Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.94 KB, 19 trang )

TT

Tên mục
I. PHẦN MỞ BÀI

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

1
2
3
a
b
c
4
a
b
c
d
e


13
14
15
16
17
18

1
1.1
a
b
1.2
1.3

19
20

a
b

21

2.

22
23
24
25
26
27

28
29

2.1
2.2
2.3
2.4
a
b
3
a
b
c
d
4
1
2

Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu nghiên cứu
Đối tượng khảo sát
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp khảo sát, phỏng vấn
Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp xử lý thông tin
Phương pháp nghiên cứu lý luận

II. PHẦN NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Khái quát về kỹ năng sống
Kỹ năng sống là gì?
Khái niệm về kỹ năng sống
Phân loại kỹ năng sống
Biện pháp giáo dục kỹ năng sống và sự cần thiết phải GD KNS
cho học sinh THCS
Giáo dục KNS là gì?
Sự cần thiết phải giáo dục KNS cho học sinh THCS
Thực trạng về việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
THCS nói chung và học sinh THCS Công Liêm nói riêng
và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó
Thực trạng
Thực trạng tại Trường THCS Công Liêm
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó
Vai trò và tác dụng của KNS đối với học sinh THCS
Vai trò của KNS
Tác động của KNS đối với học sinh THCS
Các giải pháp giải quyết vấn đề
Phương pháp động não
Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp đóng vai
Phương pháp nghiên cứu tình huống
Hiệu quả biện pháp giáo dục KNS cho học sinh THCS
Công Liêm
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị


Trang

02
03
03
03
03
03
03
03
03
03
03
03
04
04
04
04
04
05
05
05
06
06
08
09
10
10
10
11

12
12
12
14
16
17
18

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta được biết, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nói
chung, học sinh THCS Công Liêm nói riêng là một việc làm cần thiết.Bởi trong xã
hội phát triển mạnh mẽ đầy thách thức hiện nay, nếu thiếu kỹ năng sống sẽ thiếu
khả năng phân tích xử lý các tình huống khó khăn, xuống cấp về đạo đức, nhận
thức và ứng xử lệch lạc, có phản ứng tiêu cực, dễ rơi vào bế tắc, không tự mình
kéo lên được,... Trong khi đó, chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến
thức, chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Từ những năm học 2008 - 2009 với chủ trương xây dựng “Trường học thân
thiện - Học sinh tích cực - Trường Xanh, Sạch, Đẹp" nội dung giáo dục KNS
trong trường học lần đầu tiên được Bộ GD&ĐT nhắc đến. Tuy nhiên, ở một số
trường học ngoài công lập, trường học quốc tế, việc giáo dục KNS đã được quan
tâm sớm hơn một bước và đã trở thành một bộ môn chính khóa. Do vậy, đề tài
“Giáo dục KNS cho học sinh THCS” đã thực hiện, nhằm hướng đến giáo dục toàn
diện cho HS, giúp các em rèn luyện KNS vững vàng trong cuộc sống.
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng của nhiều lĩnh vực xã hội thì giáo
dục thời đại mới đã và đang phấn đấu đổi mới về nội dung, chất lượng và phương
pháp sao cho đạt được 2 mục tiêu lớn là đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo kỹ

năng sống cho học sinh. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt đuợc của toàn
ngành thì gần đây chúng ta thường thấy thực trạng trẻ vị thành niên có xu hướng
gia tăng về bạo lực học đường, về phạm tội, về liều lĩnh, ứng phó không lành
mạnh, dễ mắc các tai tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vô tâm, khép mình,….Vì vậy việc
rèn kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng
tự phục vụ bản thân cũng làviệc làm cần thiết…Hơn thế nữa đứng trước thềm hội
nhập quốc tế đòi hỏi thế hệ trẻ phải tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng
như phải có một số kỹ năng: sống khỏe, sống lành mạnh, giỏi lập trình, giỏi tiếng
Anh, giỏi ứng xử các tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày… như khi thấy
bạn bị đuối nước; khó thở do hít khí, bạn bị tai nạn trên đường đi.....
Vấn đề học sinh thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ,
vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là những cản trở lớn
cho sự phát triển của thanh thiếu niên khiến không ít các bậc cha mẹ phải phiền
lòng vì con, trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay.
Nhiều vị phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin, luôn
tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông hoặc không biết cách
xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ người khác, tìm
đường, định hướng...
Thêm nữa trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kỹ
năng tự bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi các nhóm trẻ xấu luôn lấy sức
mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các trẻ hiền, ngoan, ít nói....
Nhiều em học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong thế
giới ảo của Internet của thế giới game,... mà quên đi và đánh mất những cơ hội
kết bạn, thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình, lo sợ, rụt rè khi tiếp xúc với
cộng đồng, xã hội.
Gắn với phong trào thi đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực. Trường chuẩn Quốc gia;
2



Trước những yêu cầu hết sức thiết thực, với cương vị thủ trưởng một đơn vị
tôi xin trình bày ra đây những điều rút ra được thực tiễn, mong muốn chia sẻ cùng
đồng nghiệp nhằm đóng góp phần nào kinh nghiệm giáo dục cho con em chúng
ta trở thành những con người toàn diện, năng động, sáng tạo hòa nhập cùng cộng
đồng, và có ích cho xã hội.
Với những lý do trên và thực tiễn tại trường THCS Công Liêm tôi mạnh
dạn lựa chọn đề tài : “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Trường Trung họa cơ sở”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện; phù hợp với 4 trụ cột của giáo dục
theo quan niệm của UNESCO: học để biết; học để làm; học để tồn tại và học để
chung sống;
Giúp học sinh thích ứng được với cuộc sống đầy những biến động khôn lường
(những tác động của tự nhiên và xã hội hiện đại)
Thúc đẩy những hoạt động mang tính xã hội, phát huy các nhân tố tích cực,
hạn chế nhân tố tiêu cực, xây dựng môi trường trường học thân thiện, học sinh
tích cực. Góp phần tích cực cho việc đổi mới phương pháp học tập của học sinh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh THCS.
b. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh THCS
c. Đối tượng khảo sát: Học sinh Trường THCS Công Liêm
4. Phương pháp nghiên cứu.
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu dùng để nghiên cứu các tài liệu, các đề tài
về giáo dục KNS cho học sinh THCS, phân tích, đánh giá, tổng hợp tài liệu về vấn
đề có liên quan đến đề tài.
b. Phương pháp khảo sát, phỏng vấn .
Phương pháp được thực hiện nhằm thu thập thông tin về thực trạng giáo
dục KNS cho học sinh THCS. Để đo mức độ hình thành KNS cho học sinh THCS.

c. Phương pháp thống kê toán học.
Phương pháp thống kê toán học dùng để xử lý các kết quả khảo sát bằng
phiếu hỏi.
d. Phương pháp xử lý thông tin.
Phương pháp xử lý thông tin: để xây dựng các luận cứ, khái quát hoá để
phục vụ cho việc chứng minh.
e. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước về vấn đề giáo dục và giáo dục KNS cho học sinh THCS, phân tích, tổng
hợp những tư liệu, tài liệu lý luận về giáo dục KNS.

