Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Tác động của kiệt quệ tài chính đến việc né tránh thuế của doanh nghiệp trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính nghiên cứu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 49 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------------

TRẦN MỸ KIM QUÂN

TÁC ĐỘNG CỦA KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH ĐẾN VIỆC NÉ
TRÁNH THUẾ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG VÀ SAU
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------------

TRẦN MỸ KIM QUÂN

TÁC ĐỘNG CỦA KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH ĐẾN VIỆC NÉ
TRÁNH THUẾ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG VÀ SAU
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do riêng tôi thực hiện.
Các số liệu và kết quả trình bày trong bài nghiên cứu là trung thực, chính xác. Kết quả
kiểm tra Turnitin 18%.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Học viên thực hiện

Trần Mỹ Kim Quân

năm 2018


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM LƯỢC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU............................................................................................. 1
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................................... 3
2.1. Lý thuyết tổng quan ............................................................................................. 3

2.2. Kiệt quệ tài chính và né tránh thuế ...................................................................... 4
2.3. Khủng hoảng tài chính và né tránh thuế .............................................................. 6
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 12
3.1. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................ 12
3.2. Mô hình hồi quy ................................................................................................ 12
3.2.1. Biến phụ thuộc ........................................................................................... 12
3.2.2. Biến độc lập ................................................................................................ 13
3.2.2.1 Biến kiệt quệ tài chính .............................................................................. 13
3.2.2.2 Biến khủng hoảng tài chính...................................................................... 14
3.2.3 Biến kiểm soát ............................................................................................. 14
3.2.4 Mô hình ...................................................................................................... 17
3.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 18
3.3.1. Mô hình tác động cố định (Fixed effects model) ....................................... 18
3.3.2. Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random effects model) ............................. 18
3.3.3. Trình tự nghiên cứu .................................................................................... 18
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ....................................... 20
4.1. Phân tích dữ liệu ................................................................................................ 20
4.1.1. Kiểm định tính dừng .................................................................................. 20
4.1.2. Thống kê mô tả ........................................................................................... 21
4.1.3. Phân tích tương quan Pearson .................................................................... 22
4.2. Phân tích định lượng .......................................................................................... 23
4.2.1. Mô hình 1 ................................................................................................... 23


4.2.2. Mô hình 2 ................................................................................................... 25
4.2.3. Kiểm định đa cộng tuyến ........................................................................... 28
4.3. So sánh kết quả nghiên cứu với nghiên cứu của Richardson, Grantley Taylor và
Roman Lanis (2014) ................................................................................................. 29
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ............................................................................................ 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC KẾT QUẢ CHẠY MÔ HÌNH


DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG 1: TÓM TẮT CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY........................................... 9
BẢNG 2: TÓM TẮT CÁC BIẾN SỬ DỤNG TRONG BÀI NGHIÊN CỨU ............. 16
BẢNG 3: KỲ VỌNG VỀ DẤU CỦA CÁC BIẾN VỚI BIẾN CASHETR ................. 19
BẢNG 4: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH NGHIỆM ĐƠN VỊ .............................................. 20
BẢNG 5: THỐNG KÊ MÔ TẢ CÁC BIẾN ................................................................ 21
BẢNG 6: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN PEARSON ............................... 22
BẢNG 7: KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH 1 THEO CÁC PHƯƠNG PHÁP
POOLED OLS/ FIXED EFFECTS MODEL VÀ RANDOM EFFECTS MODEL ..... 23
BẢNG 8: KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH 2 THEO CÁC PHƯƠNG PHÁP
POOLED OLS/ FIXED EFFECTS MODEL VÀ RANDOM EFFECTS MODEL ..... 25
BẢNG 9: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ĐA CỘNG TUYẾN............................................. 28
BẢNG 10: SO SÁNH KẾT QUẢ VỚI NGHIÊN CỨU CỦA RICHARDSON VÀ
CỘNG SỰ (2014) ......................................................................................................... 29


