa, học nghề. Trả tiền tàu xe cho người LĐGVGĐ để  họ  trở về  nơi cư 
trú, tuy nhiên họ  sẽ  không được thanh toán chi phí này nếu họ  kết thúc hợp 
đồng lao động trước thời hạn. Đây là những quyền lời đáp  ứng các nhu cầu  
cơ bản nhất mà người sử dụng LĐGVGD phải đáp ứng cho người LĐGVGĐ. 
 Quyền và nghĩa vụ đối ứng: Là quyền của bên này sẽ tương ứng với nghĩa vụ của bên kia. Và ngược lại.


3


11

Luật cũng quy định một bên có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ bất kỳ 
lúc nào nhưng phải thông báo trước 15 ngày. Vì đây là quyền và nghĩa vụ đối 
ứng, tuy BLLĐ không quy định nhưng ta có thể thấy rằng người LĐGVGĐ sẽ 
có những quyền tương ứng với những nghĩa vụ của người sử dụng LĐGVGĐ 
đã nêu trên. Bên cạnh đó người LĐGVGĐ cũng có những nghĩa vụ  nhất định 
gồm bốn nghĩa vụ chính trong đó có một nghĩa vụ mà pháp buộc thực hiện để 
bảo vệ  chính người LĐGVGĐ. Nghĩa vụ  của họ  được quy định cụ  thể  tại 
BLLĐ 2012. Cụ  thể  là:Thực hiện đầy đủ  thỏa thuận hai bên đã ký kết trong  
hợp đồng lao động. Trong quá trình người LDGVGĐ làm việc nếu họ làm hư 
hỏng, mất mát tài sản của người sử dụng LĐGVGĐ thì phải bồi thường theo  
thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ tiếp theo là thông báo  
kịp thời cho người sử dụng lao động về những khả năng, nguy cơ gây tai nạn, 
đe dọa an toàn, sức khỏe, tính mạng, tài sản của gia  đình người sử  dụng 
LĐGVGĐ và bản thân. Cuối cùng là tố  cáo với cơ  quan có thẩm quyền nếu 
người sử dụng LĐGVGĐ có hành vi ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức 
lao động hoặc hành vi trái pháp luật khác. Ở đây quấy rối tình dục có thể hiểu 
là hình thức quấy nhiễu hướng tới giới tính của người có liên quan, còn cưỡng 
bức lao động cũng được định nghĩa tại BLLĐ 2012 như  sau: Cưỡng bức lao  
động là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ  đoạn khác nhằm buộc 
người khác lao động trái ý muốn của họ. Quy định này đã chuyển từ  quyền 
thành nghĩa vụ để bắt buộc người LĐGVGĐ phải tố  giác các hành vi đó của 
người sử dụng LĐGVGĐ với cơ quan có thẩm quyền. Mục đích của của quy  
định này là để  bảo vệ  chính người LĐGVGĐ, người có vị  trí yếu thế  hơn  
trong quan hệ  lao động này và tạo cho họ  một môi trường làm việc tốt nhất.  

Bên cạnh đó với  mục đích tạo môi trường tốt nhất này cho người LĐGVGĐ 
BLLĐ 2012 còn ghi nhận những hành vi nghiêm cấm đối với người sử  dụng  
LĐGVGĐ như sau: Nghiêm cấm ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao 
động, dùng vũ lực đối với lao động là người giúp việc gia đình. Giao việc cho 
người giúp việc gia đình không theo hợp đồng lao động. Giữ giấy tờ tùy thân  
của người lao động.


12

Như  vậy có thể  thấy những quy định của pháp luật về  LĐGVGĐ ngày 
càng cụ  thể, xóa bỏ  đi sự  mơ  hồ  trước đó về  khái niệm, hợp đồng, hay cả 
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ lao động này. 


13

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI 
GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.1.  Thực trạng về lao động là người giúp việc gia đình
Trên thực tế, nghề  LĐGVGĐ mang lại thu nhập tương đối  ổn định cho 
người lao động, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, 
sử dụng người giúp việc là nhu cầu nhất thiết của nhiều gia đình, nhất là tại  
các đô thị lớn... Bởi thế, lực lượng lao động này tăng nhanh trong những năm 
gần đây. Theo thống kê chưa đầy đủ, lao động giúp việc gia đình tăng từ 157  
nghìn người năm 2008 lên 246 nghìn người năm 2016, dự báo đến năm 2020,  
cả  nước có khoảng 350 nghìn người 4. Hiện nay, người LĐGVGĐ chủ yếu  ở 
độ  tuổi trung niên (36­55 tuổi). Bên cạnh đó, có một bộ  phận  đáng kể  là 
những người  ở  ngoài độ  tuổi lao động (trên 55 tuổi) tham gia vào thị  trường  