II. PHẦN NỘI DUNG
3


1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những quan điểm cùa Nhà nước ta về giáo dục kỹ năng cho HS.Qua khảo sát thực
tế học sinh Trường THCS Công Liêm.
1.1. Khái quát về kỹ năng sống
a. Kỹ năng là gì?
Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào
đó phát sinh trong cuộc sống.
b. Khái niệm kỹ năng sống.
Khái niệm KNS được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo tồ chức
UNESCO định nghĩa " kỹ năng sống" là: khả năng thích nghi và hành vi tích cực
cho phép cá nhân có đầy đủ khả năng đối phó có hiệu quả với nhu cầu và thách
thức của cuộc sống hằng ngày. Nói một cách dễ hiểu, đó là khả năng nhận thức
của bản thân (giúp mỗi người biết mình là ai, sinh ra để làm gì, điểm mạnh, điểm

yếu của bản thân, mình có thể làm được làm gì?)
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng của nhiều lĩnh vực xã hội thì giáo
dục thời đại mới đã và đang phấn đấu đổi mới về nội dung, chất lượng và phương
pháp sao cho đạt được 2 mục tiêu lớn là đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo kỹ
năng sống cho học sinh. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt đuợc của toàn
ngành thì gần đây chúng ta thường thấy thực trạng học sinh có xu hướng gia tăng
về bạo lực học đường, về phạm tội, về liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh, dễ
mắc các tai tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vô tâm, khép mình,….Vì vậy việc rèn kỹ
năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng tự phục
vụ bản thân cũng là nhu cầu cần thiết… sống khỏe, sống lành mạnh, giỏi lập
trình, giỏi tiếng Anh…và ứng phó các tình huống có thể sảy ra trong cuộc sống
như khi thấy bạn bị đuối nước; khó thở do hít khí , bạn bị tai nạn trên đường
đi.....Thì nên làm gì, làm như thế nào ?
Vì tại Trường THCS Công Liêm trong những năm học qua vẫn còn tình
trạng học sinh đuối nước nhưng những bạn đi cùng lại thiếu đi kỹ năng sống, kỹ
năng ứng phó
Ví dụ: Khi bạn N bị đuối nước em M đi cùng thấy bạn bị như vậy mà gần
đó có các hộ nhà dân nhưng bạn M không gọi, không kêu cứu mà chạy một mạch
về nhà khoảng 2 km để gọi bố mẹ và người thân ra cứu. Thì rất tiếc cho em N
không được cứu kịp thời và em N đã ra đi vĩnh viễn....
1.2. Phân loại kỹ năng sống.
Kỹ năng sống được chia làm hai loại: kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao.
Kỹ năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng,...
Kỹ năng nâng cao: Là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới
một dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: các khả năng tư duy logic, sáng tạo, suy
nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp,... Ở các lớp THCS, kỹ năng nâng cao được
xem trọng nhiều, còn kỹ năng cơ bản được xem trọng ở các lớp đầu cấp tiểu học.
KNS được học qua 3 môi trường cụ thể, đó là: học từ những người truyền thụ trực
tiếp kiến thức cho mình, học từ sách báo, truyền hình và các phương tiện truyền
thông đại chúng khác, học từ những hiện tượng xảy ra trong tự nhiên xã hội. Hay

nói cách khác, KNS có trong 3 môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. ....
4


- Vấn đề học sinh thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ,
vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là những cản trở lớn
cho sự phát triển của thanh thiếu niên khiến không ít các bậc cha mẹ phải phiền
lòng vì con, trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay.
- Nhiều vị phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin,
luôn tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông hoặc không biết
cách xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ người khác,
tìm đường, định hướng,...
1.3. Biện pháp Giáo dục kỹ năng sống và sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh THCS.
Trước hết phải cho học sinh hiểu rõ: Bản chất việc GD KNS và việc cần
thiết phải giáo dục KNS cho học sinh hiện nay
a. Giáo dục KNS là gì?
Giáo dục KNS là một quá trình với những hoạt động cụ thể nhằm tổ chức,
điều khiển để học sinh biết cách chuyển dịch kiến thức đã được biết và thái độ, giá
trị ( HS suy nghĩ, cảm thấy tin tưởng được) thành hành động thực tế một cách tích
cực và mang tính chất xây dựng. Giáo dục KNS cho HS không phải là đưa ra
những lời giải đơn giản cho những câu hỏi đơn giản, mà giáo dục KNS là việc
hướng đến làm thay đổi các hành vi. Có nghĩa là, GD cho các em có cách sống
tích cực trong xã hội, là xây dựng và thay đổi ở các em các hành vi theo hướng
tích cực, phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học dựa trên
cơ sở giúp HS có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp.
Mục tiêu giáo dục KNS cho học sinh THCS không dừng lại ở việc làm thay
đổi nhận thức cho HS bằng cách cung cấp thông tin, tri thức mà tập trung vào mục
tiêu xây dựng hoặc làm thay đổi hành vi của HS theo hướng tích cực, mang tính
xây dựng đối với các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.

Học sinh THCS (12-16 tuổi) là lứa tuổi có nhiều thay đổi mạnh mẽ về thể
chất, sức khỏe và tâm sinh lý. Tuổi dậy thì các em dễ thay đổi tình cảm, hành vi,
chóng vui chóng buồn.
b. Sự cần thiết phải giáo dục KNS cho học sinh THCS.
Cuộc sống luôn tạo ra những khó khăn, thử thách để con người vượt qua. Vì
vậy, mỗi con người cần phải trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết để giải
quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống. Là một nhà giáo dục tương lai, một
con người của xã hội, chúng ta cần phải thấy rõ vai trò của việc trang bị KNS cho
HS. Mâu thuẫn giữa ý muốn thoát khỏi sự giám sát của bố mẹ, muốn khẳng định
mình trong gia đình lẫn ngoài xã hội với ý thức “các em vẫn còn là trẻ con” trong
suy nghĩ của các bậc cha mẹ, thầy cô đã nảy sinh những xung đột mà các em chưa
được trang bị kỹ năng cần thiết để ứng phó và giải quyết.
Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phạm pháp ở
thanh thiếu niên, đặc biệt ở độ tuổi THCS, ngày càng gia tăng đến mức độ đáng
báo động trong xã hội. Vì vậy, giáo dục KNS là con đường ngắn nhất, giúp các em
định hướng về cách sống và hành động một cách tích cực. Nắm được KNS, các
em sẽ dễ dàng áp dụng những kiến thức lý thuyết, những “cái mình biết”, “cái
mình tin tưởng”,.. vào thực tiễn thành những hành động tích cực, giúp các em
thích ứng nhanh nhẹn với những sự thay đổi ngày càng nhanh của xã hội, vững
bước tương lai.
5