TÓM LƯỢC
Mục đích của bài nghiên cứu này là để xem xét tác động của kiệt quệ tài chính lên việc
né tránh thuế và tác động của khủng hoảng tài chính lên mối quan hệ giữa kiệt quệ tài
chính và né tránh thuế của các công ty ở Việt Nam. Mẫu nghiên cứu gồm 337 công ty
phi tài chính có niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, dữ liệu lấy từ năm 2008 đến
năm 2016 và hồi quy các mô hình dữ liệu bảng bằng Pooled OLS, Fixed Effects Model
và Random Effects Model. Nghiên cứu đã cho thấy có mối tương quan dương giữa kiệt
quệ tài chính và việc né tránh thuế của các công ty ở Việt Nam. Khủng hoảng tài chính
cũng có tương quan dương đến việc né tránh thuế của các công ty tuy nhiên ở Việt Nam
mối tương quan dương giữa kiệt quệ tài chính và né tránh thuế không bị khuếch đại bởi
sự xuất hiện của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.



1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay, các doanh nghiệp thường sử dụng các
chiến lược nhằm làm giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp, vì đây là một
khoản chi phí lớn ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có
thể thiết lập các hợp đồng, các giao dịch để tận dụng những lỗ hổng trong luật thuế
hoặc tận dụng sự khác biệt về luật thuế giữa các khu vực địa lý để giảm đáng kể số
tiền thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Nhất là nếu một doanh nghiệp rơi vào giai
đoạn kiệt quệ tài chính, ban lãnh đạo sẽ đưa ra những chiến lược để tiết kiệm tối đa
chi phí nhằm có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu vốn tối thiểu để doanh nghiệp có
thể duy trì xếp hạng tín dụng hoặc để có thể tiếp tục hoạt động được.
Nếu khủng hoảng tài chính xảy ra, như khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 –
2009, các công ty có thể lâm vào kiệt quệ tài chính nghiêm trọng và có thể sẽ càng
có xu hướng né tránh thuế nhiều hơn. Bởi vì điều kiện tài chính và kinh tế xấu đi, các
doanh nghiệp đối mặt rủi ro phá sản gia tăng có thể nhận thấy các chi phí tiềm ẩn của
việc né tránh thuế (ví dụ mức phạt và thiệt hại về danh tiếng) sẽ được tối thiểu hóa so
với lợi ích tiềm ẩn. Và nếu chi phí tiềm tàng của phá sản đủ cao, các doanh nghiệp có
thể sẳn sàng sử dụng các biện pháp né tránh thuế bất kể nguy cơ bị kiểm tra bởi cơ
quan thuế.
Vì vậy dựa trên bài nghiên cứu “The impact of financial distress on corporate
tax advoidance spanning the global financial crisis: Evidence from Australia” của
các tác giả Grant Richardson, Grantley Taylor, Roman Lanis năm 2014. Mục tiêu của
bài nghiên cứu này để xem xét mối quan hệ của kiệt quệ tài chính đối với việc né
tránh thuế và xem xét mối quan hệ này có tăng lên khi xảy ra khủng hoảng tài chính
của các doanh nghiệp có niêm yết ở Việt Nam qua việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu
sau:
-


Liệu kiệt quệ tài chính có mối tương quan với việc né tránh thuế của các doanh
nghiệp ở Việt Nam hay không?

-

Liệu khủng hoảng tài chính có mối tương quan với việc né tránh thuế của các
doanh nghiệp ở Việt Nam hay không?


2
-

Nếu kiệt quệ tài chính có tương quan với việc né tránh thuế của các doanh
nghiệp ở Việt Nam thì mối quan hệ này có tăng lên bởi sự xuất hiện của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu?
Mẫu nghiên cứu của bài là 337 công ty phi tài chính có niêm yết trên sàn chứng

khoán ở Việt Nam chọn theo tiêu chí có doanh thu thuần lớn theo báo cáo tài chính
năm 2016. Dữ liệu của các công ty lấy từ báo cáo tài chính trong giai đoạn từ 2008 –
2016 và được lấy theo năm.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, mô hình định lượng kế thừa dựa
trên bài nghiên cứu “The impact of financial distress on corporate tax advoidance
spanning the global financial crisis: Evidence from Australia” của các tác giả Grant
Richardson, Grantley Taylor, Roman Lanis năm 2014. Bài nghiên cứu sử dụng độ
tuổi công ty, quy mô công ty, đòn bẩy nợ, mức độ vốn, mức độ R&D, mức độ tồn
kho, tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu làm biến kiểm soát.
Các chương sau của bài nghiên cứu này được cấu trúc như sau: Chương 2 trình
bày cơ sở lý thuyết các kết quả nghiên cứu trước đây, chương 3 trình bày dữ liệu và
phương pháp nghiên cứu, chương 4 trình bày nội dung các kết quả nghiên cứu và

chương 5 kết luận.