lao   động   này.   Theo   kết   quả   điều   tra   của   IFGS5  2011,   có   61,5%   người 
LĐGVGĐ  ở  độ  tuổi 36­55, 23,8% người lao động  ở  độ  tuổi 35 trở  xuống;  
14,8% người lao động  ở  độ  tuổi 56 trở  lên. Các kết quả  nghiên cứu về  giúp 
việc gia đình tại Việt Nam thời điểm 2015 đều có chung nhận định: lao động  
giúp việc gia đình chủ  yếu là nữ  giới. Nhìn chung, người lao động giúp việc 
gia đình có trình độ  học vấn không cao. Phần lớn có trình độ  từ trung học cơ 
sở  trở  xuống. Theo kết quả điều tra tại Hà Nội và TP. HCM của IFGS, 2011  
có 85,7% người lao động có trình độ  học vấn THCS trở  xuống. Tỷ lệ người  
lao động có trình độ tiểu học trở xuống là 31,8%. Tỷ lệ  tương ứng theo điều 
tra của GFCD, 2012 là 84,6% và 22%. Lao động giúp việc gia đình là lĩnh vực  
có sự tham gia của lao động chưa thành niên, trong đó phần nhiều là nữ  giới. 
Kết quả điều tra của IFGS cho biết trong số 371 người lao động nữ, có 3% ở 

4

 Nghề giúp việc gia đình: Nhiều vấn đề cần giải quyết, laodongxanha.net, 2017.
 Viện nghiên cứu gia đình và giới (Institute For Family and Gender Studies).

5


14

độ  tuổi 16­186. Tuy là công việc không quá khó nhưng giúp việc gia đình đòi 
hỏi người lao động phải có nhiều kỹ  năng về  các công việc trong gia đình. 
Người lao động hiện nay chưa đáp  ứng được những yêu cầu tối thiểu của  
nghề. Theo  trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng cho  
biết, LĐGVGĐ có tới hơn 90% của qua đào tạo.
Có thể thấy LĐGVGĐ ở nước ta ngày càng phát triển, nhu cầu về loại lao  
động này cũng tăng cao và có những nhìn nhận khác nhau từ  xã hội nhưng 

chưa đầy đủ. Tuy công việc này bình đẳng như  các nghề  khác, sự  đóng góp 
cho sự phát triển của xã hội là đáng kể nhưng nghề này vẫn chưa được nhiều  
người trong xã hội xem trọng, và được gắn với tên thường gọi “ Ô Sin”.  
2.2.  Quy định của pháp luật Việt nam về lao động là người giúp việc gia 
đình
Tuy pháp luật lao động hiện nay quy định rất cụ thể về vấn đề LĐGVGĐ.  
Với  các quy định tại BLLĐ 2012 và các văn bản hướng dẫn đi kèm thì quy 
định của vấn đề  này đã rất rõ ràng và có những hướng dẫn chi tiết về  việc  
thực hiện. Nhưng việc thực hiện trên thực tế  vần còn rất nhiều khó khăn và 
bấp cập. Đặc biệt là các cơ  qua có thẩm quyền gặp khó khăn trong vần đề 
quản lý quan hệ lao động này.
2.2.1. Về hợp đồng lao động 
HĐLĐ là căn cứ  làm phát sinh quyền và nghĩa vụ  giữa người lao động và  
người  sử  dụng lao  động. HĐLĐ đối với LĐGVGĐ là sự  thỏa thuận giữa 
người lao động làm công việc giúp việc giúp cho gia đình với người sử dụng  
lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của  
mỗi bên trong quan hệ  lao động. Sau đây là quy định của pháp luật cũng như 
yêu cầu về hợp động lao động đối với người giúp việc.
 Thử việc
Trước khi kí kết HĐLĐ, người sử  dụng và người lao động có thể  thỏa 
thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ hai bên trong thời gian thử việc và kết  
6

 Tình hình Lao động giúp việc gia đình, gfcd.org.vn, 2015.


15

thúc thời gian thử việc theo quy định BLLĐ. Thời gian thử việc không quá 06  
ngày làm việc. Hai bên chỉ được thỏa thuận về việc làm thử đối với công việc  

