Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên các trường đại học khối khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.88 KB, 115 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

ĐH

:

Đại học

ĐHKHXH&NV:

Đại học Khoa nhọc Xã hội và Nhân văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1.......................................................................................................8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN......................................................................8
VỀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO SINH VIÊN........................8
Lối sống văn hóa góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Lối
sống văn hóa lành mạnh luôn tạo điều kiện, cơ hội để mọi cá nhân phát
triển và hoàn thiện nhân cách của mình; từ đó có đầy đủ phẩm chất, năng
lực để đạt được mọi thành công và có được cuộc sống tự do, có đủ điều
kiện để hưởng thụ những giá trị vật chất và tinh thần cao quý. Như thế, lối
sống văn hóa lành mạnh đã tạo nên những nhân cách đẹp đẽ, làm cho cuộc
sống của mỗi con người thêm ý nghĩa, chứng tỏ, nó đã góp phần quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi con người...................35


Lối sống văn hóa làm cho niềm vui và hạnh phúc của con người được nhân
đôi . Sở dĩ lối sống văn hóa có thể làm cho niềm vui, niềm hạnh phúc được
nhân đôi, bởi vì sinh viên thường giàu tình cảm và nhu cầu tình cảm là cần
thiết, có ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống. Lối sống văn hóa ở sinh viên
có khả năng phát huy tác dụng kép. Không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân
sinh viên mà còn có tác động tới các thành viên trong gia đình và ngoài xã
hội. Sinh viên sau này là người thầy đầu tiên của các con, là người có
nhiệm vụ thắp sáng và giữ ngọn lửa ấm trong trái tim từng thành viên của
gia đình, vì thế lối sống văn hóa ở họ đã luôn phát huy được tác dụng kép.
.....................................................................................................................35
Tiểu kết chương 2........................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................101
PHẦN PHỤ LỤC......................................................................................105


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử, là trung tâm phát triển của xã hội. Trong thời đại cách mạng khoa học
công nghệ lần thứ 4 và toàn cầu hóa, để ổn định và phát triển được thì chiến
lược phát triển nguồn nhân lực đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trong đường lối cách mạng của Đảng CSVN luôn
khẳng định: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Đảng chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Quan điểm này đã đặt ra
cho quá trình phát triển nguồn lực ở nước ta nhiều nhiệm vụ mới mẻ, đặc biệt
là việc chăm lo, giáo dục thế hệ trẻ.
Mục tiêu của giáo dục đại học ở nước ta hiện nay là đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, nâng cao nhân cách công dân với kiến thức, kỹ năng thực
hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và

công nghệ, có trách nhiệm nghề nghiệp, đạo đức, có phẩm chất chính trị và ý
thức phục vụ nhân dân. Đây đã và đang là những vấn đề lớn đặt ra không chỉ
cho riêng ngành giáo dục và đào tạo mà cho cả xã hội Việt Nam trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh
toàn cầu hóa. Báo cáo chính trị tại đại hội Đảng lần thứ XII nhấn mạnh:
“ Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng
quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc. Chính vì vậy, Đảng ta luôn giáo dục,
bồi dưỡng tổ chức thanh niên thành lực lượng hùng hậu, trung thành, kế tục
sự nghiệp của Đảng và dân tộc.”. Đây là một trong những định hướng quan
trọng đối với hoạt động văn hóa, giáo dục ở nước ta hiện nay. Trong đó giáo
dục nhằm hình thành lối sống văn hóa cho thanh niên là nhiệm vụ rất quan

1


trọng vì thanh niên là lực lượng chủ lực trong quá trình phát triển và bảo vệ
đất nước.
Trong quá trình đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế. Những
thay đổi trên các phương diện đó đã tác động đến nhiều mặt của cuộc sống xã
hội. Bên cạnh những mặt tích cực còn xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực, đặc
biệt là sự xuống cấp về tư tưởng đạo đức, lối sống trong xã hội, trong đó giới
sinh viên không là ngoại lệ. Yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục lối sống
văn hóa cho sinh viên là cấp bách, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến động nhanh chóng và khó lường như hiện nay. Để
giải quyết vấn đề trên, mục tiêu cụ thể của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đặt ra đối với giáo dục đại học là: tập trung đào tạo nhân lực
trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự

làm giàu tri thức, sáng tạo của người học... Mục tiêu cụ thể này đòi hỏi ngành
giáo dục – đào tạo một mặt phải đào tạo người học có phẩm chất chính trị,
đạo đức – lối sống mới, mặt khác họ phải là những người có kiến thức, kỹ
năng thực hành nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, có học thức, nhạy cảm với cái
mới, năng động, ham học hỏi, thích tìm tòi và sáng tạo, là nguồn bổ sung chủ
yếu cho đội ngũ trí thức trong tương lai, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, dân tộc. Nếu không có thế hệ trẻ tiếp
bước, sẽ không có sự phát triển trong lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc, cũng
như không có sự phát triển của nhân loại. Sự nghiệp đổi mới đất nước, xây
dựng chủ nghĩa xã hội có thành công hay không, đất nước ta có vị trí xứng
đáng trong cộng đồng quốc tế hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện
nay quyết định, trong đó sinh viên là bộ phận nòng cốt.
2


Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa, giáo dục của cả nước. Nơi
đây tập trung 66 trường đại học và đa số các trường đại học lớn, có danh tiếng
lâu dài đều ở đây nên kết quả giáo dục ở các trường đại học ở Hà Nội có sức ảnh
hưởng lớn không chỉ trong hệ thống giáo dục đại học mà còn trong cả nước.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài Giáo dục lối sống văn hóa
cho sinh viên các trường đại học khối khoa học xã hội và nhân văn trên địa
bàn Hà Nội làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Chính trị học, chuyên
ngành Quản lý hoạt động tư tưởng – văn hóa của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Nhóm tài liệu nghiên cứu về xây dựng con người Việt Nam mới:
Trước hết là những công trình đã được in thành sách của một số nhà
xuất bản:
- Tác giả Trần Độ: “Bàn về lối sống và nếp sống Xã hội chủ nghĩa”,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001: Công trình có tính lý luận, trình bày về
hệ thống các khái niệm và các mặt cần nghiên cứu về lối sống ở Việt Nam
theo mô hình Chủ nghĩa xã hội.
- Tác giả Thanh Lê, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001: “Lối sống xã
hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hóa”: Công trình đi sâu vào nghiên cứu khái
niệm lối sống với nghĩa là một hình thái kinh tế - xã hội, hình dung lối sống
như một “chính thể sinh động cụ thể với các quan hệ xã hội khác nhau: sinh
hoạt, sản xuất, văn hóa, gia đình,…. Thể hiện “lối sống xã hội chủ nghĩa” phù
hợp với Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Tác giả Nguyễn Viết Chức: “Đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa
thủ đô trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
Viện văn hóa và NXB Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 2001: gồm các bài tham
luận của nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý văn hóa ở những cấp độ khác
nhau đã đề cập đến tầm quan trọng và sự cần thiết của việc xây dựng đời sống
văn hóa ở thủ đô Hà Nội.

3


- Một số công trình khác: Tác giả Nguyễn Hồng Hà: “Môi trường văn
hóa với việc xây dựng lối sống con người Việt Nam”, Viện văn hóa và NXB
Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 2005 Ban Tổ chức Trung ương, tạp chí Cộng
sản, thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh: “Bàn về giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi
suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống hiện nay”, NXB Chính trị quốc
gia – Sự thật, Hà Nội, 2012,…. Các tác phẩm tập trung chủ yếu vào việc phân
tích các giải pháp chống suy thoái về đạo đức lối sống.
Một số bài viết tiêu biểu:
Tác giả Bảo Trung: “Vấn đề đạo đức, lối sống cán bộ Đảng viên và
một số giải pháp về cơ sở”, tạp chí Xây dựng Đảng, số 1/2000; Tác giả Lê
Lâm Ứng: “Lối sống mới của con người Việt Nam”, tạp chí Quân đội nhân

dân số 26, tháng 1/2001. PGS.TS Nguyễn Văn Huyên: “Lối sống con người
Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa hiện nay”, tạp chí Triết học 12,
2003, GS.TS Trần Văn Bính: “Xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế”, tạp chí Lý luận
chính trị, 7/2013.… Các bài viết chủ yếu đề xuất việc xây dựng đạo đức lối
sống của con người.
Một số đề tài khoa học, luận văn thạc sĩ, tài liệu hội thảo khoa học đề
cập đến vấn đề lối sống như: đề tài “Những biến đổi lệch lạc trong đạo đức,
lối sống của học sinh sinh viên hiện nay – thực trạng và các giải pháp chủ
yếu”, TS Lê Thị Bích Hồng, 2001; đề tài “Đặc điểm tư duy và lối sống của
con người Việt Nam hiện nay”, tác giả Nguyễn Ngọc Hà, NXb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001; Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà (2014) với đề tài: “Giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”; kỷ yếu hội thảo quốc gia:
“Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, Đảng
viên và công cuộc phòng, chống”; Kỷ yếu: Tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống trong đội ngũ cán bộ Đảng viên và ảnh hưởng tới xã hội của Ban Tuyên
4


giáo Trung ương 2010; Kỷ yếu hội thảo “Giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác giáo dục đạo đức, lối sống, phòng chống tội phạm, bạo lực học sinh phổ
thông” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tháng 12/2009,… chủ yếu phân
tích việc biến đổi, chỉ ra các giá trị và sự cần thiết giáo dục đạo đức, xây dựng
lối sống con người Việt Nam. Đoàn Thị Minh Oanh (2011), Xây dựng tư duy
và lối sống của con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9.
* Nhóm tài liệu về giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên
- Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến

sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
- ThS. Phạm Mỹ Hạnh: Giáo dục nếp sống văn hóa cho sinh viên thông
qua hoạt động của Đoàn thanh niên - Tạp chí Thanh niên, số 4, năm 2000.
- Đoàn Thị Minh Oanh (2008), Bàn về Xây dựng ý thức tự giáo dục cho
sinh viên,Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông số 8.
- TS.Lê Cao Thắng: Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp xây
dựng lối sống văn hóa của thanh niên các trường đại học, cao đẳng thủ đô
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Trường Đại học Mỏ - Địa chất.
Một số luận văn như Giáo dục văn hóa chính trị cho sinh viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Phượng năm
2014, Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng y đức cho sinh
viên các trường cao đẳng y tế ở thành phố Hà Nội hiện nay của tác giả
Nguyễn Trọng Tấn năm 2014, Giáo dục văn hóa đối thoại trong các hoạt
động xã hội cho sinh viên trường đại học Hà Nội hiện nay của tác giả Lê
Ngọc Thanh năm 2015 ….
Những kết quả nghiên cứu trong các tài liệu trên rất bổ ích để tác giả
luận văn tham khảo, kế thừa có chọn lọc, phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5


3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác giáo
dục lối sống văn hóa cho sinh viên các trường đại học khối khoa học xã hội và
nhân văn ở Hà Nội, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường
giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên các trường đại học khối khoa học xã
hội và nhân văn ở Hà Nội trong giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về giáo dục lối sống văn hóa cho

sinh viên.
- Phân tích thực trạng giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên các trường
đại học khối khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường giáo dục lối sống văn hóa
cho sinh viên các trường đại học khối khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội
trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu vấn đề giáo dục lối sống văn hóa cho
sinh viên các trường đại học khối KHXH&NV trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc giáo dục lối sống văn hóa cho sinh
viên các trường: Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Hà Nội, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền ở Hà Nội từ 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục
và giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, trực tiếp là những quan điểm,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng ta về giáo dục, bồi dưỡng thanh niên trong thời