3

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Lý thuyết tổng quan
Né tránh thuế (tax avoidance) được xem là phần không thể tách rời trong chiến
lược quản trị nguồn vốn của các doanh nghiệp (Desai và Dharmapala, 2006; Rego,
2003; Slemrod, 2001). Nó bao gồm việc thiết lập các hợp đồng, các giao dịch để tận
dụng các lỗ hổng trong luật thuế (Lisowsky, 2010; Wilson, 2009) hoặc tận dụng sự
khác biệt trong luật thuế giữa các khu vực địa lý khác nhau (Desai và Hines, 2009;
Atwood và cộng sự, 2012;) để làm giảm đáng kể số thuế phải nộp.
Ở Việt Nam, khái niệm né tránh thuế được hiểu rằng công ty sử dụng những
phương thức nhưng trong khuôn khổ pháp luật cho phép như sử dụng những cách
hạch toán kế toán, khai thác những điều khoản của pháp luật về ưu đãi thuế để làm
giảm số thuế phải nộp. Điều này khác với hành vi trốn thuế (tax evasion) là việc công
ty thực hiện những hành vi mà pháp luật không cho phép để làm giảm số thuế phải
nộp như bán hàng không xuất hóa đơn để giảm doanh thu, mua hóa đơn để tăng chi
phí được khấu trừ thuế,…
Một công ty được đánh giá là tuân thủ thuế (tax compliance) khi báo cáo đầy
đủ tất cả thu nhập, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của các luật thuế
hoặc phán quyết của tòa án.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng làm cho công ty thực hiện hành vi né tránh thuế:
Harris (1989) cho rằng mức độ thực hiện hành vi né tránh thuế phụ thuộc vào trình
độ hiểu biết của nhà quản lý công ty về luật thuế; Palil (2010) tìm thấy mối tương
quan giữa nhận thức của người nộp thuế về chi tiêu chính phủ tác động đến hành vi
né tránh thuế của họ,… ngoài ra tình trạng tài chính hiện tại của công ty mà cụ thể
hơn là mức độ kiệt quệ tài chính cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện
né tránh thuế mà trong bài nghiên cứu này sẽ đi sâu vào xem xét.

Kiệt quệ tài chính, theo như Altman và Hotchkiss (2006) là một thuật ngữ có thể
được hiểu dựa trên bốn thuật ngữ chung thường được dùng trong nghiên cứu: thất bại
kinh doanh, mất khả năng thanh toán, phá sản và vỡ nợ. Thất bại kinh doanh xảy ra
khi tỷ suất sinh lợi thực tế trên vốn đầu tư thấp hơn nhiều so với lãi suất hiện hành
khi đầu tư hoặc không đủ doanh thu để bù đắp chi phí. Mất khả năng thanh toán liên


