Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, X quang và đáng giá kết quả điều trị dị vật đường ăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 68 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Dị vật đường ăn là một tai nạn rất thường gặp và là một cấp cứu trong lĩnh
vực Tai Mũi Họng. Dị vật đường ăn bao gồm dị vật họng và dị vật thực quản. Dị
vật họng thường xảy ra trong sinh hoạt vì đường vào là đường miệng. Bệnh
thường gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới và bản chất dị vật rất đa dạng, đa số là do dị
vật nhỏ và nhọn: mảnh xương, đầu cá, đầu tăm,…. Xảy ra do vô ý nuốt phải và
cắm lại ở họng. Dị vật thực quản ở sâu trong cổ, trong ngực và thường phức tạp
hơn về mặt định bệnh, xử trí và đặc biệt có nhiều nguy hiểm trong diễn biến của
tai nạn dị vật đường ăn. Đa số các dị vật được soi và gắp ra dễ dàng với gây tê
hoặc mê nội khí quản. Tuy nhiên ở một số trường hợp bệnh nhân đến muộn hoặc
tự chữa mẹo gây ra biến chứng nặng nề [11], [14].
Ước tính mỗi năm có khoảng 1500-1600 người tử vong tại Mỹ do các biến
chứng hay sự chèn ép của dị vật đường ăn. Một nghiên cứu ở Malaysia về dị vật
đường ăn năm 2011 đã cho thấy trong 1084 trường hợp dị vật Tai Mũi Họng, có
308 trường hợp dị vật đường ăn [23], [26].
Tại Việt Nam, dị vật đường ăn là 1 tai nạn rất thường gặp, hằng ngày vào
khám tại Khoa Tai Mũi Họng với số lượng đáng kể. Hầu như 100% người trưởng
thành đều có hóc xương từ 1 lần trở lên. Tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế
từ năm 2002-2003, Nguyễn Tư Thế đã nghiên cứu và đánh giá dịch tễ và đặc
điểm lâm sàng dị vật đường ăn vào khám và điều trị. Trong tổng số 218 bệnh
nhân, tỉ lệ hóc tương đương nhau giữa nam và nữ, xảy ra ở mọi lức tuổi nhưng
người lớn nhiều hơn trẻ em (82,1% và 17,9%). Trong đó, nguồn gốc bản chất dị
vật đa dạng nhưng đa phần là hữu cơ (xương) 71,1% [20].
Trong dị vật đường ăn, dị vật tại thực quản thường gây nguy hiểm vì nhiều
biến chứng nặng thậm chí tử vong. Một nghiên cứu của Lương Thị Minh Hương


2


và Trần Thanh Hải tại khoa Nội soi, bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương từ năm
2007 đến năm 2010 trên 48 bệnh nhân với tỷ lệ nữ gấp 1,4 lần nam với bản chất
dị vật hữu cơ chủ yếu (89,58%), đa phần bệnh nhân đến bệnh viện sớm (89,59%)
và chưa có biến chứng, một phần nhỏ 2,08% bệnh nhân đến bệnh viện muộn với
biến chứng áp xe thanh quản cổ [5].
Dị vật đường ăn ngày càng đa dạng và phổ biến cùng với sự phát triển
kinh tế, mức sống được nâng cao. Phụ thuộc nhiều vùng miền thường sử dụng
thực phẩm có xương đặc biệt là cá trong bữa ăn hàng ngày. Tuy nhiên, hiểu biết
và ý thức điều trị dị vật đường ăn còn nhiều hạn chế, nhiều người sau mắc dị vật
thường nuốt cơm, lấy tay móc dị vật, cúng bái…. Đó là ngun nhân chính khiến
bệnh nhân đến bệnh viện trễ, gây nên nhiều biến chứng như áp xe thành họng,
thực quản, cạnh cổ, viêm tấy thực quản, dị khí thực quản,… thậm chí tử vong.
Lúc này phải điều trị lâu dài, tốn kém nhiều tiền của.
Tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ, bệnh nhân bị dị vật đường ăn đến
khám và điều trị với số lượng lớn nhưng chưa có thống kê đầy đủ về tình hình
cũng như lâm sàng. Để góp phần trong cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu,
chẩn đốn và điều trị kịp thời chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng, X quang và đáng giá kết quả điều trị dị vật đường ăn tại
Bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ năm 2014-2015” với 2 mục tiêu:
1.

Xác định các đặc điểm lâm sàng, X quang dị vật đường ăn tại Bệnh

2.

viện Tai Mũi Họng Cần Thơ.
Đánh giá kết quả điều trị dị vật đường ăn tại Bệnh viện Tai Mũi Họng
Cần Thơ.



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SƠ LƯỢC CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU DỊ VẬT ĐƯỜNG ĂN
TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
Dị vật đường ăn (DVĐA) đã có từ lâu và được nhiều tác giả trong và
ngoài nước nghiên cứu.
1.1.1. Ngoài nước
Năm 1917 Chevalier-Jackson có nghiên cứu đầy đủ về dịch tễ học trên
612 trường hợp dị vật đường ăn và đường thở, sau đó năm 1934 là trên 3038
trường hợp hóc dị vật.
Năm 1975 Baraka A nghiên cứu 54 trường hợp dị vật đường ăn. Trẻ em có
45 trường hợp (83,3%) mắc nhiều hơn người lớn và dị vật hay gặp là đồng xu.
Năm 1994, V.Gautam cùng cộng sự đã khảo sát dị vật đường ăn trên 104
trường hợp với 88,4% bệnh nhân được khảo sát dị vật trên X quang [27].
Năm 1998 Al-Qudah A, Daradkeh S, Abu-Khalaf M đã dùng xông Foley để
lấy dị vật thực quản cho 25 trường hợp và thành công 21/25 trường hợp chiếm 84%.
Năm 2004 Anwer AE lấy dị vật đường ăn cho 25 trường hợp dị vật qua nội
soi tỉ lệ thành công 100%.
Từ năm 1990-2004, Sam Edican, Joseph P.Garap, Siba P.Dubey đã nghiên
cứu 1037 trường hợp dị vật Tai Mũi Họng ở trẻ em tại Melanesia trong đó chị vật
họng chí có 26 trường hợp và dị vật thực quản là 21% [24].
Năm 2005 Waltzman ML, Baskin M, Wypij D, Mooney D, Johnes D,
Fleisher G dùng ống soi cứng lấy dị vật là đồng xu ở thực quản cho 168 trẻ em.
Năm 2005 Sankinsi U, Kocer B, Dural K, Kayhan B, Han S đã đưa ra kỹ