6


kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; luận văn kế thừa các kết
quả nghiên cứu của những công trình khoa học có liên quan đã công bố.
- Luận văn sử dụng các phương pháp: lịch sử và logic, phân tích và tổng
hợp, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học để thực hiện
mục đích và nhiệm vụ đã đề ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Xác định và phân tích rõ các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục lối

sống văn hóa cho sinh viên.
- Đánh giá khách quan thực trạng giáo dục lối sống văn hóa cho sinh
viên các trường đại học khối khoa học xã hội và nhân văn trên địa bàn Hà
Nội.
- Đề xuất giải pháp tăng cường giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên
các trường đại học khối khoa học xã hội và nhân văn trên địa bàn Hà Nội.
7. Ý nghĩa của luận văn
7.1. Về lý luận
Luận văn góp phần xác lập cơ sở khoa học để tăng cường giáo dục lối
sống văn hóa cho sinh viên.
7.2. Về thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động giáo dục
của các trường đại học, tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
sinh viên để tăng cường giáo dục, rèn luyện sinh viên, đặc biệt là lối sống văn
hóa của sinh viên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
3 chương 8 tiết

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO SINH VIÊN
1.1. Khái niệm giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên
1.1.1. Lối sống và lối sống văn hóa
Lối sống. Lối sống là một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên
hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong
những điều kiện của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Lối sống tổng hòa

những hình thức hoạt động cơ bản phụ thuộc vào điều kiện và những nhu cầu
của con người do những điều kiện đó qui định. Lối sống bị qui định bởi hoàn
cảnh khách quan của xã hội, bởi những điều kiện sống của các giai cấp, dân
tộc - nghĩa là lối sống một mặt, do quan hệ thực tế của con người với tự
nhiên, do trình độ trang bị kỹ thuật, năng suất lao động của họ, trạng thái của
lực lượng sản xuất và do đó cả tính chất tiêu dùng, mặt khác do tính chất quan
hệ sản xuất, chế độ kinh tế của xã hội là cơ sở của toàn bộ hệ thống quan hệ
xã hội qui định.
Lối sống hay phong cách sống, nếp sống là những nét điển hình, được
lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời sống cá
nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa. Thuật ngữ lối sống lần
đầu tiên được sử dụng bởi nhà tâm lý học người Áo Alfred Adler (18701937). Lối sống cá nhân được đặc trưng bởi cái nhìn về thực tại (thế giới
quan), cá tính, bản sắc cá nhân (bản ngã hay là cái tôi) cũng như những ảnh
hưởng bởi môi trường xung quanh như gia đình, nơi sinh sống, giáo dục, văn
hóa và đặc biệt là truyền thông.
Lối sống là sinh hoạt cá nhân, chủ quan hóa của hệ thống những quan
hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể những điều kiện sống, thể hiện trong hoạt
động của con người. Lối sống là tập hợp những hình thức hoạt động của con
8


người trong một thể thống nhất với môi trường hoạt động của xã hội và cá
nhân. Gần đây, trong một số nghiên cứu của mình một số nhà khoa học người
Việt Nam cũng đề xuất một số định nghĩa về lối sống :
- Lối sống là một phạm trù xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động sống
của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều
kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực
của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với
người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa.
- Lối sống là những cách suy nghĩ, kỹ năng ứng xử (cách nghĩ, nếp

sinh hoạt, thói quen, phong cách học tập, làm việc, giao tiếp, xử sự…) tạo nên
cái riêng của mỗi cá nhân hay một nhóm người nào đó.
- Lối sống là một thói quen có định hướng, có chất lượng lý tưởng. Lối
sống là phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hoá, đặc
trưng văn hoá của một con người hay một cộng đồng. Lối sống bao gồm
nhiều yếu tố cấu thành như: cách thức lao động, làm ăn, kinh doanh..., các
phong tục tập quán, cách thức giao tiếp, ứng xử với nhau, quan niệm về đạo
đức và nhân cách.
- Lối sống là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những hình thức hoạt động
mang tính ổn định, đặc trưng cho cá nhân hay nhóm. Những hình thức này
được quy định bởi trình độ nhận thức về lẽ sống cũng như điều kiện thỏa mãn
những nhu cầu liên quan đến giá trị văn hóa.
Từ cách tiếp cận đa chiều như vậy, chúng tôi tán thành ý kiến của tác giả
Phạm Hồng Tung, khi nghiên cứu về lối sống ông cho rằng: Lối sống của con
người là các chiều cạnh chủ quan của văn hóa, là quá trình hiện thực hóa
các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người. Lối sống bao
gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến hành các hoạt động
sống được một bộ phận lớn hoặc toàn thể nhóm hay cộng đồng người chấp
nhận và thực hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn định, đặt trong
9


mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện hữu và trong các mối
liên hệ lịch sử của chúng (36, tr.4)