4
quan đến một kiểu kiệt quệ tài chính khác, theo đó công ty không thể hoàn thành các
nghĩa vụ tài chính hiện tại của nó, có thể do liên quan đến tính thanh khoản. Phá sản
cũng là một thuật ngữ thể hiện rằng công ty đang kiệt quệ tài chính và trong hầu hết
các trường hợp việc phá sản liên quan đến phán quyết từ tòa án. Cuối cùng, thuật ngữ
vỡ nợ thường được mô tả trong hai trường hợp: vỡ nợ kỹ thuật đề cập đến việc công
ty vi phạm một điều kiện của hợp đồng/giao ước với chủ nợ còn việc không đáp ứng
các khoản phải trả định kỳ đối với một khoản vay có nhiều khả năng sẽ dẫn tới vỡ nợ
pháp lý. Cả hai loại vỡ nợ đều là tín hiệu về việc giảm kết quả hoạt động kinh doanh
của công ty và kiệt quệ tài chính (Altman, 2000, Altman và Hotchkiss, 2006).
Kiệt quệ tài chính sẽ làm tăng động lực cho hành vi chuyển dịch rủi ro xảy ra
bởi các cổ đông và nhà quản lý công ty (Eberhart và Senbet, 1993; Maksimovic và
Titman, 1991; Thorburn, 2004). Galai và Masulis (1976), Jensen và Meckling (1976)
phát hiện tương quan dương giữa giá cổ phiếu và sự biến động tài sản cơ sở tạo ra
động lực khuyến khích cổ đông chiếm đoạt tài sản của trái chủ bằng cách chuyển tài
sản của doanh nghiệp vào các dự án có rủi ro cao. Việc này có thể chuyển hướng
nguồn lực ra khỏi việc tối ưu hóa giá trị cổ đông. Thật vậy, trong giai đoạn kiệt quệ
tài chính, hành vi chuyển dịch rủi ro đã tăng lên (Eberhart và Senbet, 1993;
Maksimovic và Titman, 1991). Điều này có thể dẫn đến chi phí sử dụng vốn cao hơn
cho các doanh nghiệp bị kiệt quệ tài chính và làm cho họ có động lực tiếp tục thực
hiện các chính sách doanh nghiệp có rủi ro cao hơn (Edwards và cộng sự, 2013).
2.2. Kiệt quệ tài chính và né tránh thuế
Edwards và cộng sự (2013) cho rằng khi công ty lâm vào tình trạng kiệt quệ tài

chính, các nhà quản lý sẳn lòng chấp nhận nhiều rủi ro hơn liên quan đến việc né
tránh thuế.
Chen và cộng sự (2010) cho rằng một doanh nghiệp sẽ thực hiện chiến lược né
tránh thuế khi lợi ích biên vượt quá chi phí biên. Do doanh nghiệp lâm vào trạng thái
kiệt quệ tài chính thì nhu cầu về tiền rất quan trọng trong khi chi phí thuế là một dòng
tiền ra lớn và công ty có thể bất chấp những thiệt hại về danh tiếng của mình để thực
hiện chiến lược né tránh thuế, các chiến lược mà trước đây được xem là rủi ro hoặc


5
tốn kém cho công ty có thể trở nên hấp dẫn hơn và khả thi hơn vì những lợi ích tiềm
ẩn của việc né tránh thuế.
Các doanh nghiệp kiệt quệ tài chính có thể sử dụng các chính sách kế toán để
tạm thời tăng thu nhập hoạt động để tránh tình trạng vỡ nợ hoặc gây thiệt hại đến khả
năng thanh toán cho chủ nợ. Cụ thể, Frank và cộng sự (2009) tìm thấy rằng các công
ty thực hiện các thủ thuật kế toán lên lợi nhuận tính thuế và lợi nhuận tài chính cùng
lúc để khiến cho lợi nhuận sổ sách tăng và thu nhập chịu thuế giảm trong cùng kỳ báo
cáo.
Những nghiên cứu trước đây đã cho thấy nhiều bằng chứng về động cơ và khả
năng “phù phép báo cáo tài chính” của công ty để điều chỉnh thu nhập tính thuế khi
phải đối mặt với việc thu nhập liên tục bị giảm hoặc xếp hạng tín dụng giảm. Koch
(2000) tìm ra rằng các báo cáo lợi nhuận của các công ty gặp khó khăn có xu hướng
tăng lên và được đánh giá là không có sự tin cậy cao so với báo cáo lợi nhuận của các
công ty không rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính.
Mills và Newberry (2001, 2005) thấy rằng chêch lệch thuế sổ sách có tương
quan dương với các mô hình thu nhập và kiệt quệ tài chính. Họ cũng tìm thấy rằng
các công ty có xếp hạng tín dụng thấp, chi phí lãi vay trong báo cáo thuế của họ cao
hơn trong báo cáo tài chính – đây là dấu hiệu gia tăng của việc né tránh thuế. Wilson
(2011) tìm thấy rằng các doanh nghiệp với tài khoản ngoại bảng rộng có nhiều khả
năng vỡ nợ và kiệt quệ tài chính trong tương lai lớn hơn, việc này được phản ánh qua