4


thuật mở thực quản để lấy dị vật thực quản khi dị vật quá lớn không thể lấy qua
nội soi [14].
Năm 2009, Chiun Kian Chai cùng cộng sự đã khảo sát dị vật Tai Mũi
Họng tại bệnh viện Umum Sarawak Malaysia, trong đó có 251 ca dị vật hầu và
57 ca dị vật thực quản gồm cả người lớn và trẻ em [23].
Từ tháng 7/2008 đến tháng 12/2012, một nghiên cứu về dị vật thực quản
với nội soi điều trị trên 171 trường hợp tại Bệnh viện Peking University Third,
Trung Quốc [33].
Năm 2012, sau 13 năm nghiên cứu dị vật thực quản, Beata Rybojad cùng
cộng sự đã cho thấy đa số trường hợp gặp ở bé trai từ 6 tháng đến 18 tuổi [31].
Năm 2014, Emara SM cùng cộng sự đã công bố kết quả sau 5 năm nghiên
cứu lấy dị vật đường tiêu hóa trên qua nội soi trên 45 trường hợp [25].
1.1.2. Trong nước
Năm 1984 Nguyễn Tư Thế “Nhận xét 174 trường hợp dị vật đường ăn tại
khoa Tai Mũi Họng Học viện Y Huế”.
Năm 1987 Võ Thanh Quang “Nhận xét về các biến chứng của dị vật thực
quản gặp tại viện Tai Mũi Họng Trung ương 1/1980-12/1984”.
Năm 1996 Nguyễn Văn Đức và cộng sự, “Dị vật đường ăn ở trẻ em” gặp tại
khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Nhi Đồng I trong 10 năm 1985-1995.
Năm 1997 Vũ Trung Kiên tình hình biến chứng dị vật thực quản tại Bệnh
viện Tai Mũi Họng Trung ương từ 1/1990-9/1997.
Năm 1998 Phan Thị Hoài Thanh, Chu Lan Anh, Nguyễn Thị Ngọc Dung
nghiên cứu Tình hình dị vật đường ăn tại Trung tâm TMH Thành phố Hồ Chí
Minh từ tháng 01/1991 đến tháng 12/1997.
Năm 1999 Huỳnh Anh, Phạm Sỹ Hoãn nghiên cứu “Tình hình dị vật thực


5

quản tại Bệnh viện Đà Nẵng” từ 1995-1998 [14].

Năm 2004 Nguyễn Tư Thế đánh giá dịch tễ và đặc điểm lâm sàng dị vật
đường ăn đến khám và điều trị tại Khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Trung ương
Huế [20].
Năm 2008, Ngô Vương Mỹ Nhân cùng cộng sự đã tiến hành nghiên cứu
“Đánh giá kết quả lấy dị vật đường ăn bằng ống nội soi cứng và ống nội soi mềm
trên 130 trường hợp đến lấy dị vật đường ăn” [12].
Năm 2009, Nguyễn Đức Phú đã thực hiện “Nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị dị vật đường ăn tại Bệnh viện Trung ương
và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế” trên 147 bệnh nhân với kết quả dị
vật đường ăn thường hay gặp ở người lớn (92,5%) với 85% là dị vật xương cá
[14].
Năm 2011, Lương Thị Minh Hương và Trần Thanh Hải đã nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng và hiệu quả điều trị qua nội soi bằng ống soi mềm dị vật thực
quản và cho thấy nhiều ưu điểm với ống soi mềm khi lấy dị vật thực quản [5].
1.2. SƠ LƯỢC GIẢI PHẪU SINH LÝ HỌNG – THỰC QUẢN
1.2.1. Sơ lược giải phẫu họng
Họng là cơ quan có tầm quan trọng đặc biệt trong bệnh học Tai Mũi Họng
(TMH) vì nó là ngã tư của đường ăn và đường hơ hấp.
Họng tạo bởi 1 ống xơ cơ, dài khoảng 12cm, dẹt từ trước ra sau, rộng nhất
ở nền sọ (khoảng 5cm đường kính) và hẹp nhất ở chỗ nối thực quản (khoảng
2,5cm), đi từ nền sọ tới bờ dưới sụn nhẫn (ngang mức đốt sống C6). Ở đây hầu
nối liền mũi và miệng với thanh quản và thực quản [15].
1.2.1.1. Cấu tạo của họng


6

Từ ngoài vào trong, thành hầu đườc cấu tạo bởi 3 lớp: lớp cơ họng, lớp
dưới niêm, lớp niêm mạc [15].
- Lớp cơ họng:

+ Các cơ khít họng: Gồm cơ khít họng trên, cơ khít họng giữa và cơ khít
họng dưới, các cơ này nằm chồng lên nhau, khi các cơ khít họng co làm họng
thắt lại. Các cơ này hình nang quạt, phía trước bám vào các cơ hàm dưới, xương
móng, các sụn thanh quản. Phía sau tỏa rộng rồi nối với bên đối diện ở vách giữa
họng.
+ Các cơ mở họng: Gồm các đôi cơ vân, thớ cơ đi dọc tới họng, đi chếch
từ trên xuống dưới nên, cơ co làm họng ngắn lại và mở ra. Các cơ mở và khít
họng hoạt động điều hịa động tác nuốt.
- Lớp dưới niêm mạc: Là một lớp sợi nằm giữa lớp niêm mạc và lớp cơ.
- Lớp niêm mạc: Niêm mạc phủ họng liên tiếp với niêm mạc vòi Eustache,
mũi miệng và thanh quản. Niêm mạc ở phần họng mũi là biểu mơ trụ có lơng
chuyển. Ở phần miệng và phần họng miệng là biểu mô lát tầng. Niêm mạc phần
họng mũi xung quanh lỗ vịi Eustache có nhiều tuyến nhầy [1], [4], [15].
1.2.1.2. Hình thể trong của họng
Như ta biết họng được chia thành ba phần: họng trên (họng mũi), họng
giữa (họng miệng), họng dưới (họng thanh quản) [15], [18].
- Họng trên (họng mũi): phía trên khẩu cái mềm, vì vậy họng mũi là một
bộ phận chức năng của hệ hơ hấp. Thành trên là mái vịm họng, giáp với mảnh
nền xương chẩm và mảnh nền chẩm đội. Ở góc hợp bởi thành sau và trên của
họng mũi có 1 đám lùi sùi tổ chức tân bào gọi là V.A (Vegétations adenoids) còn
gọi là amiđan số III. Amidan này bắt đầu phát triển mạnh ở trẻ 2-3 tuổi và teo đi
ở tuổi vị thành niên. Thành bên là loa vòi Eustache và hố Rosenmule.