10


Lối sống văn hóa. Lối sống văn hóa là những thói quen hành xử đẹp, đã
được kiểm nghiệm trong cuộc sống, phù hợp với thị hiếu của đa số dân chúng

trong xã hội. Lối sống văn hóa là lối sống chuẩn mực, tiến bộ, được mọi
người trong xã hội thừa nhận và có tác động tích cực đối với sự phát triển của
xã hội. Người có lối sống văn hóa là người có kiến thức, có hiểu biết, luôn
hướng tới giá trị chân - thiện - mỹ: luôn hiểu và tôn trọng mọi người và tôn
trọng chính mình, luôn biết mang lại những giá trị tinh thần cho mọi người và
cho bản thân họ. Lối sống văn hóa là những thói quen hành xử đẹp của cá
nhân hoặc của một cộng đồng.
Lối sống văn hóa người Việt Nam được hình thành do điều kiện địa lý,
kinh tế, chính trí, trước hết là tâm lý và văn hoá dân tộc Việt Nam. Vì vậy, lối
sống văn hóa của người Việt Nam chính là sự hoá thân của các giá trị truyền
thống dân tộc, mang những nét riêng bản sắc của con người và văn hoá Việt
Nam. Lối sống văn hóa được thể hiện trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt
hàng ngày như cách ăn mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc… Cốt lõi của
lối sống văn hóa là nhân sinh quan, thế giới quan tiến bộ. Lối sống văn hóa
mà Đảng ta, nhân dân ta xây dựng biểu hiện tập trung các giá trị của nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là lối sống nhằm phát huy cao độ
những giá trị tốt đẹp, bền vững của ông cha ta để lại như lòng yêu nước, ý chí
tự lực tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết cộng đồng, đức tính cần cù,
giản dị, coi trọng đạo lý, nghĩa tình… Đó là lối sống lấy độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nội dung,
mục tiêu hoạt động của cộng đồng và mỗi cá nhân. Lối sống văn hóa là những
thói quen hành xử đẹp đẽ của cá nhân hoặc cộng đồng; là yếu tố quan trọng
để xây dựng xã hội tốt đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh; là nền tảng để xã
hội phát triển bền vững… Trong cuộc sống hiện đại của con người, lối sống
văn hóa được biểu hiện ở một số mặt như sau:

11


- Lí tưởng sống: Thể hiện qua lẽ sống, triết lí sống, sự lựa chọn thang bậc

giá trị để con người vươn lên nhằm đạt mục đích của cuộc sống.
- Nếp sống: Thể hiện qua thói quen sinh hoạt hàng ngày, sự kết hợp hài
hòa giữa nếp sống văn hóa truyền thống với nếp sống văn minh hiện đại, tuân
thủ luật pháp.
- Chất lượng sống: Là sự thể hiện về mức sống vật chất, đời sống tinh
thần, sự lạc quan trong hoạt động xã hội đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
con người.
1.1.2. Giáo dục và giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên
Giáo dục là một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển thông qua việc
thực hiện các chức năng xã hội của nó. Đó chính là những tác động tích cực
của giáo dục đến các mặt hay các quá trình xã hội và tạo ra sự phát triển cho xã
hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm giáo dục. Giáo dục được hiểu
là quá trình hình thành và phát triển nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các
hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một cách có ý thức của con người trong
nhà trường, gia đình và ngoài xã hội. Ảnh hưởng của các hoạt động đa dạng nội
khóa, ngoại khóa của nhà trường; ảnh hưởng của lối dạy bảo, nếp sống trong
gia đình; ảnh hưởng của sách vở, tạp chí; ảnh hưởng của những tấm lòng nhân
từ của người khác…; Giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có
mục đích xác định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương
pháp, có hệ thống) của các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm
phát triển toàn diện nhân cách. Qua những môn học trong trường, lớp cũng như
qua những hoạt động như báo cáo thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, thăm
quan,… được tổ chức ngoài giờ lên lớp, sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người được giáo dục, dưới tác
động của giáo viên, của nhà giáo dục. Giáo dục được hiểu là quá trình hình
thành và phát triển nhân cách người giáo dục trong quan hệ của những tác động
sư phạm của nhà trường, liên quan đến các mặt giáo dục như: trí học, đức học,
12



mĩ dục, thể dục, giáo dục lao động. Sự ra đời và phát triển của giáo dục gắn
liền với sự ra đời và phát triển của xã hội. Một mặt, giáo dục phục vụ cho sự
phát triển xã hội, bởi lẽ, xã hội sẽ không phát triển thêm một bước nào nếu như
không có những điều kiện cần thiết do giáo dục tạo ra. Mặt khác, sự phát triển
của giáo dục luôn chịu sự quy định của xã hội thông qua những yêu cầu ngày
càng cao và những điều kiện ngày càng thuận lợi do sự phát triển xã hội mang
lại. Chính vì vậy, trình độ phát triển của giáo dục phản ánh những đặc điểm
phát triển của xã hội.
Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục thế giới và của mỗi quốc gia đang
không ngừng cái cách đổi mới nhằm thích ứng tốt hơn với những xu thế phát
triển mới mẻ, năng động của toàn nhân loại và có khả năng tạo ra được những
nguồn lực mới để phát triển nhanh, bền vững. Hoạt động giáo dục xét theo
nghĩa rộng cũng như nghĩa hẹp đều mang tính hệ thống và được cấu thành từ
các thành tố sau:
- Chủ thể giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động giáo dục. Hay
nói cụ thể hơn nhà giáo dục là người điều khiển, điều chỉnh, định hướng và
giúp đỡ người được giáo dục trong hoạt động giáo dục.
- Đối tượng giáo dục vừa là chủ thể vừa là khách thể đóng vai trò chủ
động trong hoạt động giáo dục. Điều này có thể được hiểu là người được giáo
dục vừa đóng vai trò là người được giáo dục vừa đóng vai trò là chủ thể tự giáo
dục. Và chính điều này làm cho người được giáo dục đóng vai trò chủ động. Và
chính vì thế mà ta có thể lý giải cho việc cũng một nhà giáo dục, cùng một môi
trường giáo dục mà kết quả lại là nhiều nhân cách khác nhau.
- Mục đích, nhiệm vụ giáo dục: Mục đích giáo dục là mẫu nhân cách con
người mà giáo dục cần đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội trong từng
giai đoạn phát triển của xã hội.