chêch lệch thuế sổ sách cao hơn. Cuối cùng, Hanlon (2005), Blaylock và Cộng sự
(2012) tìm thấy rằng các doanh nghiệp có sự chêch lệch về thuế sổ sách lớn có thu
nhập và dòng tiền mặt liên tục ít hơn so với các công ty có sự chêch lệch về thuế sổ
sách nhỏ. Do đó các Công ty có thể tìm cách giảm đáng kể thu nhập tính thuế của
mình khi phải đối mặt với thu nhập ít hơn hoặc xếp hạng tín dụng thấp hơn. Nghiên
cứu này cho thấy mối tương quan giữa xếp hạng tín dụng và né tránh thuế. Trên thực
tế, thu nhập và xếp hạng tín dụng thấp hoặc không nhất quán có ảnh hưởng rõ ràng
đến khả năng vỡ nợ. Nhìn chung, kỳ vọng có mối tương quan dương giữa kiệt quệ tài
chính và né tránh thuế.
Quản lý của các doanh nghiệp kiệt quệ tài chính cũng có thể nhận thức rằng,
trong hoàn cảnh này, các cơ quan thuế sẽ ít nghiêm ngặt hơn trong việc thi hành luật


6
thuế, làm cho nó ít rủi ro hơn hoặc được xã hội chấp nhận hơn để giảm thuế doanh
nghiệp (Brondolo, 2009). Ngoài ra, các quản lý doanh nghiệp có thể nhận thấy rằng
rủi ro bị kiểm tra bởi cơ quan thuế hoặc thiệt hại danh tiếng sau khi phương tiện
truyền thông đăng tải, trong trường hợp này, ít quan trọng hơn khi đối mặt với kiệt
quệ tài chính.
Nguyễn Thị Lan Anh (2017) tìm thấy tương quan dương giữa kiệt quệ tài chính
và né tránh thuế của các công ty có niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam.
Tóm lại, các công ty có thể tăng khả năng né tránh thuế trong suốt giai đoạn kiệt
quệ tài chính. Cụ thể, kiệt quệ tài chính có thể làm cho các công ty có thái độ tích cực
hơn trong việc giảm bớt nghĩa vụ thuế doanh nghiệp vì thuế là một trong những chi
phí quan trọng nhất mà các công ty phải chịu. Trên thực tế, việc giảm thuế có thể
cung cấp nguồn vốn cần thiết để tài trợ cho các hoạt động hiện tại của doanh nghiệp,
duy trì xếp hạng tín dụng và duy trì hiện trạng của các điều khoản nợ hoặc thậm chí
giảm thiểu nguy cơ phá sản (Brondolo, 2009).
Dựa trên những giả định trên, giả thuyết được đưa ra như sau:
H1: Nếu các điều kiện khác không thay đổi, kiệt quệ tài chính có mối tương

quan dương với việc né tránh thuế doanh nghiệp.
2.3. Khủng hoảng tài chính và né tránh thuế
Campello và cộng sự (2010) tìm thấy rằng các công ty bị ràng buộc về mặt tài
chính đã lên kế hoạch cắt giảm đầu tư, công nghệ, tiếp thị và việc làm so với các công
ty không bị giới hạn về tài chính trong khủng hoảng tài chính. Họ cũng chỉ ra rằng
các công ty bị ràng buộc về mặt tài chính phải sử dụng phần lớn tiền tiết kiệm trong
thời gian khủng hoảng và cắt giảm kế hoạch chia cổ tức dự kiến. Do đó, bài nghiên
cứu cũng muốn kiểm tra xem khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng đến việc né tránh
ở Việt Nam hay không, và nếu có, nó ảnh hưởng thế nào đến mối liên quan giữa kiệt
quệ tài chính và né tránh thuế.
Cụ thể, tình hình tài chính suy yếu của các công ty có thể buộc ban lãnh đạo
phải có những hành động rủi ro hơn trong việc giảm nghĩa vụ thuế thu nhập doanh
nghiệp hiện tại của công ty.
Rosner (2003), Leach và Newsom (2007) tìm thấy bằng chứng cho thấy các
doanh nghiệp có nhiều khả năng tham gia vào các hoạt động “phù phép báo cáo tài