thường xuyên phải làm khi ký HĐLĐ. Tiền lương trong thời gian thử  việc  
bằng 85% mức lương đã thỏa thuận, trường hợp chưa thỏa thuận được mức  
tiền thì mức tiền lương trong thời gian thử việc ít nhất bằng 85% mức lương  
tối thiểu vùng tại địa bàn nơi người lao động làm việc. Thực tế  có rất nhiều 
trường hợp người sử dụng lao động vi phạm quy định này như: yêu cầu người 
LĐGVGĐ thử việc dài hơn so với quy định 06 ngày như 10 ngày, 15 ngày hay  
thậm chí là 1 tháng; không trả  lương cho người lao động trong thời gian thử 
việc; không ký HĐLĐ bằng văn bản với LĐGVGĐ khi đã hết thời gian thử 
việc mặc dù vẫn tiếp tục sử dụng người lao động.
 Chủ thể hợp đồng lao động
Theo   quy   định   tại   Điều   3   Thông   tư   19/2014/TT­BLĐTBXH,   người   ký 
HĐLĐ bên phía người sử  dụng LĐGVGĐ là: Chủ  hộ; người được chủ  hộ 
hoặc các chủ hộ  ủy quyền hợp pháp; người được các thành viên trong hộ gia  
đình hoặc các hộ  gia đình  ủy quyền hợp pháp. Người ký kết HĐLĐ bên phía 
người lao động là: người LĐGVGD từ đủ 18 tuổi trở lên; người LĐGVGĐ từ 
đủ  15 đến dưới 18 tuổi và có văn bản đồng ý của người đại diện theo pháp  
luật của người LĐGVGĐ.  Như  vậy, pháp luật lao động cho phép trẻ  em từ 
đủ 15 tuổi trở lên có thể làm LĐGVGĐ nếu công việc đó nhẹ nhàng, phù hợp  
với lứa tuổi, thời gian làm việc không vượt quá thời gian quy định của pháp  
luật.
 Hình thức hợp đồng
Theo   quy   định   Nghị   định   27/2014/NĐ­CP   hợp   đồng   lao   động   đối   với 
LĐGVGĐ bắt buộc phải được lập thành văn bản.  Tuy nhiên, các quy định 
pháp luật về  HĐLĐ với LĐGVGĐ vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc gây  
tranh   cãi   và   thiếu   khả   thi   trên   thực   tế.   Trên   thực   tế,   đa   số   HĐLĐ   với  
LĐGVGĐ được giao kết bằng lời nói. Bởi vì, phần lớn người LĐGVGĐ là 
phụ  nữ nông thôn, thường lại chính là những người có quan hệ  đồng hương,  
quan hệ  họ hàng với gia đình sử  dụng lao động, hiểu biết pháp luật còn hạn 
chế, cộng thêm tâm lý, thói quen giải quyết các quan hệ bằng tình cảm nên họ 



16

không   biết   hoặc   không   muốn   ký   hợp   đồng   lao   động.  Theo  khảo   sát   của 
GFCD, có trên 90% HĐLĐ là thỏa thuận miệng giữa người giúp việc và chủ 
hộ. Khi được hỏi về  ý định giao kết HĐLĐ bằng văn bản thì chỉ  có 48,6%  
LĐGVGĐ có ý định ký hợp đồng bằng văn bản với   người lao sử  dụng lao 
động7.
 Nội dung của hợp đồng
Các nội dung cụ  thể  phải có trong HĐLĐ được hướng dẫn tại Điều 6 
Thông   tư   19/2014/TT­BLĐTBXH   gồm:   Thông   tin   cá   nhân   của   các   bên   ký 
HĐLĐ; công việc và địa điểm làm việc; thời hạn của HĐLĐ; tiền lương; tiền  
thưởng (nếu có); thời giờ  làm việc, thời giờ  nghỉ  ngơi; trang bị  bảo hộ  lao  
động; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; ăn và chỗ ở của người lao động; tiền 
tàu xe về nơi cư trú khi chấm dứt HĐLĐ đúng thời hạn; hỗ trợ học nghề, học  
văn hóa (nếu có); trách nhiệm bồi thường của người LĐGVGĐ; những hành  
vi nghiêm cấm. Trên thực tế, hầu hết HĐLĐ được không được ký bằng hình 
thức văn bản nếu có được ký bằng văn bản thì nội dung thường cũng rất sơ 
sài chủ yếu là nội dung về tiền lương; công việc và địa điểm làm việc, những 
nội dung khác ít được người sử  dụng lao động và người lao động ghi nhận  
trong hợp đồng.
 Ký kết hợp đồng
Được quy định tại Điều 5, Nghị  định số  27/2014/NĐ­CP nếu người sử 
dụng lao động có thuê mướn, sử  dụng nhiều lao động là người giúp việc gia  
đình thì người sử dụng lao động ký kết HĐLĐ với từng người lao động. Hợp  
đồng lao động được lập ít nhất thành 2 bản, mỗi bên giữ một bản. Người sử 
dụng lao động có trách nhiệm thông báo với UBND xã, phường, thị  trấn nơi  
người lao động làm việc về  việc sử  dụng LĐGVGĐ trong thời hạn 10 ngày, 
kể  từ  ngày ký HĐLĐ. Bên cạnh đó để  bảo vệ  quyền lợi cho những người 
LĐGVGĐ không biết chữ Điều 4 Thông tư 19/2014/TT­BLĐTBXH đã nêu rõ 

về  việc ký kết hợp đồng lao động đối với lao động không biết chữ  như  sau:  
người sử dụng lao động đọc toàn bộ nội dung HĐLĐ để người lao động nghe 
 Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng (2013), Báo cáo tóm tắt: Tổng quan tình hình lao 
động giúp việc gia đình tại Việt nam từ năm 2007 đến nay, Hà Nội.
7