Vì vậy đối với học sinh nói chung, học sinh THCS Công Liêm nói riêng cần
cho các em hiểu rõ 10 nhóm kỹ năng sống mà các em cần phải biết đó là:
- Kỹ năng tự phục vụ bản thân
- Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời
- Kỹ năng giao tiếp và ứng xử
- Kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc
- Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân

- Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông
- Kỹ năng hợp tác và chia sẻ
- Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả
- Kỹ năng đánh giá người khác.
- Kỹ năng đối diện và ứng phó khó khăn trong cuộc sống
2. Thực trạng về biện pháp giáo dục KNS cho học sinh THCS nói chung và
học sinh Trường THCS Công Liêm nói riêng. Nguyên nhân dẫn đến thực
trạng đó
2.1. Thực trạng về biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung
học cơ sở nói chung và học sinh thcs công liêm nói riêng hiện nay
Thời gian qua, báo chí đã phản ánh khá nhiều về thực trạng thanh thiếu niên
thiếu hụt về kỹ năng xử lý, ứng phó với tình huống xảy ra trong cuộc sống nên đã
rơi vào bế tắc ví dụ như trường THCS Công Liêm trong những năm học qua vẫn
còn tình trạng học sinh Đuối nước, dẫu có bạn đi bên cạnh nhưng vẫn không cứu
sống được, các bạn không thể tự kéo bạn mình lên được hoặc thiếu đi rất nhiều
kỹ năng cần thiết;
Thực trạng cho nền giáo dục ở nước ta hiện nay là quá chú trọng vào việc
giảng dạy kiến thức, sách vở, quản lý GD bằng những quy tắc cứng nhắc mà xem
nhẹ việc GD về KNS, đạo đức cho học sinh. Chính vì thế mà Việt Nam là một
trong những nước đứng đầu về bạo lực học đường.
Công tác giáo dục KNS cho HS chưa được đầu tư đúng mức về tài liệu, cơ
sở vật chất giảng dạy. Nội dung, cách thức giáo dục KNS đơn điệu, sơ sài, chưa
thu hút được sự quan tâm tham gia của các em HS. Bản thân giáo viên cũng còn
thiếu KNS nên khó đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục KNS cho HS. Vì vậy, với không
ít cơ sở GD, giáo dục KNS là nhiệm vụ bất đắc dĩ, và kết quả "được hay không thì
tùy".
Về phía các đoàn thể xã hội khác, nhìn chung đều có tham gia vào công tác
này, nhưng chưa thực sự quan tâm đúng mức. Đặc biệt, về phía gia đình, vì nhiều
nguyên nhân mà hầu hết các bậc phụ huynh đều đẩy việc giáo dục KNS con em
mình cho nhà trường, không quan tâm đến con em mình trong nhận thức về KNS.

Trong khi đó, GD trong gia đình là nền tảng đầu tiên và quan trọng nhất. Hầu hết
đề tài nghiên cứu trước đây đều có chung nhận định: học sinh thời nay năng động,
tự tin, mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình và thường có mức yêu cầu cao đối
với bản thân.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các em bước đầu hình thành những quan niệm
cơ bản về kỹ năng sống, phần đông nhận thức được kỹ năng sống là hành vi con
người thể hiện khi ứng phó với những tình huống diễn ra trong cuộc sống, dựa
trên những phẩm chất tâm lý và kinh nghiệm cá nhân.

6


Bên cạnh đó, các em cũng nhận định được nguyên nhân chính dẫn đến việc
thiếu kỹ năng sống là do chưa có sự hòa hợp trong giao tiếp giữa các em với cha
mẹ, thầy cô.
Đồng thời cũng bị ảnh hưởng bởi lối sống, quan niệm sống từ bạn bè cùng
lớp, cùng trường và từ các phương tiện thông tin đại chúng (mạng Internet, báo
chí, diễn đàn...). Tuy nhiên, chỉ mới dừng ở việc nhận thức, đa số học sinh vẫn
chưa tiếp cận được những biện pháp rèn luyện để hình thành kỹ năng sống. Điều
này cần sự nỗ lực từ nhiều phía: gia đình, nhà trường và chính bản thân học sinh.
Có nhiều HS học rất giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, các em chỉ biết ăn, ngủ, học
và vui chơi, trong khi đó khả năng giao tiếp rất kém.
Qua khảo sát thực nghiệm đối với nhóm HS trường THCS Công Liêm. Để
có những nhận xét, đánh giá chính xác, Tôi đã mạnh dạn đưa ra một số phiếu
khảo sát với nhiều câu hỏi nhằm tìm hiểu thực trạng và nhu cầu cần được giáo dục
KNS cho học sinh THCS.
Nội dung của phiếu như sau:
PHIẾU TRẮC NGHIỆM KỸ NĂNG SỐNG CỦA HỌC SINH THCS
( Đánh dấu vào ô bạn chọn)
Câu 1: Theo bạn, kỹ năng giao tiếp tốt sẽ quyết định bao nhiêu sự thành

công của bạn trong công việc và cuộc sống?
a. 20%
b. 50%
c. 85%
d. 70%
Câu 2: Trong tiết học, giáo viên có kết hợp giữa việc dạy kiến thức trong
bài học với việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh hay không?
a. Thường xuyên
b. Thỉnh thoảng
c. Hiếm khi
d. Không bao giờ
Câu 3: Giao tiếp không hiệu quả sẽ dẫn đến hậu quả như thế nào?
a. Xảy ra hiểu lầm
b. Mọi người không lắng nghe nhau
c. Người nói không thể đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng
Câu 4: Cách tư duy nào sau đây sẽ luôn giúp bạn thành công hơn trong quá
trình giao tiếp?
a. Hãy luôn đơn giản hóa vấn đề
b. Luôn nhìn người khác với con mắt tích cực
d. Xem người khác sai gì để mình chỉ trách
Câu 5: Bạn được rèn luyện kỹ năng sống ở đâu?
a. Nhà trường
b. Gia đình
c. Bạn bè
d. Tất cả
Câu 6: Bạn kiểm soát những tình huống mới một cách khá thoải mái và dễ
dàng?
a. Không bao giờ
b. Hiếm khi
c. Thỉnh thoảng

d. Thường xuyên
e. Luôn luôn
Câu 7: Tôi có khuynh hướng làm những gì tôi nghĩ mình có thể làm được
hơn những gì tôi tin là đúng?
a. Không bao giờ
b. Hiếm khi
c. Thỉnh thoảng
d. Thường xuyên
7