7
chính” trước khi nộp đơn xin phá sản. Cụ thể, Rosner (2003) nhận thấy rằng các nhà
quản lý của các công ty bị phá sản được khuyến khích tham gia “phù phép báo cáo
tài chính” để che giấu và có khả năng làm họ mất đi vị trí công việc của mình. Khi
các hoạt động “phù phép báo cáo tài chính” được ban quản lý coi là không đủ để kiểm
soát vị thế xấu đi của công ty, ban quản lý có thể trở lại hoạt động gian lận. Leach và
Newsom (2007) gợi ý rằng các doanh nghiệp trong tình trạng tài chính nghiêm trọng
có thể tăng lợi nhuận làm cho báo cáo lợi nhuận đẹp, đáp ứng kỳ vọng của nhà phân
tích và để duy trì hiệu suất. Họ cũng thấy rằng “phù phép báo cáo tài chính” của các
doanh nghiệp gian lận là cao hơn đáng kể so với các doanh nghiệp không gian lận
dẫn đến phá sản. Crabtree và Maher (2009) và Ayers và cộng sự (2010) thấy rằng các
doanh nghiệp có xếp hạng tín dụng thấp nhất hoặc bị hạ xếp hạng tín dụng, cùng với
các dòng tiền mặt trong tương lai thấp do những cú sốc kinh tế có những thay đổi bất

thường dẫn đến chêch lệch thuế sổ sách. Do đó, khi xảy ra khủng hoảng tài chính,
quản lý công ty có thể được khuyến khích sử dụng các phương pháp hoạch định thuế
để giảm các nghĩa vụ thuế doanh nghiệp hiện tại (ví dụ tăng thu nhập được báo cáo)
và để duy trì dòng tiền trong tương lai. Các nghiên cứu trước cung cấp một số bằng
chứng cho thấy các doanh nghiệp phải đối mặt với kiệt quệ tài chính khi xảy ra khủng
hoảng tài chính có thể tham gia vào những hoạt động lập kế hoạch thuế nhằm giảm
nợ thuế và tăng dòng tiền của doanh nghiệp.
Các nghiên cứu khác đã xem xét các chính sách và thực tiễn đầu tư và tài chính
của doanh nghiệp trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính (ví dụ: Campello và
cộng sự, 2010, 2011, 2012, Kahle và Stulz, 2013). Chẳng hạn, Kahle và Stulz (2013)
thấy rằng có sự sụt giảm đáng kể về khả năng sẵn có của tín dụng, vay mượn của
công ty, sự suy giảm giá trị tài sản và chi phí vốn khi xảy ra khủng hoảng tài chính.
Họ cũng tìm ra rằng tỷ lệ nắm giữ tiền mặt theo tỷ lệ phần trăm tài sản giảm đáng kể
trong năm đầu tiên của cuộc khủng hoảng. Hơn nữa, nghiên cứu của Cai và Liu (2009)
tìm thấy rằng né tránh thuế có mối tương quan âm đến việc tiếp cận với tín dụng,
nghĩa là việc không tuân thủ thuế sẽ gia tăng nếu khả năng tiếp cận tín dụng của công
ty xấu đi. Tác động của những cú sốc bên ngoài này là các doanh nghiệp có khả năng
theo đuổi các chiến lược nhằm duy trì tiền mặt và giảm đáng kể chi tiêu, bao gồm cả
số thuế doanh nghiệp phải trả.


8
Brondolo (2009) tìm thấy rằng rủi ro gia tăng không tuân thủ thuế trong suốt
khủng hoảng tài chính và cho rằng các doanh nghiệp bị hạn chế về tín dụng có thể trở
lại với việc né tránh thuế như là nguồn tài chính thay thế cho hoạt động của họ. Theo
một nghĩa nào đó, các công ty khó khăn sẽ tìm cách "mượn" từ cơ quan thuế. Hơn
nữa, các công ty phải đối mặt với kiệt quệ tài chính trong hoặc ngay sau khủng hoảng
tài chính (ví dụ: nguy cơ phá sản) có thể nhận thấy rủi ro giảm về né tránh thuế (nghĩa
là hình phạt) là nhỏ so với tiềm năng tăng trưởng (tránh phá sản). Điều này cũng là
động cơ để quản lý công ty tham gia kế hoạch né tránh thuế.