7

- Họng giữa (họng miệng): nằm dưới khẩu cái mềm sau miệng và 1/3 sau
lưỡi, được giới hạn bởi thành sau và hai thành bên, tiếp tục của thành bên họng
mũi.
Thành trước: được giới hạn bởi cung miệng. Amiđan khẩu cái (còn gọi là

amiđan số I và II, mặt tự do của các amiđan này hướng về họng và có nhiều khe)
nằm giữa cột trụ trước và cột trụ sau. Thung lũng nắp thanh môn là một lõm giữa
nắp thanh môn và rễ lưỡi, nằm hai bên nếp lưỡi nắp giữa và giới hạn bên ngoài
bởi nếp lưỡi nắp bên, ở phía trước là amiđan lưỡi hoặc amiđan số IV.
Thành sau: Là phần niêm mạc trải từ đốt sống cổ thứ 2 đến đốt sống cổ
thứ 3.
Ở họng tổ chức tân bào khá phát triển. Toàn bộ các Amidan số I, II, III, IV
cùng với các nang lympho nằm rải rác dưới niêm mạc họng tạo thành vòng bạch
huyết họng (vòng Waldayer).
- Họng dưới (họng thanh quản): Là phần họng nằm phía sau thanh quản,
kéo dài từ bờ trên sụn nắp thanh quản đến bờ dưới sụn nhẫn, từ đó liên tiếp với
thực quản.
+ Thành trước: Từ trên xuống dưới có lỗ vào thanh quản, mặt sau sụn
phễu và sụn nhẫn. Ở hai bên của lỗ vào thanh quản có hai hố nhỏ nằm giữa nẹp
phễu thanh thiệt ở trong và sụn giáp, màng giáp móng ở ngồi. Hố này gọi là
ngách hình lê hay xoang lê.
+ Thành sau liên tiếp thành sau phần họng miệng, nằm trước C4 và C5.
+ Thành bên là phần niêm mạc được nâng đỡ bởi xương móng và mặt
trong sụn giáp.
+ Ở trên liên tiếp với phần họng miệng.
+ Ở dưới nối tiếp với thực quản và là chỗ hẹp của họng.


8

1.2.1.3. Liên quan của họng
- Phía sau: Họng liên quan với phía trước sống mạc cổ, cơ dài đầu và sáu
đốt sống cổ đầu tiên.
- Phía bên: Ở phần mũi và phần miệng là cơ chân bướm trong, mõm trâm
và các cơ trâm hầu, trâm lưỡi. Động mạch hầu lên, các nhánh khẩu cái lên và

động mạch mặt tiếp xúc với thành bên. Thần kinh thiệt hầu nằm tựa lên cơ trâm
hầu. Thân giao cảm và thần kinh lang thang đi cùng với động mạch cảnh trong.
Ở xa hơn là thần kinh hạ thiệt và thần kinh phụ. Ở phần thanh quản, phía trên
thành bên liên hệ với bao cảnh và các thành phần của nó. Đoạn này liên hệ mật
thiết với động mạch lưỡi, động mạch giáp trên và nhánh ngồi của thần kinh
thanh quản trên.
- Phía trước: Họng liên quan với ổ mũi, ổ miệng và thanh quản. Ngồi ra
họng cịn liên quan với các khoang mạc quan trọng.
+ Khoang sau họng: Khoang này đóng kín bên trên bởi nền sọ, hai bên bởi
bao cảnh, phía dưới mở vào trung thất trên. Do đó, nhiễm trùng khoang này có
thể lan xuống trung thất trên.
+ Khoang bên hầu: chứa mỡ và các nhánh thần kinh và mạch máu hàm
trên. Khoang này được giới hạn bên trên là nền sọ, bên dưới ngang với xương
móng, bên trong là thành bên hầu, phía sau ngồi là tuyến mang tai, phía trước
ngồi là cơ chân bướm trong và ngành hàm, phía sau là mỏm trâm và các cơ bám
vào mỏm này. Khoang này có thể nhiễm trùng khi viêm hạnh nhân khẩu cái hoặc
gây tê thần kinh răng dưới [4], [15].


9

Hình 1.1. Giải phẫu họng
(Nguồn: Frank HN (2009) – Atlas giải phẫu người) [3].
1.2.2. Sơ lược giải phẫu thực quản
1.2.2.1. Chiều dài và giới hạn
Thực quản là một ống cơ nối hầu với dạ dày, dài khoảng 25cm, bắt đầu ở
cổ, ngang mức với bờ dưới của sụn nhẫn và đốt sống cổ 6, từ đó đi xuống ở trước
cột sống qua trung thất trên và trung thất sau, đi qua cơ hoành vào bụng ở ngang
mức đốt sống ngực 10 và tận cùng tại lỗ tâm vị ở ngang mức đốt sống ngực 11
[4], [15].