e. Luôn luôn
Câu 8: Bạn thường rèn luyện kỹ năng sống của mình bằng cách nào?
a. Trong hoạt động vui chơi với bạn bè
b. Trong học tập ở nhà trường
c. Trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
d. Trong công việc hàng ngày
Câu 9: Bạn được trường tổ chức giáo dục kỹ năng sống bao lâu một lần?
a. Thường xuyên (một tuần một lần) b. Thỉnh thoàng (một tháng một lần)
c. Hiếm khi
d. Không bao giờ
* Kết quả điều tra 200 học sinh trong trường: Đánh giá tổng hợp (10 câu hỏi cho
200 HS):
Nhận xét về kết quả điều tra cho thấy: hầu hết các em biết được tầm quan
trọng của KNS trong cuộc sống hiện nay, và có những nhận thức đúng đắn về việc
tiếp xúc và giải quyết các tình huống. Nhưng, hầu hết các em chưa được tiếp cận
một cách thường xuyên và giáo dục đúng đắn về các KNS. Vì vậy, các em cần
phải được rèn luyện và giáo dục đúng đắn về KNS.
Những kĩ năng sống cần được giáo dục và rèn luyện đối với học sinh THCS:
- Kĩ năng giao tiếp và thương thuyết (bao hàm tính tự kiềm chế)

- Kĩ năng lựa chọn và quyết định (bao hàm phê phán và bác bỏ)
- Kĩ năng hợp tác và tìm kiếm sự giúp đỡ (bao hàm yếu tố thân thiện, làm việc
theo nhóm) .
- Kĩ năng tự nhận thức(ta là ai là điều cực kì quan trọng)
- Kĩ năng giải quyết các tình huống đặc biệt khó khăn trong cuộc sống
- Kĩ năng tưởng như rất đơn giản nhưng thật sự cần thiết như
+ Kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; không chỉ cho việc học ngoại ngữ mà cho
mọi môn học, cho cuộc sống sau này;
+ Kĩ năng cấp cứu khi có người gặp tai nạn hoặc bệnh tật hiểm nghèo...
+ Kĩ năng cắm trại, leo núi;
+ Kĩ năng làm vườn và chăm sóc cây cảnh...
2.2. Thực trạng tại Trường THCS Công Liêm
a. Thuận lợi
- Bộ GD - ĐT đã đổi mới về nội dung giảng dạy (qua việc mua sách giáo
khoa)theo hướng dẫn để áp dụng, dễ triển khai các phương pháp dạy học tích cực,
tăng thực hành…
- Sở GD - ĐT đã thực hiện tập huấn đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra
đánh giá bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng
- Với trường:
+ HS của trường một số em có điều kiện kinh tế,có tố chất, nắm bắt nhanh
những thay đổi của xã hội (theo hướng tốt xấu ngang nhau).
+ Trường luôn có truyền thống đi đầu trong công tác triển khai thực hiện các
mục tiêu giáo dục, các phong trào thi đua dạy tốt học tốt của ngành đề ra
+ Đổi mới phương pháp hoạt động chuyên môn
+ Hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề…
+ Hoạt động đoàn thể: bảo vệ môi trường, an toàn giao thông, xây dựng
trường xanh - sạch - đẹp; xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực…
8



Trường CQG; luôn lồng ghép chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
vào các môn học;
- Hơn nữa nhận thấy tính cấp bách của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh hiện nay là rất cần thiết. Vì qua thực tế có rất nhiều học sinh yếu về việc
KNS,
Ví dụ như: Các em thấy bạn đuối nước; thấy bạn bị ngạt khí thở; nhiều em
khi bị bạn đánh không báo cáo thầy cô và nhà trường mà chạy về gọi bố mẹ hoặc
anh chị để bố mẹ anh chị đến trường khi chưa cần thiết....... Trước tình hình thiếu
KNS hiện nay của học sinh Bản thân Tôi cũng như các giáo viên của trường đều
rất trăn trở, làm thế nào để rèn luyện kĩ năng sống có hiệu quả để đưa trường
chúng tôi trở thành môi trường giáo dục tin cậy cho PHHS về mọi mặt.
b. Khó khăn
- Về phí học sinh: Các em được gia đình nuông chiều quá trở thành các
thói quen xấu, khó thay đổi.Hơn thế do sức ép điểm số, do kỳ vọng của gia đình
các em thiên lệch về kiến thức.Nhiều em còn bộc lộ tính ích kỷ không muốn bạn
hơn mình...
- Về phía giáo viên:
+ Chương trình giảng dạy nặng do đó phải nghiêng nhiều về kiến thức.
+ Một số còn lúng túng khi vận dụng chưa thực sự khởi động, chưa gương
mẫu, chưa thực sự bắt kịp những thay đổi của xã hội
+ Chưa thực sự nắm vững về tâm lý lứa tuổi mặc dù chuyên môn rất vững.
- Tóm lại rèn luyện KNS ở trường THCS Công Liêm là việc làm nhằm
giúp cho HS có thói quen xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi, trở
thành người có ích cho gia đình cho xã hội.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
* Về phía HS: chưa được trang bị các kỹ năng cần thiết để nhận thức về bản
thân và đối phó với các tình huống đến từ các mối quan hệ xã hội và sự biến đổi
tâm sinh lý của bản thân và sự biến đổi của môi trường.
* Về phía gia đình: chưa nhận thức được đầy đủ về nhiệm vụ giáo dục đạo
đức cho HS, còn lơ là, không quan tâm đến các em, chưa thật sự gương mẫu cho

các em noi theo, phó mặc nhiệm vụ cho giáo viên và nhà trường.
* Về phía nhà trường: chưa quan tâm đầy đủ đến công tác giáo dục KNS
cho học sinh, chưa đưa công tác này thành kế hoạch cụ thể, chưa có công tác tổ
chức và hướng dẫn thực hiện cho GV. GV thì chưa được trang bị đầy đủ về KNS
và tầm quan trọng của công tác giáo dục KNS cho HS, chưa biết cách tổ chức
giáo dục KNS phù hợp cho từng lứa tuổi.
* Về phía xã hội: Ngày càng có nhiều tệ nạn xã hội nguy hiểm, các khu vui
chơi giải trí lành mạnh cho HS ít được đầu tư phát triển, nhiều tụ điểm không lành
mạnh mọc lên ngày càng nhiều quán càfe, bia, internet, karaokê.....
Từ những nguyên nhân đó với cá nhân tôi nghiên cứu đề tài có một số đề
nghị như sau:
* Đầu tiên là từ phía bản thân của các em cần phải có ý thức tự giác, tự ý
thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện KNS đối với bản thân, tích cực học
tập, tìm hiều, từ đó đề ra cho mình các biện pháp và phương hướng rèn luyện có
hiệu quả.