17

và thống nhất nội dung trước khi ký HĐLĐ; người lao động thực hiện ký 
HĐLĐ bằng hình thức điểm chỉ; trường hợp cần thiết, người lao động yêu 
cầu người sử  dụng lao động mời người thứ ba không phải là thành viên của 
hộ gia đình làm chứng trước khi ký HĐLĐ và trong hợp đồng phải ghi rõ tên,  
số  chứng minh nhân dân hoặc hộ  chiếu, hộ  khẩu thường trú, địa chỉ  liên lạc 
khi cần và chữ ký của người làm chứng.
 Chấm dứt hợp đồng lao động
Chấm dứt HĐLĐ là sự  kiện pháp lý làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của 
các   bên   theo   HĐLĐ   đã   giao   kết.   Nghị   định   27/2014/NĐ­CP   và   Thông   tư 
19/2014/TT­BLĐTBXH quy định cụ thể  về  căn cứ  chấm dứt, nghĩa vụ, trách 
nhiệm của các bên khi chấm dứt HĐLĐ. Theo quy định tại Điều 10 Nghị định  
27/2014/NĐ­CP, HĐLĐ chấm dứt trong các trường hợp sau: hết hạn HĐLĐ; 
đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ; hai bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ; 
Người lao động chết; người sử dụng lao động là cá nhân chết; người sử dụng 
lao động hoặc người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
 Thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Đối với người LĐGVGĐ, khi muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao 
động, họ phải thông báo trước cho người sử dụng lao động 15 ngày, tuy nhiên 
họ chỉ cần báo trước 03 ngày trong các trường hợp: người sử dụng lao động vi 
phạm hợp đồng (vi phạm về tiền lương, công việc, điều kiện làm việc) hoặc 
có vấn đề về sức khỏe. Và họ có thể nghỉ việc mà không cần báo trước khi bị 

người sử  dụng lao động hoặc thành viên trong hộ  gia đình ngược đãi, xúc 
phạm danh dự, nhân phẩm, quấy rối tình dục, dùng vũ lực hoặc cưỡng bức  
lao động; khi phát hiện thấy điều kiện làm việc có khả  năng đe dọa an toàn,  
sức khỏe của bản thân, đã báo cho người sử  dụng lao động biết mà chưa 
được khắc phục; do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả  kháng khác mà  
người lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể  tiếp tục  
thực hiện hợp đồng lao động.  Hiện nay, người LĐGVGĐ tự  ý bỏ  việc mà 
không tuân thủ quy định của pháp luật.
Đối với người sử dụng lao động, họ cũng có quyền đơn phương chấm dứt 
hợp đồng lao động với người LĐGVGĐ nhưng phải báo trước cho người 


18

LĐGVGĐ 15 ngày. Nhưng nếu người LĐGVGĐ vi phạm HĐLĐ hoặc khi họ 
bị ốm đau bệnh tật phải điều trị  30 ngày liên tục thì người sử dụng lao động  
chỉ cần báo trước 03 ngày. Và không phải báo trước nếu người LĐGVGĐ có 
những hành vi sau đây: trộm cắp, đánh bạc, cố ý gây thương tích, có các hành  
vi ngực đãi, xúc phạm danh dự nhân phẩm, quấy rối tình dục người sử dụng  
LĐGVGĐ hoặc các thành viên trong hộ gia đình; sử dụng các chất gây nghiện, 
mại dâm; hoặc do các nguyên nhân như thiên tai, hỏa hoạn và các trường hợp  
bất khả kháng khác mà người sử dụng LĐGVGĐ đã tìm mọi cách  khắc phục 
nhưng không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ.
 Trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi hợp  
đồng lao động chấm dứt
Khi hợp đồng lao động chấm dứt, người sử  dụng LĐGVGĐ sẽ  có những 
trách nhiệm đối với người LĐGVGĐ như sau: thanh toán các khoản liên quan  
đến quyền lợi của người lao động  (tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y  
tế); tiền lương cho những ngày nghỉ hàng năm mà người lao động chưa nghỉ,  
chi phí ăn, chỗ ở của người lao động, tiền hỗ  trợ học văn hóa, học nghề, các 

khoản thỏa thuận khác trong HĐLĐ (nếu có); tiền tàu xe đi đường khi người 
lao động về  nơi cư  trú, trừ  trường hợp người lao động làm việc theo HĐLĐ 
xác định thời hạn và HĐLĐ theo mùa vụ  hoặc theo công việc nhất định có 
thời hạn dưới 12 tháng đơn phương chấm dứt HĐLĐ; trợ  cấp thôi việc cho  
người lao động theo quy định của BLLĐ. Tuy nhiên, hiện nay các quy định này 
chưa được người sử  dụng lao động thực hiện đầy đủ  như: không thanh toán 
tiền lương cho những ngày nghỉ  hàng năm mà người lao động chưa nghỉ, trợ 
cấp thôi việc cho người lao động. Thông thường, khi chấm dứt HĐLĐ, người  
sử  dụng lao động và người lao động chỉ  thỏa thuận thanh toán khoản tiền 
lương còn thiếu và tiền tàu xe đi đường khi người lao động về  nơi cư  trú.  
Tình trạng này do nhiều nguyên nhân trong đó có sự  thiếu hiểu biết về  pháp  
luật của người lao động làm cho người sử  dụng lao động có điều kiện vi 
phạm và ý thức chấp hành pháp luật của các bên.
2.2.2. Về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
 Tiền lương