1.3.2.2. Các đoạn hẹp thực quản
Điểm hẹp miệng thực quản: đây là nơi hẹp nhất của thực quản nên dị vật


10

thường hay mắc lại, cách cung răng trên 15cm.
Điểm hẹp quai động mạch chủ: do quai động mạch chủ đè vào bờ trái thực
quản, cách cung răng trên 23cm.
Điểm hẹp phế quản gốc trái: do phế quản gốc trái bắt chéo mặt trước thực
quản, cách cung răng trên 24-25cm.
Điểm hẹp cơ hoành: chỗ thực quản chui qua cơ hoành.
Điểm hẹp tâm vị [4], [11], [15].
1.2.2.3. Các đoạn thực quản liên quan giải phẫu
- Đoạn thực quản cổ: Dài 5-6cm.
Giới hạn: trên từ miệng thực quản (ngang C6), ở dưới đến bờ dưới của D2.
Liên quan: Phần này nằm sau khí quản; thần kinh quặt ngược thanh quản
nằm trong rãnh giữa thực quản và khí quản. Ờ sau thực quản là cột sống, cơ dài
cổ và lá trước sống của mạc cổ. Ở mỗi bên, thực quản liên quan với động mạch
cảnh chung và phần sau của thùy trên tuyến giáp.
- Đoạn thực quản ngực: Dài 16-18cm.
Giới hạn: từ D2 đến D10 lúc đầu thực quản đi qua trung thất trên rồi sau
đó qua trung thất sau, ở ngang mức D5 thì rời xa cột sống đi ra trước và sang trái
để tới lỗ thực quản của cơ hoành, đi qua trung thất trên và trung thất sau.
Liên quan: phía trước với khí quản, chỗ phân đơi của khí quản và phế
quản gốc trái. Phía sau có các đốt sống ngực, ống ngực, tĩnh mạch đơn cùng
nhánh.
Bên trái: quai động mạch chủ bắt chéo thực quản ngang mức D4, dây thần
kinh thanh quản quặc ngược trái, động mạch dưới đòn trái, ống ngực và màng
phổi trái.

Bên phải: có màng phổi và quai tĩnh mạch đơn bắt chéo ngang mức D4.


11

Ở các cuống phổi các dây thần kinh lang thang tạo nên một đám rối trên
bề mặt thực quản, thần kinh lang thang trái nằm trước, thần kinh lang thang phải
nằm sau.
- Đoạn thực quản bụng: Dài 2-3cm
Nối với dạ dày qua lỗ tâm vị, tương ứng với D11. Thực quản nằm trong
rãnh thực quản ở mặt sau thùy trái của gan và được phúc mạc che phủ ở mặt
trước, phía sau thực quản là trụ trái của cơ hồnh. Góc His được coi là điểm tận
cùng của thực quản [4], [14], [16].

Hình 1.2. Các đoạn hẹp thực quản
(Nguồn: Frank HN (2004) – Atlas giải phẫu người) [3].


12

1.2.3. Sơ lược sinh lý nuốt
Giai đoạn họng, động tác nuốt gồm có hai thì: thì thứ nhất là thì miệng
(tức là lưỡi đẩy thức ăn vào eo họng) thì thứ hai là thức ăn đi qua họng để vào
thực quản. Thì thứ hai là đặc hiệu của họng.
Khi thức ăn vào đến eo họng, cơ hàm móng co lại và kéo lưỡi lên phía
trên, đẩy dồn thức ăn qua eo họng vào họng miệng. Lập tức họng miệng và họng
thanh quản được kéo lên để hứng thức ăn. Đồng thời các cơ khít họng giữa và
dưới cũng bóp lại và đẩy thức ăn xuống miệng thực quản, miệng thực quản mở
ra đón thức ăn.
Trong khi thức ăn đi qua ngã tư đường ăn và đường thở này thì các ngã

đường không cần thiết đều được bịt lại như sau:
- Đường miệng bị đóng do lưỡi nhơ lên đến tận hàm ếch.
- Đường mũi bị đóng vì màn hầu được kéo lên và hai trụ sau khép lại.
- Đường thanh quản cũng bị đóng vì thanh thiệt đậy thanh quản lại.
Ở họng có đầu thần kinh vị giác phân bố ở khẩu cái mềm và gốc lưỡi nên
có chức năng vị giác và chức năng bảo vệ cơ thể bằng cách co một phản xạ các
cơ khít họng khi có kích thích nóng q, hóa chất độc hại, dị vật [2], [9], [18].
Giai đoạn thực quản: miệng thực quản trước đó được đóng do cơ siết họng
nay được mở ra để cho thức ăn đi vào thực quản. Thức ăn được đẩy xuống dạ
dày nhờ sóng nhu động của các cơ thực quản (có hai loại nhu động nguyên phát
và thứ phát), ở sau bản sụn nhẫn và trọng lượng của viên thức ăn. Thì này cũng
khơng phụ thuộc vào tư thế hoặc ý muốn của người nuốt.
Sở dĩ động tác nuốt hồn tồn khơng theo ý muốn (khơng thể nuốt liên
tiếp được), là do ở 1/3 trên cơ hoạt động theo ý muốn và do các sợi vận động
theo ý muốn của dây X chi phối, còn 2/3 dưới là bị chi phối bởi các sợi đối giao


13

cảm của dây X và các sợi giao cảm [2], [4].
1.3. BỆNH HỌC DỊ VẬT ĐƯỜNG ĂN
1.3.1. Tuổi và giới
Dị vật đường ăn (DVĐA) gặp ở tất các các lứa tuổi, đối với các nước đang
phát triển, người lớn gặp nhiều hơn trẻ em. Ngược lại theo tài liệu ở các nước
phát triển, DVĐA là 1 vấn đề gặp chủ yếu ở trẻ em từ 6 tháng đến 5 tuổi.
Bệnh gặp ở cả hai giới, theo Nguyễn Tư Thế (2003) nam 47,7%, nữ
52,3%, tuy nhiên sự chênh lệch này không đáng kể. Theo Nguyễn Đức Phú
(2009) nam 46,3%, nữ 53,7% [14], [20], [23].
1.3.2. Nguyên nhân dị vật đường ăn
Dị vật đường ăn thường xảy ra trong sinh hoạt vì đường vào là đường

miệng. Do sử dụng và chế biến xương không hợp lý như chặt quá nhỏ, vằm quá
lớn, nấu món dễ hóc (xương nấu với miếng). Ăn vội vàng, cười đùa trong khi ăn,
ăn ẩu nuốt vội khi say rượu, ngậm các dị vật vơ tình nuốt, răng kém hoặc khơng
có răng ở người già, trẻ em. Ở trẻ em dị vật thường là do đồ chơi, đồng xu [5],
[14], [17], [19], [20], [23].
1.3.3. Dị vật họng
1.3.3.1. Vị trí
- Đa số dị vật họng (DVH) nhỏ, dài, sắc… cắm vào trụ, amiđan, vòng
họng, đáy lưỡi, rãnh lưỡi amiđan.
- Một số ít có thể đi lên vịm (cá rơ sống).
- Một số khá nhiều dị vật mắc ở hạ họng, đáy xoang lê như: đồ chơi, đồng
xu, hàm răng giả, bánh ít,…
1.3.3.2. Triệu chứng và điều trị
- Dị vật họng mũi: được coi như một dị vật ở mũi nhưng sâu. Bệnh nhân