9


* Về phía gia đình cần phải quan tâm, theo dõi các em, luôn giúp đỡ, tạo
điều kiện cho các em có thể phát triển một cách toàn diện những khả năng của bản
thân, phát triển trí tuệ và thể chất, để các em có cơ hội học tập và rèn luyện KNS
cho bản thân.
* Về phía nhà trường cần phải quan tâm, chú ý đến việc rèn luyện KNS cho
các em. Chú ý kết hợp hài hòa giữa việc giáo dục kiến thức với giáo dục đạo đức,
KNS cho HS. Nhất là kỹ năng ứng xử khi các tình huống có thể xảy ra..
Nhà trường cẩn tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt
ngoại khóa. Tham quan, du lịch,tổ chức cho học sinh tập bơi (Nếu có)..để các em
có điều kiện tiếp xúc với thực tế, gặp những trường hợp mà tự bản thân các em
suy nghĩ và giải quyết,…Từ đó, giúp các em rèn luyện KNS tốt hơn.

* Xã hội cần phải quan tâm, tạo điều kiện cho các em vui chơi, giải trí,
nhằm tăng cường việc rèn luyện KNS.
Ở Địa phương các xã cần làm tốt đề án "Dạy bơi phòng chống đuối nước
cho học sinh bằng bể bơi thông minh" theo đề án của Công tyCP Đầu tư xây lắp
và Thương mại D&S Việt Nam ngày 19/03/2018
2.4. Vai trò và tác động của kỹ năng sống đối với học sinh THCS
a. Vai trò của Kỹ năng sống:
Nhiều nghiên cứu đã cho phép đi đến kết luận là trong các yếu tố quyết
định sự thành công của con người, kỹ năng sống đóng góp đến khoảng trên 80%.
Theo UNESCO ba thành tố hợp thành năng lực của con người là: kiến thức, kỹ
năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về kỹ năng sống, có vai trò quyết định trong
việc hình thành nhân cách; Bản lĩnh và tính chuyên nghiệp…
Thành công chỉ thực sự đến với những người biết thích nghi để làm chủ
hoàn cảnh và có khả năng chinh phục hoàn cảnh. Vì vậy, kỹ năng sống sẽ là hành
trang không thể thiếu. Biết sống, làm việc, và thành đạt là ước mơ không quá xa
vời, là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những KNS cần
thiết và hữu ích.
Kỹ năng sống tốt thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới, tạo
dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân, tự mình
quyết định số phận của mình.
Kỹ năng sống giúp giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong mỗi
con người để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo
thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực.
Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi. Giáo dục
cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm
chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp
lý các mâu thuẫn, xung đột.
Cuộc đời là một hành trình mà bằng cấp chuyên môn giống như một bệ
phóng, còn kỹ năng sống chính là động lực đẩy con người vươn lên tầm cao thành
đạt. Cần lưu ý rèn luyện kỹ năng sống là một quá trình lâu dài, bền bỉ. Điều cần

thiết là làm cho mọi người ý thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống và lồng
nó vào các môn học.
b. Tác động của kỹ năng sống đối với học sinh trung hoc cơ sở
* Nhận thức

10


Giúp học sinh THCS có tri thức hiểu biết về các giá trị truyển thống của dân
tộc, cũng như những giá trị tốt đẹp của nhân loại, củng cố và mở rộng thêm kiến
thức đã học trên lớp, có ý thức chính trị, đạo đức, pháp luật và lối sống lành mạnh,
ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội,
có ý thức định hướng nghề nghiệp cho tương lai,…
* Kỹ năng
Tiếp tục rèn luyện kỹ năng cơ bản đã được hình thành, trên cơ sở đó phát
triển thành một số năng lực chủ yếu như: năng lực tự hoàn thiện, khả năng thích
ứng, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định, năng lực
hoạt động chính trị xã hội, năng lực tổ chức, quản lý, năng lực hợp tác, chia sẻ,
thương lượng, nhằm giúp cho học sinh sống một cách an toàn, khỏe mạnh, thích
ứng với cuộc sống không ngừng biến đổi.
* Thái độ
Giúp cho HS có lý tưởng sống vì ngày mai lập nghiệp, có niềm tin vào
tương lai, có ý thức và tinh thần tự hào dân tộc. Biết tỏ thái độ trước những vấn đề
của cuộc sống, biết chịu trách nhiệm với những hành vi của bản thân, đấu tranh
tích cực với những biểu hiện sai trái của bản thân và của người khác để tự hoàn
thiện mình, biết cảm thông và tha thứ cho những sai lầm của người khác. Bồi
dưỡng cho các em tính tích cực, chủ động, sáng tạo tham gia các hoạt động tập
thể, giáo dục cho các em tinh thần đoàn kết hữu nghị,.. biết chia sẽ đồng cảm với
bạn bè, người thân
3. Các giải pháp giải quyết vấn đề

Một số giải pháp, biện pháp rèn luyện Kỹ năng sống cho học sinh ở
trường THCS nói chung, học sinh trường THCS Công Liêm nói riêng
Hiện nay, đa số học Công Liêm được sinh sống trong hai môi trường có
hoàn cảnh khác nhau: Một là nhiều em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu
đáo của phụ huynh vì sống trong gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; Hai là
một số em sống trong gia đình với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ
mặc con cái cho ông bà, hoặc giao phó cho thầy cô và nhà trường.
Môi trường hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến cho các em
một thiếu sót lớn trong từng bước trưởng thành, đó là Kỹ năng sống.
Vì vậy, biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THCS qua học tập –
sinh hoạt ở trường là điều hết sức cần thiết.
Theo đó, bằng trách nhiệm, bằng kinh nghiệm và vốn sống của mình việc tổ
chức giáo dục KNS cho học sinh và yêu cầu giáo viên cần từng bước một giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua từng bài dạy, thông qua các hoạt động ở
trường, ở lớp là việc làm không thể thiếu được trong môi trường giáo dục hiện nay
tại Trường THCS Công Liêm;
Giáo dục kỹ năng sống không phải là để nói cho học sinh biết thế nào là
đúng thế nào là sai như ta thường làm. Cũng không phải là trao truyền nhưng lời
hay ý đẹp để chúng vào tai này rồi ra tai kia. Các phương pháp cổ điển như giảng
bài, đọc chép sẽ thất bại hoàn toàn vì chúng chỉ cung cấp thông tin, mà từ thông
tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng cách còn rất lớn.
Giáo dục kỹ năng sống là giúp học sinh nâng cao năng lực để tự lựa chọn
những giải pháp khác nhau. Quyết định phải xuất phát từ học sinh. Nội dung
phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của người học. Học sinh cần có
11