13



- Nội dung giáo dục: Là hệ thống những tri thức trong kho tàng tri thức
nhân loại tạo nên nội dung hoạt động thống nhất cho nhà giáo dục và người
được giáo dục nhằm đạt được mục đích giáo dục nhất định.
- Phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục: là cách thức,
phương tiện, hình thức hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục
nhằm thực hiện những nhiệm vụ giáo dục và đạt tới mục đích giáo dục đã định.
- Kết quả giáo dục: Bất cứ hoạt động nào cũng có kết quả tương ứng và
hoạt động giáo dục cũng không ngoại lệ. Vậy kết quả giáo dục là kết quả tổng
hợp của toàn bộ hoạt động giáo dục nhưng thể hiện tập trung nhất ở mức độ
phát triển nhân cách của con người được giáo dục sau mỗi hoạt động giáo dục
nhất định.
Sinh viên là thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc Latinh “studens”, có
nghĩa là người làm việc, người tìm kiếm, khai thác tri thức, khái niệm này được
dùng tương đương với “student” trong tiếng Anh, “etudiant” trong tiếng Pháp
để chỉ những người theo học ở bậc đại học và được phân biệt với trẻ em đang
theo học phổ thông. Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu
những kiến thức, kỹ năng chuyên môn ở các trường cao đẳng, đại học để
chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường. Các nghiên cứu cho
rằng 2/3 lượng kiến thức của con người được tích luỹ trong thời gian này. Nhìn
chung sinh viên đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng nằm trong độ
tuổi từ 18-25. Bộ não đã tương đối hoàn thiện và phát triển, khẩu độ chú ý
được mở rộng, tốc độ xử lý thông tin được gia tăng. Mặc dù thay đổi của não
không diễn ra một cách vũ bão như trước nhưng những ưu điểm mà sinh viên
có được là nhờ quá trình tái tổ chức não trong thời kỳ này. Về mặt hình thể, lúc
này những sinh viên đã trải qua quá trình dậy thì và có đáng vóc của những
người trưởng thành, cả về chiều cao và cân nặng đã đạt mức ổn định. Nhìn
chung thì ở giai đoạn này sinh viên đã trở thành người lớn thực sự sau khi trải
qua một giai đoạn phát triển lâu dài và có những đặc trưng tâm lý riêng: niềm
14



tin, xu hướng nghề nghiệp và các năng lực cần thiết được củng cố và phát triển;
quá trình tâm lý đặc biệt là quá trình nhận thức được nghề nghiệp hoá; tình
cảm, nghĩa vụ, tinh thần trách nhiệm, tính độc lập được nâng cao; cá tính và lập
trường sống của sinh viên cũng được nâng cao rõ rệt; kỳ vọng đối với nghề
nghiệp tương lai của sinh viên được phát triển; sự trưởng thành về mặt khoa
học, tư tưởng và đạo đức, việc hình thành những phẩm chất đạo đức và sự ổn
định chung về nhân cách của sinh viên được phát triển; khả năng tự giáo dục
phát triển; tính sẵn sàng, độc lập với hoạt động nghề nghiệp tương lai được
củng cố. Đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở sinh viên là sự phát phát triển của
tự ý thức: ý thức về sự đánh giá của con người về tư tưởng, tình cảm, phẩm
chất đạo đức và hứng thú về tư tưởng và động cơ của hành vi; đánh giá toàn
diện về chính bản thân mình và vị trí của mình trong cuộc sống.
Tự ý thức là dấu hiệu thiết kế nhân cách được hình thành cùng với sự
hình thành nhân cách sau này. Tự ý thức là một hình thức của ý thức giúp cho
sinh viên có những hiểu biết và thái độ đối với mình để chủ động hướng nhân
cách theo những nhu cầu của xã hội. Vì luôn có khát khao mong muốn được
khẳng định chỗ đứng của mình trong xã hội, muốn được xã hội thừa nhận về
sự trưởng thành của mình nên sinh viên thường có sự để ý, xem xét mật độ
hội tụ ở bản thân những giá trị được xã hội ưa chuộng như: có trình độ chuyên
môn giỏi, vốn hiểu biết xã hội rộng, có tinh thần trách nhiệm, có đức tính ham
học. Năng lực tưởng tượng ở sinh viên (tái hiện + sáng tạo, ước mơ + hoài
bão) thường gắn với lý tưởng của họ về cuộc sống, nghề nghiệp. Đây là thời
kỳ phát triển nhất về tư tưởng đạo đức, thẩm mỹ. Tình cảm nghĩa vụ cũng
được thể hiện khá rõ. Tình cảm đạo đức của sinh viên có thái độ cao. Sinh
viên tự nhận thức được tình cảm đạo đức của mình và còn điều chỉnh chúng
phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Tình yêu - tình cảm đặc biệt giữa nam và
nữ có vai trò quan trọng để họ xây dựng cho mình những quan điểm rõ ràng

15



về hạnh phúc gia đình. Tình bạn ở sinh viên xây dựng trên cơ sở cùng lý
tưởng, chí hướng và sở thích, cũng như sự đồng cảm của sinh viên.
Giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên là tổng thể các hoạt động,
định hướng, chỉ đạo của Đảng trực tiếp là các cấp ủy cùng các chủ thể giáo
dục trang bị những giá trị của lối sống văn hóa và cổ Vũ hoạt động thực
hành lối sống văn hóa ở sinh viên, nhằm hoàn thiện nhân cách, phát triển năng
lực,giúp họ giúp họ thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có bước ngoặt lịch sử
trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó là sự chuyển đổi từ mô hình kinh tế hiện
vật với hai thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) sang mô
hình nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và chuyển đổi từ mô hình quản lý
kinh tế theo cơ chế tập trung bao cấp sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế
thị trường. Sự chuyển đổi đó đã tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội,
trong đó có lối sống. Bên cạnh sự xuất hiện những giá trị đạo đức mới, lối sống
văn hoá mới lành mạnh, phù hợp với nền kinh tế thị trường cũng có tình trạng,
một số giá trị đạo đức truyền thống, lối sống văn hoá truyền thống tốt đẹp bị
xâm hại, mai một. Nhiều nơi trong xã hội, kể cả trong các trường đại học và
cao đẳng ở Việt Nam, đã xuất hiện những quan niệm và hành vi đạo đức ngoại
lai, lối sống lai căng, kệch cỡm, xa lạ, thiếu văn hoá; biểu hiện qua lối sống
thực dụng, cá nhân vị kỷ, coi trọng vật chất và đồng tiền của một bộ phận thanh
niên, học sinh, sinh viên, gây tổn hại không nhỏ đến thuần phong, mỹ tục của
dân tộc, đến chất lượng đào tạo của các trường đại học và cao đẳng. Không ít
trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan
hệ thày trò, đồng chí, đồng nghiệp. Vì vậy, cùng với sự chủ động, tự giác xây
dựng nền kinh tế thị trường lành mạnh chúng ta cần tăng cường giáo dục lối
sống văn hóa, đồng thời phải có cách giáo dục đúng đắn để phát huy được
những ảnh hưởng tích cực, ngăn ngừa ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị


16


trường đến lối sống của học sinh, sinh viên; từ đó, xây dựng lối sống văn hóa
cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng.
Về phương diện hoạt động giáo dục nhận thức, các hình thức giáo dục
chủ yếu là giảng giải, truyền đạt những tri thức về văn hóa, những yêu cầu
chuẩn mực văn hóa trong các quan hệ xã hội, gia đình. Về phương diện thực
hành, thông qua những yêu cầu, chuẩn mực trong các quan hệ xã hội, chủ thể
giáo dục lối sống văn hóa định hướng cho sinh viên tu dưỡng, rèn luyện nhằm
khuyến khích, cổ vũ thanh niên, sinh viên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn,
xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Hình thành lớp
thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của dân tộc, góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Chủ thể giáo dục lối sống văn hóa bao gồm: Đảng, Nhà nước,
nhà trường, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể, gia đình và sự tu
dưỡng rèn luyện đạo đức của bản thân sinh viên. Chức năng giáo dục lối sống
văn hóa của Đảng đối với sinh viên nói riêng, xã hội nói chung thể hiện ở
chức năng định hướng lối sống thông qua xác định hệ giá trị và những nhiệm
vụ - giải pháp thực hiện các giá trị trong hệ thống nhà trường và các tổ chức
chính trị - xã hội, các đoàn thể...; của Nhà nước thể hiện ở chức năng quản lý
nhà nước đối với ngành giáo dục; các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là
đoàn thanh niên có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục lối sống văn hóa
cho thanh niên, sinh viên trong nhà trường. Nhà trường là thiết chế xã hội
thực hiện chức năng giáo dục, đào tạo tài và đức cho nguồn nhân lực chất
lượng cao của đất nước, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là giáo dục lối sống
văn hóa cho sinh viên. Cả xã hội đang rất quan tâm đến đạo đức của học sinh,
sinh viên, xây dựng văn hóa học đường là một yếu tố bảo đảm và nâng cao
chất lượng giáo dục – đào tạo. Văn hóa luôn đi liền với giáo dục, giáo dục đi

liền với văn hóa. Văn hóa học đường góp phần quan trọng chấn hưng, cải
17


cách nền giáo dục nước nhà. Để xây dựng văn hóa học đường phải làm nhiều
việc, bằng nhiều cách. Vạn sự khởi đầu từ định hướng và tổ chức vì vậy phải
bắt đầu từ các cấp quản lý ngành, lãnh đạo các trường với chủ trương, kế
hoạch triển khai, kiểm tra, nhắc nhở, đánh giá... đó là điều kiện tiên quyết.
Tiếp đến, đội ngũ nhà giáo phải chú ý giáo dục văn hóa, đây là nhân tố rất
quan trọng. Và tất nhiên, phải toàn trường, đến từng người học, ai cũng phải
chú trọng đến hình thành và phát triển nhân cách văn hóa, đây là yếu tố giữ
vai trò quyết định. Trong các biện pháp, một biện pháp mà các trường đều
cần thực hiện là mỗi trường cần xác định cụ thể hệ giá trị làm chuẩn mực để
mọi thành viên đồng thuận, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo thành quả
của bản thân, của lớp, của trường, đặc biệt về mặt đạo đức xã hội, giá trị nhân
cách, điều mà chúng ta gọi là dạy người bên cạnh dạy chữ, dạy nghề. Hiện
nay xây dựng văn hóa học đường là mối quan tâm thường xuyên của các
ngành, các cấp mà trực tiếp là các nhà quản lý của ngành giáo dục, tất cả các
nhà trường nhằm làm cho giáo dục thực sự đáp ứng những đòi hỏi của công
cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.
Như vậy, chăm lo giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên Việt Nam
hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với giáo dục
thể chất, văn hoá, giáo dục chuyên môn nghiệp vụ, giáo dục lối sống văn hóa
góp phần hoàn thiện các mặt, đức, trí, thể, mỹ cho sinh viên Việt Nam nói
riêng, thanh niên Việt Nam nói chung - thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng .
1.2. Các yếu tố cấu thành giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên trong
các trường đại học
1.2.1. Chủ thể giáo dục lối sống văn hóa
Hiện nay có nhiều chủ thể tham gia vào giáo dục lối sống văn hóa cho

sinh viên. Có thể chia ra làm ba nhóm: nhóm chủ thể lãnh đạo, quản lý (Đảng
ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo, Phòng Công tác chính trị, Ban chủ nhiệm
18