14

bị chảy mũi một bên. Soi mũi sau thấy được dị vật dính vào cửa mũi sau hoặc loa
vịi nhĩ. Xử trí như một dị vật mũi.
- Dị vật họng miệng: Bệnh nhân thường nuốt đau, đôi khi vẫn ăn uống
được, cảm giác luôn vướng. Khám soi họng trực tiếp hoặc gián tiếp qua gương
thanh quản có thể thấy được dị vật, ở nơng có thể dung kẹp gắp ra. Tuy vậy đôi
khi dị vật quá bé nhỏ, ngắn, nơi tổn thương sưng nề, giả mạc ở những bệnh nhân
hóc dị vật vào viện muộn có biểu hiện viêm nhiễm, biến chứng như viêm tấy áp
xe amiđan, áp xe thành sau họng,…Thầy thuốc dị tìm nơi nghi ngờ có dị vật
bằng que bơng hoặc đầu ngón tay hoặc bằng móc đầu tù thăm dò, gây tê bằng
lidocaine 6-10% để tránh kích thích bệnh nhân nơn ọe.
- Dị vật họng thanh quản: Thường là những dị vật lớn, góc cạnh như
xương gà, hàm răng giả…chưa vào tới thực quản. BN nuốt rất đau, không thể ăn,

uống được, miệng chảy nhiều nước bọt, nếu dị vật to có thể gây khó thở.
Soi hạ họng thanh quản có thể thấy dị vật cắm vào đáy xoang lê, nẹp phễu
thanh thiệt, rãnh lưỡi thanh thiệt, sụn phễu… Nếu khơng gắp dị vật sớm có thể
gây viêm thanh quản, viêm tấy áp xe quanh họng, phù nề vùng cổ, nuốt đau, khó
thở, nhiễm trùng máu rất nguy hiểm. Chụp phim thực quản cổ nghiêng có thể
thấy vị trí, kích thước dị vật.
Xử trí cần soi trực tiếp hay gián tiếp gắp dị vật [6], [11], [19].
1.3.4. Dị vật thực quản
1.3.4.1. Vị trí
Dị vật thực quản (DVTQ) thường mắc ở 5 điểm hẹp tự nhiên. Càng xuống
sâu thì khả năng mắc dị vật càng ít [5], [10], [14].
1.3.4.2. Triệu chứng
Tùy theo bản chất dị vật, thời gian đến viện sớm hay muộn mà bệnh cảnh


15

lâm sàng của bệnh nhân sẽ khác nhau. Thường gặp nhất là những xương như
xương gà, xương vịt, xương cá có cạnh nhọn, sắc. Bệnh cảnh bắt đầu với sướt
niêm mạc, áp xe dưới niêm mạc, áp xe quanh thực quản và một số biến chứng
nguy hiểm khác.
- Giai đoạn đầu: Triệu chứng tắc nghẽn là chính. Ngay sau nuốt phải mảnh
xương, bệnh nhân có cảm giác nuốt khó ở trong họng, nuốt đau. Bệnh nhân
thường khạc nhổ, tìm cách tống dị vật ra, phải ngừng bữa ăn. Có người cố gắng
nuốt cục cơm to hoặc nước canh để mong dị vật trơi xuống. X quang cổ nghiêng
có thể xác định kích cỡ, vị trí nếu dị vật cản quang, nếu dị vật ở trước đoạn C6C7 cần phân biệt với mức độ cản quang của sụn phễu hoặc sụn giáp vơi hóa ở
người lớn tuổi.
- Giai đoạn 2 (Giai đoạn viêm nhiễm niêm mạc sau 24 giờ): Niêm mạc
thực quản bị viêm sau một vết xước, hoặc một vết thủng do dị vật gây ra. Q
trình viêm nhiễm có thể gây áp xe dưới niêm mạc thực quản. Các triệu chứng:

+ Dấu hiệu toàn thân: sốt cao 38,5-39oC, vẻ mặt nhiễm trùng
+ Dấu hiệu cơ năng: nuốt rất đau, khơng ăn uống được gì, hoặc chỉ uống
được nước. Bệnh nhân chảy nhiều nước miếng, hơi thở có mùi hơi.
+ Dấu hiệu thực thể: cổ sưng, bệnh nhân rất đau. Tiếng lọc cọc thanh quản
cột sống mất (do thành thực quản dày lên). Công thức máu, bạch cầu đa nhân
trung tính tăng cao.
+ X quang cổ nghiêng: khoảng cách giữa thanh khí quản và cột sống dày.
Cột sống cổ thẳng, mất độ cong sinh lý, có thể thấy dị vật nếu cản quang.
- Giai đoạn 3 (Giai đoạn nhiễm trùng): Có túi viêm ngồi thực quản. Nếu
dị vật khơng được điều trị thì quá trình viêm sẽ gây thành viêm tấy quanh thực
quản, tiếp theo là áp xe cạnh cổ.


16

+ Dấu hiệu tồn thân: tình trạng nhiễm trùng nặng, mất nước, sốt cao,
người gầy sút nhanh.
+ Dấu hiệu cơ năng: bệnh than nuốt đau, không ăn và uống được, cảm
giác đàm nhiều vướng ở họng. Khối áp xe to có thể chèn ép vào thanh quản, khí
quản làm bệnh nhân khó thở. Bệnh nhân nói khó, cử động cổ khó khăn.
+ Dấu hiệu thực thể: quan sát thấy cố một bên sưng to, sượng cứng khi
đến muộn hoặc toàn bộ cổ sưng to.
+ X quang cổ nghiêng: mất chiều cong sinh lý cột sống cổ, khoảng cách
giữa thanh khí quản và cột sống dày, thấy ổ áp xe trước cột sống, có mức hơi
nước, có thể thấy dị vật nếu cản quang.
- Giai đoạn biến chứng: dị vật đường ăn khơng được soi gắp sớm, điều trị
tích cực rất dễ có biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng tính mạng.
+ Dị vật làm thủng thực quản gây viêm tấy tổ chức liên kết, dẫn đến áp xe
quanh thực quản. Thủng các mạch máu vùng cổ (mạch cảnh) gây chảy máu ồ ạt
làm bệnh nhân tử vong.