điều kiện để cọ xát các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực
hành, áp dụng. trẻ phải tham gia chủ động vì có thế trẻ mới thay đổi hành vi.
Do đó nhiều phương pháp được áp dụng để đem lại những điều kiện trên

như sinh hoạt hay thảo luận theo nhóm, theo cặp, động não, sắm vai, phân tích
tình huống, tranh luận. trò chơi, huy động tối đa nghe, nhìn, vận động… học sinh
không chỉ thực tập thực hành trong khi học mà còn làm bài tập ở nhà, đi thực thực
tế tham gia các phong trào, các dự án… ví dụ học về trật tự an toàn giao thông, có
thể bày những trò chơi về luật đi đường, quan sát tình hình giao thông rồi nhận
xét; giả thiết đuối nước...
Những phương pháp cần thiết khi giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh
THCS đó là:
a. Phương pháp động não
* Mô tả phương pháp
Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh
được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương
pháp có ít để (lôi ra) một danh sách các thông tin.
* Cách tiến hành
Có thể tiến hành theo các bước sau:
- GV nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu
trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến
nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng.
- Tổng hợp ý kiến học sinh, hỏi xem có thắc mắc hay bổ sung gì không.
* Những yêu cầu sư phạm
- Phương pháp động não có thể dùng để lý giải bất kỳ một vấn đề nào, song
đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong cuộc sống thực tế của
học sinh.
- Phương pháp này có thể dùng cho cả câu hỏi có phần kết đóng và kết mở.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn bằng một từ hay một câu thật ngắn.
- Tất cả mọi ý kiến đều cần được GV hoan nghênh, chấp nhận mà không

nên phê phán, nhận định đúng, sai ngay.
- Cuối giờ thảo luận GV nên nhấn mạnh kết luận này là kết quả của sự tham
gia chung của tất cả học sinh.
- Động não không phải là một phương pháp hoàn chỉnh mà chỉ là sự khởi
đầu. Một khi danh sách các câu trả lời đã được hoàn thành, cần phải cho cả lớp
dùng danh sách này để xác định xem câu trả lời nào là sai.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là những em nhút
nhát, trở nên bạo dạn hơn; các em học được cách trình bày ý kiến của mình biết
lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn; từ đó, giúp trẻ dễ hoà nhập vào cộng động
nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt.
b. Phương pháp thảo luận nhóm
* Phương pháp

12


Như bản thân tiêu đề của phương pháp đã ngụ ý thực chất của phương pháp
này là để học sinh bàn bạc, trao đổi trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử
dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá
trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẽ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến
để giải quyết một vấn đề có liên quan đến bài học.
Câu hỏi mà các em bàn bạc có thể là kiểu câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở.
Các nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm đã chứng minh rằng nhờ
việc thảo luận trong nhóm nhỏ mà:
- Kiến thức của học sinh sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, là tăng tính
khách quan khoa học.
- Kiến thực trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được
giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm;
- Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận và trình bày kết quả thảo luận cho các

nhóm.
- Sẽ thuận lợi hơn nếu mỗi nhóm chọn một trong những thành viên trong
nhóm làm trưởng nhóm. Nhóm trưởng điều khiển dòng thảo luận của nhóm, gọi
tên các thành viên lên phát biểu, chuyển sang câu hỏi khác khi thích hợp đảm bảo
rằng mỗi ngườibao gồm cả những cá nhân hay xấu hổ hoặc ngại phát biểu có cơ
hội để đóng góp.
Đồng thời ở nhiều trường hợp nhưng không phải là tất cả - trong nhóm còn
có ghi biên bản, sẽ ghi lại những điểm chính của cuộc thảo luận để trình bày trước
cả lớp. Học sinh cần được luân phiên nhau làm ( nhóm trưởng ) và ( thư ký ) và
luân phiên nhau đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo luận.
- Kết quả thảo luận có thể trình bày dưới nhiều hình thức: bằng lời, đóng
thay, viết hoặc vẽ trên giấy to,…; có thể do một người thay mặt nhóm trình bày,
có thể nhiều người trình bày, mỗi người một đoạn nối tiếp nhau,…
- Trong suốt buổi thảo luận nhóm nhỏ, GV cần đi vòng quanh các nhóm và
lắng nghe ý kiến học sinh. Thỉnh thoảng cũng rất hữu ít nếu GV xen lời bình luận
vào giữa xuộc thảo luận của một nhóm. Đối với những đề tài nhạy cảm thường có
những tình huống mà học sinh sẽ cảm thấy bối rối xấu hổ khi phải nói trước mặt
GV, trong trường hợp này GV có thể quyết định tránh không xen vào hoạt động
của nhóm khi thảo luận.
* Cách tiến hành
Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước sau:
- GV nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho
mỗi nhóm, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các
nhóm. Giáo viên đưa ra các tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống hàng ngày
để học sinh cùng thảo luận
- Các nhóm tiến hành thảo luận.
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm khác
lắng nghe, chấp vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
- GV tổng kết các ý kiến.
* Yêu cầu sư phạm

- Có nhiều cách chia nhóm, có thể theo số điểm danh, theo màu sắc, theo
biểu tượng, theo giới tính, theo vị trí ngồi,…
13


- Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên,
nhóm từ 4 đến 8 học sinh là tốt nhất ;
c. Phương pháp đóng vai
* Mô tả phương pháp
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “ Làm thử” một
số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng
dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào
một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần
chính của phương pháp này và hơn thế điều quan trọng nhất là sự thảo luận sau
phần diễn ấy. Phương pháp đóng vai có nhiều ưu điểm như :
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái
độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh .
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các
vai diễn.
* Cách tiến hành
Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau:
- GV nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống và yêu cầu đóng vai cho
từng nhóm. Trong đó có quy rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi
nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Lớp thảo luận, nhận xét, thường thì thảo luận bắt đầu về cách ứng xử của

các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, nhưng sẽ mở rộng phạm vi
xem thảo luận những vấn đề khái quát hơn hay những vấn đề và vở diễn chứng
minh.
- GV kết luận
* Yêu cầu sư phạm
- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục học để cùng chung
sống, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
- Tình huống nên để mở, không cho trước “ Kịch bản” , lời thoại.
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không
lạc đề.
- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia.
d. Phương pháp nghiên cứu tình huống (nghiên cứu các trường hợp
điền hình)
* Mô tả phương pháp
Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra
một tình huống “ thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên
cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng cátset mà không
phải trên dạng chữ viết. Vì tình huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa
dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và
những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản
14


Từ những phương pháp trên tôi nêu ra vấn đề: Cần làm gì để thực hiện tốt
việc giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh tại trường THCS Công Liêm được
tốt hơn, hiệu quả hơn ?
Là người đứng đầu cơ quan và cũng là người trăn trở nhiều về vấn đề giáo
dục KNS cho học sinh Tôi đã chủ động triển khai đến từng giáo viên và các tổ
chức đoàn thể trong nhà trường.