19

Tiền lương là khoản tiền mà người sử  dụng lao động trả  cho người lao  
động để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Theo đó mức tiền lương sẽ do 
hai bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng lao động. Mức tiền lương sẽ  bao  
gồm cả chi phí ăn, ở của người lao động sống tại gia đình người sử dụng lao 
động (nếu có, nhưng không vượt quá 50% mức tiền lương trong hợp đồng lao  
động) và không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại nơi người lao  
động làm việc. 
Về  hình thức trả  lương: người sử  dụng lao động có thể  thỏa thuận trả 
lương cho người lao động theo thời gian (tháng, tuần, ngày, giờ). Thời hạn trả 
lương do người lao động và người sử   dụng lao động thỏa thuận, thời điểm  
trả  lương cố  định trong ngày, trong tuần hoặc trong tháng và ghi trong hợp 

đồng lao động. Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần, tháng thì 
được trả  lương sau giờ, ngày, tuần, tháng làm việc hoặc trả  gộp do hai bên 
thỏa thuận.
Tiền   lương   làm   thêm   được   quy   định   cụ   thể   Thông   Tư   19/2014/TT­
BLĐTBXH. Người lao động là thêm giờ thì được trả lương ít nhất bằng 150% 
tiền lương theo giờ; làm việc vào ngày nghỉ  lễ, tết được trả  lương ít nhất 
300% tiền lương ngày; làm thêm giờ vào ban đêm thì được trả thêm 20% tiền 
lương ngày.
Tiền lương tính trả  cho ngày nghỉ  hằng năm, nghỉ  lễ, tết được tính nhau 
sau: tiền lương ghi trong HĐLĐ của tháng trước liền kề  trước khi người lao 
động nghỉ hằng năm, lễ, tết chia cho số ngày làm việc bình thường trong tháng 
do hai bên thỏa thuận ghi trong HĐLĐ, nhân với số ngày nghỉ hằng năm, nghỉ 
lễ, nghỉ  tết của người lao động. Quy định nhằm tạo điều kiện cho người 
LĐGVGĐ hưởng được những ngày nghỉ  năm, lễ, tết được trọn vẹn về  tinh  
thần củng như vật chất.
Theo Điều 16 Nghị  định 27/2014/NĐ­CP thì tiền lương ngừng việc được 
quy định một cách rất dễ  hiểu và hợp tình hợp lí. Người sử  dụng lao động 
thanh toán đầy đủ  lương khi người lao động nghỉ  việc do lỗi của người sử 
dụng lao động; nếu không có lỗi trong việc nghỉ việc của người lao động thì 
không phải thanh toàn lương.


20

Khấu  trừ   tiền  lương,  đây   là   một   chế   tài   rất   thiết  thực,tăng   tính   trách 
nhiệm kỷ luật cho “người làm” và “chủ  nhà”. Tuy để  trách sự  bất công, lạm 
dụng quy định này để  người sử  dụng LĐGVGĐ thu các khoản tiền vô lí gây  
ảnh hưởng đến quyền lợi, thu nhập của người LĐGVGĐ. Quy định khấu trừ 
lương không quá 30% tiền lương đối với người lao động không sống cùng 
chủ  hộ  và không quá 60% tiền lương (khi đã trừ  chi phí ăn  ở) đối người lao 

động sống chung với chủ hộ.
 Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Người sử  dụng lao động có trách nhiệm chi trả  thêm cùng lúc với kỳ  trả 
lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo  
hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế  thuộc trách nhiệm của người sử  dụng 
lao động theo quy định của pháp luật về  bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế  để 
người lao động tự lo bảo hiểm. Nhưng thường người lao động không tham gia  
bảo hiểm.
 Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi người lao động bị ốm, bị  
bệnh
Trường hợp người lao động sống cùng gia đình người sử dụng lao động bị 
ốm, bị  bệnh, người sử  dụng lao động tạo điều kiện để  người lao động nghỉ 
ngơi, khám, chữa bệnh. Chi phí khám, chữa bệnh do người lao động chi trả,  
trừ  trường hợp hai bên có thỏa thuận khác. Nhưng ngược lại cũng quy định 
người sử dụng lao động không phải trả lương cho những ngày người lao động  
phải nghỉ việc do bị ốm, bị bệnh nhằm bảo quyền lợi của người sử dụng lao  
động.
2.2.3. Về điều kiện làm việc, chế độ sinh hoạt
 Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Về  cơ  bản, các quy định về  thời giờ làm việc, thời giờ  nghỉ  ngơi đối với 
LĐGVGĐ được quy định tương tự như các trường hợp khác. Để phù hợp với  
đặc thù công việc của người LĐGVGĐ pháp luật cho phép hai bên tự  thỏa  
thuận thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tuy nhiên phải đảm bảo người lao 
động phải được nghỉ  ít nhất 8 giờ, trong đó có 6 giờ  liên tục trong 24 giờ.  
Thời giờ làm việc đối với lao động chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi  