+ Dị vật làm thủng thực quản, nguy hiểm nhất là thực quản ngực, làm mủ
tràn vào trung thất, gây viêm trung thất, tràn mủ màng phổi, tràn mủ màng tim,
tiên lượng rất xấu. X quang phổi thẳng thắng trung thất giãn rộng, tư thế nghiêng
thấy khí quản cong về phía trước, hình ảnh tràn dịch màng phổi. Xét nghiêm
bạch cầu trong máu tăng cao.
+ Một số tình trạng nhiễm trùng được khống chế nhưng sẽ gây dị phổi –
thực quản, dị khí-phế quản-phổi [10], [11], [13].
1.3.4.3. Điều trị dị vật thực quản
Tất cả trường hợp mắc DVTQ khi đã được xác định hoặc nghi ngờ cần
phải soi thực quản lấy dị vật và kiểm tra. Có hai loại ống soi là ống soi cứng và


17

ống soi mềm [7], [11].
- Ở trẻ em: chỉ định soi thực quản dưới gây mê bằng ống nội soi cứng
Chevalier – Jackson có nguồn sáng là ánh sáng lạnh (Wolf – Stors).
- Ở người lớn: sử dụng ống soi thực quản dưới gây tê hoặc gây mê tùy
trường hợp.
Theo một số tác giả, soi thực quản bằng ống cứng là phương pháp phổ
biến nhất để lấy dị vật trên nguyên tắc dị vật vào bằng đường tự nhiên. Tuy nhiên
ống soi cứng có 1 tỉ lệ cao hơn các biến chứng như trầy sướt - rỉ máu niêm mạc
thực quản, thủng thực quản và gãy răng so với ống nội soi mềm. Do đó, soi thực
quản bằng ống soi mềm cũng được thực hiện ở nhiều nơi và được nhiều tác giả
lựa chọn, nó có ưu điểm là có thể làm dưới sự tiền mê và không cần đặt nội khí
quản, thường được dung để loại bỏ dị vật ở đoạn dưới thực quản đến dạ dày, tá
tràng, chi phí thấp [5], [12], [21].
- Áp xe cạnh cổ: mở trung thất để dẫn lưu, thường kết hợp với chuyên
khoa phẫu thuật lồng ngực.
- Viêm mủ màng phổi: chọc màng phổi để rút mủ và dẫn lưu kín. Có thể

bơm dung dịch kháng sinh để rửa mủ màng phổi. Đồng thời sau phẫu thuật phải
hồi sức tốt cho bệnh nhân, kháng sinh thích hợp, liều cao dung bằng đường chích
bắp hoặc đường tĩnh mạch, kết hợp kháng sinh điều trị vi khuẩn kỵ khí:
Cephalosporin thế hệ III, IV kết hợp với Metronidazol. Nuôi ăn bằng sonde dạ
dày hoặc mở thông dạ dày, bồi hoàn đầy đủ nước và điện giải [11].


18

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các bệnh nhân được chẩn đoán là dị vật đường ăn vào điều trị nội trú và
ngoại trú tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ, không phân biệt tuổi, giới, nghề
nghiệp, dân tộc, địa dư và các bệnh liên quan. Thỏa mãn các tiêu chuẩn xác định
dị vật đường ăn.
2.1.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Tai Mũi Họng thành phố Cần Thơ.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2014 đến tháng 4/2015.
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân đồng ý tham gia vào nghiên cứu, không phân biệt tuổi, giới,
nơi cư ngụ, nghề nghiệp, hồn cảnh gia đình,…
Những bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị dị vật đường ăn do mọi
nguyên nhân, gồm dị vật họng (DVH) và dị vật thực quản (DVTQ):
- Dị vật ở họng mũi: Soi mũi trước ít khi thấy dị vật, soi mũi sau thấy dị
vật dính vào cửa mũi sau hoặc ở loa vịi nhĩ.
- Dị vật ở họng miệng: Có hai trường hợp dị vật cắm nông và cắm sâu.
Nếu dị vật cắm nông khám soi họng trực tiếp hoặc gián tiếp qua gương thanh
quản hoặc qua nội soi sẽ thấy dị vật. Trường hợp dị vật cắm sâu thì khơng nhìn
thấy hoặc khó tìm. Thầy thuốc dị tìm nơi nghi ngờ có dị vật bằng que bơng hoặc

đầu ngón tay hoặc dung móc đầu tù thăm dị các khe rãnh của amiđan, đáy lưỡi.
Tuy nhiên phương pháp dị tìm có thể đẩy dị vật vào trong sâu hơn, thầy thuốc có
thể hướng dẫn bệnh nhân chụp X quang để thấy được vị trí chính xác của dị vật.


19

- Dị vật ở họng thanh quản: soi hạ họng thanh quản sẽ thấy dị vật mắc vào
vùng đáy xoang lê, nếp phễu thanh thiệt, rãnh lưỡi thanh thiệt, sụn phễu,…
- Dị vật ở thực quản: Soi thực quản là chính. Tuy nhiên, đối với những
bệnh nhân có biến chứng như áp xe thực quản, áp xe cạnh cổ cần phải mở thực
quản, mở cạnh cổ kết hợp soi thực quản sẽ thấy dị vật.
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
- Những trường hợp tuy có tiên sử hóc xương nhưng vẫn ăn uống bình
thường, khi khám khơng thấy dị vật ở họng, X quang khơng có hình ảnh cản
quang và soi thực quản không thấy dị vật.
- Những trường hợp không có tiền sử hóc dị vật, nhưng có rối loạn nuốt, X
quang nghi ngờ có hình ảnh cản quang nhưng khám, soi họng, soi thực quản
khơng có dị vật.
- Những bệnh nhân được chuyển viện, không theo dõi được.
- Những bệnh nhân chẩn đoán loạn cảm họng, bệnh tâm thần, bệnh nhân
ung thư thực quản, hạ họng-thanh quản giai đoạn đầu.
2.2.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu
Tính cỡ mẫu thiết kế theo cơng thức:
n: cỡ mẫu nghiên cứu.
Z: độ tin cậy.
α: mức ý nghĩa, α= 0,05 => Z= 1,96