Cụ thể:
* Đối với Giáo viên chủ nhiệm:
Thực sự đổi mới phương pháp thực hiện các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp;
Đưa giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động sinh hoạt chủ nhiệm. - Tự khám
phá bản thân - Tính năng động - Kỹ năng giải quyết vấn đề - Khả năng phản hồi
tích cực.
Tạo điều kiện cho học sinh rèn luyện, coi trọng việc tự rèn luyện của học sinh,
khuyến khích và động viên kịp thời, quan tâm đến học sinh thuộc diện đặc biệt (về
kinh tế, về sự phát triển thể chất…)
Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, làm cho họ nhận thức được tầm quan
trọng và cùng với nhà trường giáo dục và rèn luyện cho con em về kĩ năng sống.
* Đối với Giáo viên Tổng phụ trách Đội:
- Đưa giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt dưới cờ: - Kỹ năng tự bảo
vệ - Kỹ năng trình bày - Kỹ năng thuyết trình thuyết phục - Kỹ năng quản lý thời
gian - Kỹ năng tự điều chỉnh cảm xúc...
- Có nhiều hình thức trong tổ chức các hoạt động tập thể gắn với nội dung
rèn luyện kĩ năng như đã nêu ở phần trên.
- Gắn việc rèn luyện kĩ năng với những nội dung cụ thể của Phong trào thi
đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực như làm cho trường lớp
xanh sạch đẹp, đổi mới phương pháp học tập, chăm sóc các di tích lịch sử, văn
hoá và cách mạng, đưa tiếng hát dân ca và trò chơi dân gian vào trường học…
- Có sự động viên và khuyến khích kịp thời cá nhân và tập thể.
* Đối với Giáo viên bộ môn.
Đưa giáo dục kỹ năng sống vào trong các giờ học bộ môn: - Kỹ năng tự
giải quyết vấn đề - Kỹ năng hoạt động nhóm -Kỹ năng hợp tác, ứng xử - Kỹ năng
phản hồi và đánh giá tích cực.
* Đối với Học sinh:
- Nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác, tự chủ, phát huy tính tích cực trong
mọi hoạt động rèn luyện kĩ năng sống;

- Nhận thức rằng, việc rèn luyện kĩ năng sống là việc của mình, trước hết có
lợi cho việc học tập và sự tiến bộ về mọi mặt của chính mình, cho gia đình và sau
đó cho cộng đông, cho xã hội và đất nước;
- Không chỉ rèn luyện cho mình mà quan tâm đến việc rèn luyện chung của
cả một tập thể tổ, lớp và rộng hơn, của trường mình.
Những nội dung tạm thời phân chia như trên chỉ mang tính chất tương
đối, một giáo viên có đầu tư kỹ lưỡng về nội dung lồng ghép thì chắn chắn có thể
thực hiện tốt mục tiêu của mình trong giáo dục chuyên môn cũng như giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh.

15


Tuy nhiên, không nên quá tham lam để đưa quá nhiều nội dung kỹ năng
sống cần giáo dục trong một tiết học, chỉ nên làm sao việc giáo dục kỹ năng sống
diễn ra một cách nhẹ nhàng và đều đặn qua các tiết học, đây là điều cốt lõi dẫn
đến thành công, ứng dụng chiến thuật mưa dầm thấm lâu.
4. Hiệu quả của biện pháp giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh THCS và học
học sinh trường THCS Công Liêm
Việc chú trọng rèn luyện KNS cho học sinh vào nội dung các môn học
trong nhà trường, nhất là môn GDCD đã đem lại một số kết quả như sau:
Khả năng giao tiếp và thích ứng với các tình huống của học sinh đã được
tăng lên. Các em học sinh khá giỏi, thường tham gia các hoạt động tập thể thì đã
đi vào độ chuyên nghiệp hơn, dám nhận một số công việc trong các hoạt động lớn
của liên đội như dẫn chương trình, hùng biện, trình bày các vấn đề trước tập thể;
đối với các học sinh còn hạn chế về nhận thức thì nay các em cũng đã mạnh dạn
hơn, dám đưa tay phát biểu và trình bày ý kiến của mình trước lớp, trước trường,
các em đã mạnh dạn đưa ra một số tình huống và tự giải quyết tình huống một
cách hiệu quả hơn…
Tỷ lệ học sinh vi phạm về đạo đức đã giảm khá rõ nét, không còn tình trạng

học sinh vi phạm pháp luật ở địa phương, việc chấp hành nội quy của học sinh
cũng nghiêm túc hơn; hạn chế tói đa học sinh đuối nước…
Học sinh hứng thú, say mê với nhiều bộ môn nhất là môn GDCD, các em
thích khám phá bày tỏ ý kiến của mình với từng tình huống được đặt ra trong từng
tiết học, trong từng hoạt động ngoại khóa, trong suy nghĩ và hành động các em có
tố chất hơn....nhờ vậy mà chất lượng nhà trường năm sau luôn cao hơn năm trước.
Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình thực hiện chỉ đạo giảng dạy lồng ghép nội dung giáo dục
KNS ở trường THCS Công Liêm, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu
như sau:
* Việc giáo dục KNS không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện cho học sinh
mà ngay cả với giáo viên thông qua nội dung bài dạy, các thao tác tổ chức dạy học
cho học sinh thì đồng thời giáo viên cũng phải tích cực rèn luyện KNS cho bản
thân để mỗi khi các em lúng túng thì các thầy cô giáo cũng kịp thời giải quyết trên
tinh thần thân thiện.Thành công của một tiết dạy lồng ghép KNS đó là sự chuẩn bị
chu đáo, lựa chon các KNS đưa vào bài dạy sao cho phù hợp, giáo viên phải luôn
đặt niềm tin vào học sinh
* Tất cả giáo viên khi giảng dạy cần phải nắm chắc khái quát nội dung
chương trình, các nội dung cần tích hợp KNS liên quan đến từng bài dạy cụ thể.
* Sưu tầm các tình huống thực tế liên quan đến nội dung bài học và gần
gũi thân thiết với các em, giúp các em dễ dàng liên hệ và vận dụng cho bản thân.
* Trong quá trình giảng dạy cũng như tổ chức các hoạt động ngoại khóa
giáo viên cần chú ý liên hệ với nội dung tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi lẽ
đây cũng là một nội dung tích hợp trong chương trình giáo dục của chúng ta hiện
nay.
* Trong những lần sinh hoạt tổ, giáo viên cần tập trung thảo luận, trao
đổi những vướng mắc khi giảng lồng ghép chương trình giáo dục Kỹ năng sống
cho học sinh.