khoa, Giáo viên chủ nhiệm lớp); Nhóm chủ thể truyền đạt kiến thức lối sống
văn hóa cho sinh viên (Đội ngũ giảng viên, Báo cáo viên, Tuyên truyền viên,
….) và nhóm chủ thể hỗ trợ (các tổ chức hội sinh viên, đoàn thanh niên, công
đoàn và đặc biệt là gia đình sinh viên)
Nhóm thứ nhất, nhóm chủ thể lãnh đạo quản lý
Đây là nhóm chủ thể có vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định trong
việc xây dựng chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình và tổ chức vận hành
nó trong quá trình cung cấp những kiến thức về lối sống văn hóa cho sinh
viên. Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo, Phòng công tác chính trị, Ban
chủ nhiệm khoa, Giáo viên chủ nhiệm lớp gắn với vị trí, vai trò khác nhau
nhưng cùng có trách nhiệm vừa quản lý sinh viên, vừa tiếp nhận và xử lý, giải
quyết, triển khai các chủ trương, chính sách, chỉ thị của trung ương, của
Chính phủ và của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục lối sống văn hóa cho
sinh viên. Tùy thuộc vào chương trình, nhiệm vụ chuyên môn của từng
trường, từng khoa mà Ban giám hiệu (Ban giám đốc), Ban chủ nhiệm khoa có
thể quyết định hình thức, phương thức truyền tải thông tin kiến thức về giáo
dục lối sống văn hóa phù hợp nhất đến sinh viên. Đặc biệt là các phòng chức
năng, các tổ chức chính trị xã hội ở trường sẽ triển khai các hoạt động ngoại
khóa một cách cụ thể.
Thứ hai, nhóm truyền đạt kiến thức về lối sống văn hóa cho sinh viên:
Nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên
là làm cho họ có kiến thức về đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam, thế giới quan khoa học về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, từ đó hình thành thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ với lập trường tư
tưởng, niềm tin, tình cảm và thái độ với chế độ XHCN, tự giác, tích cực tham

gia các hoạt động của đất nước. Bởi vậy, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên,
tuyên truyền viên có vai trò đặc biệt quan trọng, họ là những người trực tiếp
truyền đạt kiến thức về lối sống văn hóa đến sinh viên và quyết định hiệu quả
của các chương trình giáo dục lối sống văn hóa.
19


Sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và sự phát triển mạnh
mẽ của kinh tế - xã hội trong nước đã tác động đến nhận thức, tâm tư, niềm
tin của sinh viên, đòi hỏi công tác giáo dục lối sống văn hóa phải có một bước
tiến mới mà trước hết là đội ngũ giảng viên, tuyên truyền viên, thay đổi cách
nghĩ, cách nhìn và phương pháp giảng dạy. Đội ngũ này có say mê nhiệt
huyết, có nhiều trải nghiệm thực tiễn, linh hoạt sáng tạo trong áp dụng
phương pháp giảng dạy để đem đến những kiến thức về giáo dục lối sống văn
hóa một cách rõ ràng, có sức thuyết phục cao.
Thứ ba, nhóm chủ thể hỗ trợ:
Các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, Công đoàn, … là nhóm
chủ thể có điều kiện thuận lợi nhất để tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa,
các phong trào vừa có chiều sâu, vừa có tính lan rộng, hỗ trợ việc nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên.
Các tổ chức này phải linh hoạt trong mọi công việc vừa có nhiệm vụ tổ
chức thực hiện đúng trách nhiệm được lãnh đạo giao, vừa phải chủ động phối
hợp giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên. Các tổ chức Đoàn, đội, công đoàn,
cần phát huy khả năng vừa tập hợp được sinh viên vừa thực hiện được nhiệm vụ
chính trị thông qua việc tuyên truyền, giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên.
Cùng với đó, gia đình cũng có vai trò vô cùng quan trọng trong giáo dục lối sống
văn hóa cho sinh viên thông qua sự động viên, chia sẻ, tạo điều kiện học tập và
phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục lối sống cho sinh viên.
1.2.2. Đối tượng giáo dục lối sống văn hóa
Tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của tư duy lý luận, cùng

với khối lượng tri thức mà họ đã tiếp thu được trong gia đình, ở nhà trường và
ngoài xã hội, sinh viên có thể liên kết các tri thức riêng lẻ lại với nhau hình
thành nên một biểu tượng rất đặc trưng cho giới sinh viên. Có thể nói, sinh
viên chính là thời kỳ hình thành rõ nét nhất về nhân cách của những trí thức
trong tương lai. Họ có những quan điểm, nhu cầu, nguyện vọng riêng trong
quá trình tiếp nhận những thay đổi của thời đại, của nền giáo dục và đào tạo.
20


Trong quá trình mở cửa hội nhập cùng với sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng
của ngành giáo dục đại học, đội ngũ sinh viên có nhiều thay đổi về định
hướng giá trị, về lối sống, nhu cầu.
Bên cạnh những hướng phát triển của sinh viên nói chung, sinh viên
Việt Nam còn có thêm những đặc trưng riêng của thanh niên - sinh viên của
một đất nước đang trên đường phát triển, đổi mới và hội nhập. Sinh viên là
lực lượng trí thức trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chính sự nghiệp này đòi hỏi ở sinh viên phải có trình độ, có kiến thức để học
tập và tiếp thu những tiến bộ của khoa học công nghệ tiên tiến và cũng là để
khẳng định vai trò, trách nhiệm với dân tộc và đất nước. Sinh viên Việt Nam
có ý thức về ý thức tự lập, tự chủ, thể hiện tính độc lập trong học tập. Đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay, họ đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của tầng lớp
trí thức trẻ. Họ năng động và sáng tạo để thích ứng với đòi hỏi của cuộc sống
và nghề nghiệp tương lai. Họ thực sự có nhu cầu cao về hoàn thiện tri thức,
trình độ học vấn và các kỹ năng để mau chóng hoà mình vào một xã hội học
tập của thời đại mới. Có rất nhiều gương sinh viên điển hình trong học tập và
nghiên cứu, họ không quản ngại khó khăn về kinh tế, không chịu sự bó hẹp
của thời gian và vượt qua những đam mê khác để tìm kiếm kiến thức.
Bên cạnh những đặc điểm nổi bật đó, trong quá trình giáo dục lối sống
văn hóa cho sinh viên, cần chú ý một số đặc điểm dưới đây của sinh viên:
Thứ nhất, trình độ nhận thức, hiểu biết các vấn đề chính trị - xã hội của