21

không được quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần. Mỗi tuần người  

lao động được nghỉ ít nhất 24 giờ liên tục. Nhưng trên thực tế, các công việc 
giúp việc gia đình là những công việc nhỏ nhặt, không tên có thể  diễn ra vào  
bất kỳ thời điểm nào trong ngày nên thời gian làm việc của người lao động có 
thể không kéo dài liên tục mà xen kẽ giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ 
ngơi, nên khó có thể phân định rạch ròi. Kết quả khảo sát của GFCD cho thấy  
tỉ  lệ  số  người giúp việc thỏa thuận thời gian làm việc với gia chủ  là 30,8%, 
trong đó 61,1% cho biết họ  làm việc nhiều hơn 8 giờ/ngày và 35% số  người  
giúp việc cho rằng họ làm việc trên 10 giờ  trên ngày8. Theo quy định điều 23 
Nghị  định 27/2014/NĐ­CP nếu người LĐGVGD làm việc từ  đủ  12 tháng trở 
lên thì sẽ  được nghỉ  hàng năm 12 ngày được hưởng nguyên lương. Người  
LĐGVGĐ có thể thỏa thuận với người sử dụng LĐGVGĐ để  nghỉ  hàng năm  
nhiều lần, hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần. Người LĐGVGĐ được nghỉ 
làm và hưởng nguyên lương trong các ngày lễ, tết theo quy định của BLLĐ.
 Về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với LĐGVGĐ được  
quy định tại Điều 24 Nghị định 27/2014/NĐ­CP. Cụ thể như sau:
Thứ  nhất,  Người sử  dụng lao động có trách nhiệm hướng dẫn cách sử 
dụng máy, thiết bị, đồ  dùng, các biện pháp phòng, chống cháy, nổ  trong gia  
đình có liên quan đến công việc của lao động là người giúp việc gia đình; thực  
hiện các chế độ có liên quan đến bảo đảm an toàn và chăm sóc sức khỏe của  
lao động là người giúp việc gia đình. 
Thứ  hai, Lao động là người giúp việc gia đình có trách nhiệm chấp hành 
đúng hướng dẫn sử dụng máy, thiết bị, đồ dùng và phòng, chống cháy, nổ.
Thứ ba, Hằng năm, người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động  
khám sức khỏe định kỳ, trường hợp cần thiết, người sử  dụng lao động yêu 
cầu người lao động phải khám sức khỏe, chi phí khám sức khỏe do người sử 
dụng lao động chi trả, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác. 

Trung tâm Nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng (2013), Báo cáo tóm tắt: Tổng quan tình hình lao 
động giúp việc gia đình tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay, Hà Nội.

8


22

Việc khám sức khỏe này  được hướng dẫn cụ  thể  tại Điều 19 Thông tư 
19/2014/ TT­BLĐTBXH như  sau: Người sử  dụng lao  động phải bố  trí để 
người lao động khám sức khỏe định kỳ ít nhất một năm một lần; Trường hợp 
cần thiết người sử dụng lao động yêu cầu người lao động thực hiện khám sức 
khỏe tại cơ  sở  y tế  do người sử  dụng lao động chỉ  định;  Chi phí khám sức 
khỏe định kỳ và khám sức khỏe theo yêu cầu của người sử dụng lao động do 
người sử dụng lao động chi trả, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.
Các quy định về việc khám sức khỏe của người lao động giúp việc gia đình 
góp phần đảm bảo sức khỏe cũng như  tạo điều kiện thuận lợi cho họ  được 
khám chữa bệnh trong quá trình làm việc. Tuy nhiên, các quy định này vẫn  
chưa được áp dụng rộng rãi trên thực tế. Bởi vì phần lớn người LĐGVGĐ có 
trình độ  thấp và không được trang bị  tốt các kiến thức về  pháp luật, nên họ 
không biết được các quyền lợi mà họ đáng được nhận. Và người sử dụng lao  
động  cũng  lợi   dụng  sự   không hiểu  biết của  người   LĐGVGĐ  mà  tước   đi 
quyền lợi đáng ra họ phải được hưởng. 
 Trách nhiệm của người sử  dụng lao động khi người lao động bị  tai  
nạn lao động
Khi người lao động bị  tai nạn lao động, người sử  dụng lao động có trách 
nhiệm là cấp cứu kịp thời và điều trị  chu đáo; thông báo cho người thân của 
người lao động biết; thực hiện trách nhiệm của người sử dụng lao động theo  
quy định của BLLĐ; Khai báo và phối hợp với cơ  quan chức năng có thẩm 
quyền để  điều tra tai nạn lao động theo quy định của pháp luật. Và hơn nữa 
người sử  dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao  
động với  người  lao  động bị  tai nạn lao  động trong thời  gian  điều trị, trừ 
trường hợp việc điều trị diễn ra trên 30 ngày liên tục.