16



III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trên cơ sở chương trình giáo dục kĩ năng sống của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
tuỳ theo cấp học và độ tuổi, tổ chức các hoạt động dã ngoại, tham quan, hội thảo,
thi nấu ăn, cấp cứu, đuối nước trong đó học sinh giữ vai trò chủ đạo, được phát
huy tính tích cực, tự chủ, tự giác, được phát biểu ý kiến của riêng mình về những
vấn đề các em quan tâm;
Tăng cường giáo dục kĩ năng sống để học sinh có thể thích ứng với những
hoàn cảnh, tình huống và điều kiện khác nhau của đời sống xã hội, cung cấp cho
học sinh những thông tin về nghề nghiệp, định hướng và tư vấn nghề nghiệp cho
học sinh;
Coi trọng vai trò và tạo điều kiện để giáo viên chủ nhiệm và Tổng phụ
trách Đội TNTP và Bí thư Đoàn THCS Hồ Chí Minh nhà trường hoàn thành chức
trách của mình với tư cách là những người tổ chức chủ yếu việc giáo dục đạo đức,
nhân cách học sinh trong và ngoài nhà trường;
Có mối liên hệ thường xuyên với cha mẹ học sinh, nắm được những diễn
biến về tâm lí, tính cách để có biện pháp hữu hiệu trong việc giáo dục đạo đức cho
học sinh.
Nhà trường có phòng và tổ tư vấn gồm các thành viên là giáo viên, cán bộ
đoàn thể, những bậc cao niên có kinh nghiệm và hiểu biết nhiều về đời sống xã
hội, có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục giúp nhà trường trong việc rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh.
Để mọi người có thể ủng hộ và tự giác thực hiện việc đưa nội dung giáo
dục kỹ năng sống vào trường học thì cần thiết phải hiểu đơn giản là chúng ta hãy
để cho học sinh được hoạt động trong lớp qua từng giờ học qua từng bộ môn, hãy
để cho học sinh cơ hội tự giải quyết vấn đề, cơ hội làm việc theo nhóm, hãy
hướng dẫn cho học sinh liên hệ nội dung bài học với cuộc sống thực tế, ứng dụng
kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc sống.

Mục tiêu giáo dục không chỉ là giảng dạy kiến thức cho học sinh mà cần
làm thế nào để học sinh có thể tìm kiến thức và tự giải quyết vấn đề trong cuộc
sống, làm thế nào để học sinh biết phát huy sức mạnh nhóm, tăng cường sự hợp
tác trong giải quyết vấn đề.
Sự kiên trì, bền bỉ với tinh thần “ mưa dầm thấm lâu “ thì mới hy vọng có
được trái ngọt.Việc rèn luyện KNS cho học sinh được xác định là một nội dung cơ
bản trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” trong nhà trường. Biện pháp Giáo dục KNS là yêu cầu cấp thiết đối với thế
hệ trẻ và là xu thế chung của các nước trên thế giới. Vì vậy, việc định hướng giáo
dục KNS cho học sinh trong nhà trường nói chung và học sinh trường THCS
Công Liêm nói riêng là một việc làm hết sức thiết thực. Vì vậy người dạy cần phải
xác định rõ về mục tiêu, nguyên tắc, nội dung và phương pháp, kĩ thuật giáo dục
KNS. Để làm tốt việc giáo dục KNS cho học sinh qua các môn học; giáo viên cần
không ngừng tự học, mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các kĩ
thuật dạy học trong điều kiện cụ thể để nâng cao hiệu quả giảng dạy, giáo dục
KNS cho học sinh. Giáo viên cần tìm hiểu, xác định đối tượng học sinh của mình
để có những phương pháp giáo dục KNS phù hợp và hình thành những KNS cần
17


thiết cho các em. Việc rèn luyện và giáo dục KNS cho học sinh là một vấn đề rất
phức tạp, có quy mô lớn. Nó được thể hiện thông qua các tình huống cụ thể trong
thực tế cuộc sống, gắn liền với 4 trụ cột của giáo dục:
Học để biết gồm các kỹ năng tư duy như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra
quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hiệu quả…
Học làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm
soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…
Học để sống với người khác gồm các kỹ năng xã hội như giao tiếp, thương
lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông…
Học để làm: gồm các kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng

đặt ra mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…
Từ đấy có thể thấy rằng việc giáo dục KNS cho học sinh bao gồm một loạt các
kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của các em. Bản chất của việc
giáo dục KNS cho học sinh là giáo dục kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã
hội cần thiết để học sinh tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc đạt hiệu
quả…Nói cách khác, giáo dục KNS cho HS là giúp học sinh khả năng làm chủ
bản thân của mình, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và xã hội, khả
năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. Giáo dục KNS cho học sinh
cần thông qua quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà trường và
ngoài xã hội. Chính vì thế, giáo dục KNS chọ học sinh vừa có tính cá nhân, vừa
có tính xã hội, chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng và dân tộc.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Đối với giáo viên giảng dạy bộ môn, cần tích cực trau dồi và rèn luyện các
KNS cho bản thân, vì hơn ai hết chính sự tự tin và khả năng giải quyết khéo léo
mọi tình huống xảy ra trong thực tế giảng dạy và cuộc sống của giáo viên chính là
những bài học tự nhiên và có hiệu quả nhất đối với học sinh. “Mỗi giáo viên phải
thực sự là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”
Đối với Nhà trường cần đầu từ thêm các tài liệu về giáo dục KNS cho học
sinh ở tất cả các lĩnh vực, các môn học, nhất là Từ điển GDCD, các tình huống
đạo đức và pháp luật…
Cần có những giải pháp để tuyên truyền trong học sinh và phụ huynh trong
các buổi chào cờ , sinh hoạt ngoại khóa để nói về tầm quan trong của việc giáo
dục KNS để từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục.
Đối với PGD cần tổ chức các buổi chuyên đề cụm để nêu ra các tình huống
và cách giải quyết tình huống cần thiết cho cả giáo viên và học sinh;
Đối với địa phương: Cần phối hợp với UBND huyện, PGD thực hiện tốt đề
án"Dạy Bơi, phòng chống đuối nước cho học sinh" cũng như đầu tư kinh phí xây
dựng bể bôi tại xã để hướng dẫn học sinh tập bơi để giảm thiểu tối đa tình trạng
học sinh đuối nước....
Với những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn và những giải pháp nêu

trên tôi vẫn hy vọng rằng từng ngày, từng ngày với vốn sống thực tế tôi sẽ tiếp tục
bổ sung thêm những giải pháp mới trong việc tổ chức giáo dục KNS cho học sinh
được tốt hơn .
Với khả năng còn nhiều hạn chế, tôi chỉ xin trình bày một số biện pháp với
những kinh nghiệm riêng của bản thân và với lòng mong muốn thiết tha về giáo
dục KNS cho học sinh. Những kinh nghiệm nhỏ này mong sao nó có thể góp phần
18


nâng cao hơn chất lượng việc tổ chức giáo dục KNS cho học sinh nói chung, học
sinh THCS Công Liêm nói riêng đạt hiệu quả cao. Kính mong được sự đóng góp
của các anh, em đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
Nông Cống, ngày 20 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Trúc

19



×