20

p: tỷ suất hiện mắc, p = 0,05 được chọn dựa theo nghiên cứu về tỉ lệ dị vật
đường ăn của Nguyễn Đức Phú [14].
d: sai số cho phép, d= 0,05

Như vậy cỡ mẫu phải lấy là 73 mẫu.
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện.
2.2.4. Nội dung nghiên cứu
- Tuổi: chia làm 9 nhóm tuổi dựa theo độ tuổi đi học và lao động
+ 0-<1 tuổi: Ở lứa tuổi này, trẻ chủ yếu bú sữa mẹ, sữa bột pha sẵn,
ăn dặm với thức ăn loãng nên khả năng mắc dị vật thấp, khi mắc dị vật
thường do sự bất cẩn của phụ huynh trong khâu chế biến thức ăn, chăm
sóc trẻ.
+ 1-<2 tuổi: Ở lứa tuổi này trẻ đã bắt đầu biết ngồi, bò, đi, chơi với
các đồ vật, thường hay ngậm các đồ vật nhỏ vào miệng. Đó là những
nguyên nhân chính dẫn đến dị vật đường ăn cho trẻ ở lứa tuổi này.
+ 2-<6 tuổi: Đây là lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo, trẻ bắt đầu ăn uống,
sinh hoạt tập thể. Đối với thức ăn uống của trẻ được nhà trường chế biến
kỹ lưỡng, tuy nhiên vẫn k thể tránh khỏi sơ sót, việc bị hóc dị vật có thể trẻ
vừa ăn vừa đùa giỡn. Khi chơi trẻ cũng thường ngậm đồ chơi vào miệng
và các cô ở trường thường khơng thể kiểm sốt được hết với số lượng trẻ
khá nhiều trong một lớp.
+ 6-<12 tuổi: Đây là lứa tuổi tiểu học, có trẻ ở bán trú và trẻ không,
ở lứa tuổi này mắc đị vật đường ăn thường do sự bất cẩn trong quá trình



21

chế biến thức ăn của gia đình hay nhà trường, cũng có thể trẻ đùa giỡn
trong lúc ăn tập thể với các bạn.
+ 12-<16 tuổi: Ở lứa tuổi trung học cơ sở, trẻ bắt đầu có sự độc lập
trong việc ăn uống, ăn vặt nhiều, nhưng đa số vẫn còn sự quản lý của phụ
huynh.
+ 16-<25 tuổi: Đây là lứa tuổi học sinh sinh viên, người ở lứa tuổi
này có sự độc lập nhất định trong ăn uống với gia đình, thường ăn thức ăn
ngồi tiệm, với sự chế biến không được kỹ lưỡng và đôi khi gấp gáp, việc
mắc dị vật đường ăn cũng dễ dàng xảy ra.
+ 25-<40 tuổi: Đây là nhóm tuổi của người trưởng thành, lứa tuổi
này thường thích ăn thức ăn bên ngồi
+ 40-60 tuổi: Lứa tuổi trung niên. Trong các nghiên cứu trước, đây
là lứa tuổi dễ mắc dị vật đường ăn nhất.
+ >60 tuổi: Ở lứa tuổi này, người lớn tuổi thường được ăn với chế
độ riêng, thức ăn được chế biến mềm, dễ ăn, dị vật đường ăn lứa tuổi này
thường do sơ sót trong chế biến của gia đình.
- Giới: có 2 biến số nam và nữ.
- Nghề nghiệp được chia thành 5 nhóm:
+ Lao động chân tay: bao gồm cơng nhân, nông dân, nội trợ.
+ Học sinh sinh viên.
+ Lao động trí óc: giáo viên, bác sĩ, người làm trong mơi trường văn
phịng.
+ Cịn nhỏ: trẻ chưa đi học, cịn ở nhà với cha mẹ.
- Địa dư chia thành 2 nhóm thành thị và nơng thơn
- Thời gian mắc dị vật chia thành 4 mốc thời gian:
+ Sáng 6h-11h: Đây là thời gian của buổi ăn sáng.
+ Trưa 11h-13h: Đây là thời gian của buổi ăn trưa, khẩu phần ăn
thường có nhiều thịt cá.



22

+ Chiều 13h-19h: Thời gian của buổi ăn chính buổi chiều, khẩu
phần ăn cũng chứa nhiều thịt cá.
+ Tối từ 19h trở đi: Thời gian của buổi ăn thêm buổi tối, chế độ ăn
thường ít thịt cá.
- Thời gian từ khi mắc dị vật đế bệnh viện chia thành 7 mốc: <6h, 6h<12h, 12h-<18h, 18h-<24h, 24h-<48h, 48h-72h, > 72h.
- Hoàn cảnh mắc dị vật gồm 6 biến:
+ Đang ăn với trẻ và người lớn.
+ Gia đình cho ăn đối với trẻ nhỏ.
+ Bé tự bốc ăn.
+ Cười lúc ăn.
+ Đang ngậm dị vật trong miệng.
+ Các trường hợp khác.
- Bản chất dị vật gồm có 6 biến:
+ Dị vật có nguồn gốc hữu cơ gồm: xương cá, xương gà vịt, xương
heo.
+ Dị vật có nguồn gốc thực vật như: vỏ cây, hạt trái cây,..
+ Chất trơ như: đồng xu, vỏ thuốc,..
+ Dị vật khác.
- Xử trí ban đầu gồm 7 cách xử trí:
+ Khạc mạnh: Việc đầu tiên khi mắc dị vật, bệnh nhân thường khạc
mạnh mong tống xuất được dị vật ra ngay.
+ Móc họng: Bệnh nhân dùng tay móc họng với mục đích lơi được
dị vật ra được từ đường miệng. Cách này thường làm dị vật cắm sâu vào
trong niêm mạc gây viêm nhiễm.
+ Chữa mẹo (như nuốt cục cơm, miếng rau, uống nhiều nước,…):
Đây là những phương pháp chữa trị từ dân gian, là một trong những

nguyên nhân dị vật cắm sâu vào niêm mạc gây viêm nhiễm.