 Về quyền lợi của người lao động 
Mặc dù trong cac quy đinh tai B
́
̣
̣ LLĐ không co quy đinh riêng vê quyên cua
́
̣
̀
̀ ̉  
ngươi lao đông la ng
̀
̣
̀ ươi giup viêc trong gia đinh nên quyên cua ng
̀
́
̣
̀
̀ ̉
ười lao đông
̣  
la giup viêc trong gia đinh đ
̀ ́
̣
̀ ược hiêu t
̉ ừ nghia vu cua ng
̃ ̣ ̉
ươi s
̀ ử  dung lao đông
̣
̣  

đôi v
́ ơi ng
́ ươi lao đông la giup viêc trong gia đinh, bao gôm
̀
̣
̀ ́
̣
̀
̀ :


23

Thứ nhất, Được ngươi s
̀ ử dung lao đông th
̣
̣
ực hiên đây đu cac thoa thuân đa
̣
̀ ̉ ́
̉
̣
̃ 
giao kêt trong h
́
ợp đông lao đông
̀
̣ .
Thứ hai, Ngươi giup viêc gia đinh đ
̀

́
̣
̀ ược tra khoan tiên bao hiêm xa hôi, bao
̉
̉
̀ ̉
̉
̃ ̣
̉  
hiêm y tê theo quy đinh cua phap luât đê ng
̉
́
̣
̉
́
̣
̉ ười lao đông t
̣
ự  lo bao hiêm
̉
̉ . Quy 
định này được cụ thể hóa tại Điều 19 Nghị định 27/2014/NĐ­CP.
Thứ  ba,  Ngươi s
̀ ử  dung lao đông phai tôn trong danh d
̣
̣
̉
̣
ự, nhân phâm cua
̉

̉  
ngươi lao đông la giup viêc trong gia đinh
̀
̣
̀ ́
̣
̀ .
Thứ tư, được bô tri chô ăn, 
́ ́ ̃ ở sach se, h
̣
̃ ợp vê sinh (nêu co thoa thuân)
̣
́ ́ ̉
̣ .
Thứ  năm, được tao c
̣ ơ  hôi tham gia hoc văn hoa, hoc nghê
̣
̣
́
̣
̀. Khi ngươi lao
̀
 
đông co yêu câu, ng
̣
́
̀
ươi s
̀ ử dung lao đông bô tri th
̣

̣
́ ́ ời gian đê ng
̉ ười lao đông hoc
̣
̣  
văn hoa, hoc nghê. Th
́
̣
̀ ơi gian cu thê đê ng
̀
̣ ̉ ̉ ười lao đông hoc văn hoa, hoc nghê do
̣
̣
́
̣
̀  
hai bên thoa thuân.
̉
̣
Thứ  sáu, Ngươi giup viêc gia đinh đ
̀
́
̣
̀
ược tra tiên tau xe đi đ
̉ ̀ ̀
ường khi thôi  
viêc vê n
̣
̀ ơi cư tru, tr

́ ư tr
̀ ương h
̀ ợp ngươi giup viêc gia đinh châm d
̀ ́
̣
̀
́ ứt hợp đông
̀  
lao đông tr
̣
ươc th
́ ơi han.
̀ ̣
Thơi gian qua, Bô Luât Lao đông năm 2012 đ
̀
̣
̣
̣
ược thông qua vơi 05 điêu quy
́
̀
 
đinh vê lao đông la ng
̣
̀
̣
̀ ươi giup viêc gia đinh đa nhân đ
̀
́
̣

̀
̃ ̣ ược nhiêu y kiên đông
̀ ́ ́
̀  
tinh cua d
̀
̉ ư  luân. Viêc công nhân loai hinh lao đông nay không chi đam bao
̣
̣
̣
̣ ̀
̣
̀
̉ ̉
̉  
quyên l
̀ ợi cho ngươi lao đông ma con đam bao quyên l
̀
̣
̀ ̀ ̉
̉
̀ ợi cho người sử dung lao
̣
 
đông. T
̣
ừ  đó tiến tới từng bước tới tạo dựng sự bình đẳng trong quan hệ  lao 
động vốn khá nhạy cảm này.
 Các hành vi nghiêm cấm của người sử dụng lao động
Căn cứ Điều 183 Bộ luật lao động năm 2012 quy định như sau:

“Ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động, dùng vũ lực đối với  
lao động là người giúp việc gia đình.
Giao việc cho người giúp việc gia đình không theo hợp đồng lao động.
Giữ giấy tờ tùy thân của người lao động.”
Điều 183 BLLĐ 2012 quy định một số hành vi nghiêm cấm thực hiện của  
người sử dụng lao động đối với người lao động giúp việc gia đình. Trong đó 
có nhóm hành vi xâm hại tới thể  xác hoặc và tinh thần của họ  (ngược đãi,  
quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động, dùng vũ lực); hành vi lạm dụng sức  