sinh viên rộng nhưng chưa sâu. Sự phát triển của công nghệ thông tin với
nhiều phương tiện truyền thông, báo chí, sách vở,... đã tạo điều kiện cho sinh
viên tiếp cận được nhiều thông tin về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy
nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã hình thành nên
một môi trường ảo, giao tiếp ảo, lối sống ảo của một số sinh viên. Điều đó
làm mất đi cảm xúc thực, chiều sâu tâm hồn, dễ hình thành lối sống chóng
vánh, khép kín, lạnh nhạt vô tâm với người thân trong gia đình và những
người xung quanh,…
21


Thứ hai, thế giới quan và nhân sinh quan của sinh viên chưa được ổn
định. Có thể thấy rằng môi trường đại học, sinh viên chủ yếu lao động trí óc,
chưa gắn liền với hoạt động lao động sản xuất, thiếu kinh nghiệm và vốn
sống, tâm lý tư tưởng chưa ổn định, dễ thay đổi. Khi tiếp cận các môn khoa
học chính trị là góp phần giúp sinh viên tiếp cận với một thế giới quan và
phương pháp luận khoa học. Nó không chỉ giúp sinh viên nhận biết một thế
giới quan khoa học mà còn giúp sinh viên có một nhân sinh quan cách mạng
đúng đắn. Từ đó thúc đẩy, hoàn thiện bản thân, tạo niềm tin củng cố lý tưởng
sống và định hướng cho các hoạt động nhận thức của sinh viên trong quá trình
học tập ở trường đại học.
Thứ ba, phẩm chất đạo đức của sinh viên tương đối tốt. Bước vào
trường đại học có nghĩa là sinh viên đã trải qua một kỳ thi căng thẳng, nghiêm
túc, bởi vậy đa phần sinh viên đều là những thanh niên gương mẫu, chấp hành
tốt quy định của nhà trường và xã hội. Trường đại học không chỉ xây dựng
cho sinh viên một thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học
mà còn trang bị cho sinh viên những kiến thức tốt nhất về chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và giáo dục lối sống văn hóa cũng chính là định
hướng các giá trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên.
Thứ tư, năng lực tư duy và năng lực hành động của sinh viên có nhiều

triển vọng. Về bản chất, tư duy của sinh viên có tính độc lập, sáng tạo, có khả
năng phân tích và đề cập những khía cạnh chưa được đề cập đến. Hay có thể
hiểu rằng học là một quá trình tự nghiên cứu, tự hoàn thiện bản thân, môi
trường đại học giúp cho sinh viên rèn luyện khả năng tự lập, tự tư duy, tự
hành động một cách hiệu quả nhất
1.2.3. Nội dung giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên
Giáo dục văn hóa lối sống dựa trên những nguyên lý, quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của
Đảng để hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, lối
sống trong sáng, ý thức tiến bộ cho sinh viên. Giáo dục lối sống văn hóa để
22


hình thành lối sống trong sáng, hướng tới mục tiêu xây dựng nét đẹp văn hóa
lối sống trong sinh viên nhằm chống lại những âm mưu thủ đoạn diễn biến
hòa bình của các thế lực thù địch đồng thời làm cho thế giới quan chủ nghĩa
Mác – Lê nin và tư tưởng, đạo đức, lối sống Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần của thế hệ sinh viên.
Giáo dục những giá trị, lối sống văn hóa được đúc kết trong lịch sử để
giữ gìn và phát huy thành quả của cách mạng Việt Nam, khơi dậy và phát huy
lòng tự hào dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
cho sinh viên giai đoạn mới. Trong điều kiện hiện nay, với nhiều yếu tố tác
động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa việc
giáo dục lối sống văn hóa và những giá trị của lối sống được đúc kết trong
lịch sử cho các thế hệ sinh viên là rất cần thiết. Nó không chỉ có giá trị bảo
tồn và giữ gìn những truyền thống tốt đẹp mà còn có tác dụng to lớn trong
việc phát huy nhân tố con người, đồng thời chống lại các tác động tiêu cực từ
những âm mưu phá hoại.
- Giáo dục lý tưởng sống
Lý tưởng sống xuất phát từ việc xác định mục đích của cuộc đời và để

đạt được mục đích mà mình đã chọn, cần có những ước mơ hoài bão vươn tới
mục đích cao nhất mà mình đã chọn. Mỗi một người có thể bắt đầu từ những
mục đích khác nhau, đi trên những con đường khác nhau, nhưng ai cũng mong
muốn đạt đến đích cuối cùng của cuộc sống mà mình lựa chọn. Để có thể đạt
đến mục đích cuộc sống tốt đẹp, cần thiết phải có những trăn trở, những ước
mơ và hoài bão, có khi cháy bỏng, và phải có nghị lực và niềm tin để thực hiện
những ước mơ đó. Tuy nhiên, vì lý tưởng của mỗi người không chỉ được xây
dựng trên những ước mơ và hoài bão, và những ước mơ hoài bão đó lại dựa
trên nền tảng của nhân sinh quan, tức là đạo làm người, nên nhân sinh quan
khác nhau sẽ hình thành lý tưởng khác nhau, ứng với các mục đích sống khác
nhau. Rõ ràng, lý tưởng chính là ước mơ sống cao đẹp, là ý nghĩa cuộc đời của
mỗi một người, được xây dựng trên cơ sở xác định đạo làm người. Như vậy lý
23


×