23

+ Phán: Cách làm này không rõ nhưng đôi khi những bệnh nhân
vùng sâu xa, hiểu biết kém áp dụng dẫn đến thời gian đến viện trễ.
+ Thuốc nam: Chưa rõ tác dụng nhưng việc uống thuốc nam.
+ Bệnh viện khác chuyển.
+ Khơng xử trí gì và đến thẳng bệnh viện.
- Triệu chứng lâm sàng bao gồm 12 biến:
+ Nuốt đau: Khi bệnh nhân ăn hay uống có cảm giác đau do niêm
mạc họng bị viêm nhiễm do dị vật làm rách, xước [6].
+ Nuốt vướng: Do dị vật cắm 1 phần vào niêm mạc họng, khi ăn
uống bệnh nhân có cảm giác vướng víu [6].
+ Nuốt nghẹn: Do niêm mạc bị phù nề hoặc do dị vật lớn, cản trở
một phần đường kính của họng hoặc thực quản, bệnh có cảm giác nghẹn
khi uống hoặc nuốt thức ăn [6].
+ Chảy nước miếng nhiều: Dị vật tồn tại vùng họng thường kích
thích tăng tiết nước bọt, triệu chứng này thường kèm với hơi thở hơi [6].
+ Khó thở: Do niêm mạc vùng họng bị phù nề cản trở đường hô hấp
hoặc do bội nhiễm viêm đường hô hấp trên [6], [17].
+ Tức ngực: Triệu chứng này thường do có phù nề thực quản, làm
bệnh nhân có cảm giác tức ngực [6], [17].
+ Đau sau xương ức: Triệu chứng này là biến chứng nặng hơn, có
khả năng dị vật gây áp xe trung thất [6].
+ Sốt: Được xác định khi nhiệt độ trên 37,5oC [6].
+ Lạnh run: bệnh cảm thấy ớn lạnh, triệu chứng này là một trong
biểu hiện của hội chứng nhiễm trùng [6].
+ Lọc cọc thanh quản mất: Khám bằng cách dùng 1 tay để phía

trước sụn giáp, tay cịn lại để phía sau cột sống cổ, dùng các ngón tay đè
ép phần sụn giáp ra phía sau lắc qua lắc lại. Mất tiếng lọc cọc thanh quản
do có sự bất thường nằm giữa thanh quản và cột sống như áp xe thực
quản, u thanh quản,… [6], [17]


24

+ Cổ bành sưng to: Triệu chứng này có thể khám qua quan sát, có
khả năng có biến chứng áp xe cạnh cổ [6], [17].
+ Hơi thở hơi: Có thể liên quan đến việc vệ sinh răng miệng của
bệnh nhân hoặc bệnh lý vùng họng như áp xe, ung thư,…
- Triệu chứng X quang nơi có dị vật:
+ Có hình ảnh cản quang: Thấy được hình ảnh dị vật qua phim X
quang.
+ Cột sống cổ mất chiều cong sinh lý: Cột sống cổ có 7 đốt từ C1
đến C7, có chiều cong ưỡn ra trước. Mất chiều cong sinh lý cột sống cổ có
thể do một khối u hay khối áp xe chèn ép, thối hóa cột sống cổ, chấn
thương cột sống cổ,… [15], [18].
+ Dày khoảng Henké: Khoảng Henké hay còn gọi là khoang sau
họng nằm giữa cân bao họng và cơ trước cột sống. Dày khoảng Henké có
thể do viêm nhiễm tạo áp xe vùng hầu họng trước cột sống [15], [18].
+ Hình ảnh X quang bình thường: hình ảnh X quang chưa phát hiện
dị vật cũng khơng chắc chắn loại trừ được dị vật.
- Số lượng bạch cầu tăng có 3 mức độ: <7000, 7000-10000, >10000.
- Các phương pháp điều trị có 8 phương pháp:
+ Thủ thuật gồm có: Soi tê tại chỗ, soi mê nội khí quản, soi trực tiếp
lấy dị vật, mở thực quản lấy dị vật, mở cạnh cổ.
+ Điều trị nội khoa gồm: Kháng sinh, kháng viêm, hạ sốt giảm đau.
- Vị trí dị vật có 9 vị trí: amidan phải (P), amidan trái (T), rãnh lưỡi, thành

sau họng, thành bên họng, miệng thực quản, lòng thực quản 17-25cm cách cung
răng trên (CCRT), eo cơ hoành, tâm vị.
- Các biến chứng 9 biến gồm: áp xe thành sua họng, áp xe thành bên họng,
áp xe thực quản, áp xe cạnh cổ, áp xe trung thất, dò thực quản, viêm tấy niêm
mạc thực quản, tử vong, khơng có biến chứng.
- Thời gian điều trị gồm 3 mốc thời gian: <7 ngày, 7-14 ngày, >14 ngày và
so sánh với thời gian nhập viện.
- Đánh giá kết quả điều trị:


25

+ Tốt: lấy được dị vật, không trầy xước niêm mạc, ra viện ngay.
+ Trung bình: lấy được dị vật, ít trầy xước niêm mạc, nằm viện 1-2
ngày.
+ Xấu: không lấy được dị vật, niêm mạc trầy xước nhiều, có biến
chứng, chảy máu, phải nằm theo dõi lâu.
2.2.5. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu
- Kết hợp phỏng vấn bệnh nhân các thông tin cơ bản (hành chánh, bệnh sử,
tiền sử cá nhân, các triệu chứng cơ năng,..) và quan sát các triệu chứng thực thể,
tham khảo hồ sơ bệnh án.
- Ghi nhận vào bảng thu thập số liệu.
- Dụng cụ khám TMH thơng thường gồm có:
Đèn Clar
Đè lưỡi
Gương soi thanh quản gián tiếp có kèm cán
Kẹp khuỷu
Móc vén trụ amiđan
Kìm Franken
Bình xịt thuốc tê lidocain 10%

Đèn cồn 90% và khay quả đậu
Sonde Foley
- Bộ nội soi TMH gồm:
Ống nội soi cứng và mềm
Nguồn sáng
Dây dẫn sáng
Camera và màn hình
- Máy xét nghiệm huyết học


×