24

lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình (giao việc không đúng 
thỏa thuận trong hợp đồng lao động) và hành vi sử dụng lợi thế người chủ để 
khống chế  người  lao  động giúp việc (giữ  giấy tờ  tùy thân của người lao  
động). Có thể nói giữa hành vi nghiêm cấm người sử dụng lao động “Ngược 
đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động, dùng vũ lực đối với lao động là 
người giúp việc gia đình” có mối liên hệ  với nghĩa vụ  của người lao động 
được qui định  ở khoản 4 điều 182 Bộ  Luật Lao Động 2012 “Tố  cáo cơ  quan 
có thẩm quyền nếu người sử  dụng lao động có hành vi ngược đãi, quấy rối 
tình dục, cưỡng bức lao động hoặc có những hành vi khác vi phạm pháp luật”. 
Bởi do tính chất công việc và đối tượng lao động đa phần là nữ  nên việc bị 
xâm hại, lạm dụng là điều thường xuyên xảy ra nên các nhà làm luật muốn 
cho người lao động ý thức được việc tự bảo vệ bản thân không chỉ  là quyền 
lợi mà còn là điều bắt buộc, là nghĩa vụ phải tố giác khi họ gặp phải sự việc 
trên. Quy định này thật sự cần thiết cho sự bảo vệ người lao động. Kết quả 
điều tra cho thấy, có 20,2% số người lao động đã từng bị các thành viên trong 
gia đình chủ lăng mạ, mắng chửi; 2,4% người giúp việc bị  đánh đập/tát, đẩy 
ngã; 16% gặp nguy cơ bị lạm dụng tình dục; 0,8% bị đe dọa/đập phá đồ dùng  
cá nhân9.

2.2.4. Về  quản lý, kỷ  luật lao động, trách nhiệm vật chất và giải quyết  
tranh chấp lao động 
 Về quản lý lao động giúp việc gia đình
Trách nhiệm quản lý được quy định tại Nghị  định số  27/2014/NĐ­CP và 
Thông tư số 19/2014/TT­BLĐTBXH. Trong đó, UBND xã, phường, thị trấn có 
trách nhiệm tiếp nhận thông báo sử dụng lao động là người giúp việc gia đình  
và chấm dứt hợp đồng lao động; hộ  trợ  giải quyết tranh chấp lao động khi 
người lao động hoặc người sử dụng lao động yêu cầu; tiếp nhận, giải quyết 
tố  cáo của người lao động khi người sử dụng lao động có hành vi ngược đãi, 
quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động hoặc có hành vi khác vi phạm pháp 
luật. Việc quy định trách nhiệm của UBND cấp xã quản lý lao động giúp việc  
 Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng (2013), Báo cáo tóm tắt: Tổng quan tình hình lao 
động giúp việc gia đình tại Việt nam từ năm 2007 đến nay, Hà Nội.
9


25

gia đình là khá phù hợp, bởi lẽ  đây là cơ  quan hành chính nhà nước  ở  địa  
phương. Nhưng trên thực tế, do không muốn ký kết hợp đồng lao động, nhiều  
gia đình sử dụng lao động này không trình báo với chính quyền, dẫn đến công 
tác quản lý còn nhiều thiếu sót, khi nảy sinh vụ việc dễ bị động, lúng túng.
Hoạt động quản lý nhà nước với các trung tâm giới thiệu việc làm về 
LĐGVGĐ đang còn buông lỏng. Hiện nay, ngoài nguồn tuyển dụng thông qua 
người thân, bà con, họ  hàng, bạn bè giới thiệu thì nhiều gia đình sử  dụng 
người giúp việc còn thông qua các trung tâm. Mặc dù, thu phí “hai cửa”, nghĩa  
là các trung tâm thu phí cả   ở  người LĐGVGĐ và người sử  dụng LĐGVGĐ.  
Nhưng trung tâm không có trách nhiệm gì về  khả  năng làm việc, nhân thân  
người lao động nên nhiều khi mất phí mà người sử dụng lao động vẫn không 
thể thuê LĐGVGĐ được lâu dài. 

 Kỉ luật lao động, trách nhiệm vật chất
Điều 26 Nghị  định 27/2014/NĐ­CP quy định chi tiết thi hành một số  điều 
của bộ luật lao động về  lao động là người giúp việc gia đình quy định về  kỷ 
luật lao động và trách nhiện vật chất như sau:
Về  kĩ luật lao động, khi người lao động có hành vi vi phạm các nội dung 
trong hợp đồng lao động, ngoài trừ  các trường hợp quy định tại Khoản 2 và 
Khoản 3 Điều 12 Nghị định 27/2014/NĐ­CP thì người sử dụng lao động xử lý 
kỷ  luật lao động theo hình thức khiển trách; trường hợp người lao động tái 
phạm, tùy theo mức độ vi phạm mà người sử dụng lao động có thể chấm dứt 
hợp đồng lao động khi báo trước 15 ngày khi đơn phương chấm dứt hợp đồng 
lao động. 
Về  trách nhiệm vật chất, Người lao động làm hư  hỏng dụng cụ, thiết bị 
hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử  dụng lao động phải  
bồi thường theo quy của Bộ  luật Lao động, trừ  trường hợp hai bên có thỏa  
thuận khác. Điều 21 Thông tư  19/2014/TT­BLĐTBXH hướng dẫn thi hành 
một số  điều của nghị  định số  27/2014/NĐ­CP đã hướng dẫn chi tiết thi hành 
một số điều của BLLĐ về bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của  
người lao động được hướng dẫn thực hiện như sau:


×