Các công ty đa quốc gia cũng có thể thực hiện tái cấu trúc để tăng dòng tiền
trong các khu vực pháp lý cụ thể trong giai đoạn kiệt quệ tài chính. Ví dụ, một nhóm
công ty có thể đang ở vị trí tổn thất tổng thể nhưng có dư thừa tiền mặt hoặc thu nhập
ở nước ngoài. Tiền mặt có thể được chuyển bằng các cách hiệu quả về thuế đối với
hoạt động cần tiền để giảm thuế khấu trừ (ví dụ: chuyển các khoản thanh toán dịch
vụ hoặc khoản vay). Ngoài ra, nợ có thể được cơ cấu lại và chuyển sang các khu vực
bị đánh thuế cao hơn để được khấu trừ thuế tối đa.
Bằng chứng bổ sung về sự liên hệ giữa giai đoạn kiệt quệ tài chính và né tránh
thuế được cung cấp bởi Sở Thuế vụ Liên Bang Úc - Australian Taxation Office
(ATO). Cụ thể, ATO (2008, 2010) thấy rằng trong giai đoạn kiệt quệ tài chính, nhiều
công ty gây ra thiệt hại về thuế. Do tính thanh khoản của các doanh nghiệp giảm vì
kiệt quệ tài chính nên việc quản lý công ty (bao gồm quản lý các chức năng thuế) có
xu hướng theo đuổi các chiến lược nhằm đẩy nhanh việc sử dụng các khoản lỗ về
thuế đó. Cụ thể, việc đẩy mạnh thiệt hại về thuế và khiếu nại về khấu trừ thuế quá
mức liên quan đến nợ xấu và khoản lỗ về phải thu là một rủi ro tuân thủ đáng kể cho
cơ quan thuế (ATO, 2008, 2010). Ví dụ, trong khủng hoảng tài chính, hoạt động kiểm
tra của ATO (2008, 2010) cho thấy các công ty đa quốc gia đã chuyển nhượng mạnh
các khoản lỗ thuế hiện tại hoặc chưa thực hiện từ hoạt động của nước ngoài với mức
thuế doanh nghiệp thấp hơn vào Úc với mức thuế suất thuế doanh nghiệp cao hơn.
Việc thu hồi khoản lỗ thuế ở trong giai đoạn đầu của tình trạng kiệt quệ tài chính có
thể là một cách hiệu quả để giảm các khoản nợ thuế doanh nghiệp hiện tại. Do đó,
trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính, cả hành vi tránh rủi ro tài chính và né


9
đánh thuế đều nghiêm trọng hơn, điều này cho thấy khủng hoảng tài chính đã làm
tăng ảnh hưởng của tình trạng khó khăn về tài chính đối với né tránh thuế.
Sau những thảo luận trên, giả thiết đặt ra:
H2: Với tất cả những điều kiện khác không thay đổi, khủng hoảng tài chính có
mối tương quan dương với việc né tránh thuế doanh nghiệp.

H3: Với những điều kiện khác không thay đổi, có mối tương quan dương giữa
né tránh thuế doanh nghiệp và kiệt quệ tài chính, được khuếch đại bởi sự xuất hiện
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu với quy mô lớn.
BẢNG 1: TÓM TẮT CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

Nhân tố
nghiên
cứu

Kiệt quệ tài chính

Khủng hoảng tài chính

Edwards và cộng sự (2013) tìm

Campello và cộng sự (2010) tìm

thấy mối tương quan dương.

thấy rằng các doanh nghiệp bị giới
hạn về tài chính do khủng hoảng
tài chính sẽ có xu hướng né tránh
thuế nhiều hơn.

Chen và cộng sự (2010) tìm thấy Rosner (2003), Leach và Newsom
mối tương quan dương và cho (2007) tìm thấy rằng nhiều công ty
rằng các doanh nghiệp sẽ thực thực hiện các biện pháp phù phép

Né tránh
thuế


hiện né tránh thuế khi lợi ích báo cáo tài chính trước khi phá sản
biên lớn hơn chi phí biên.

do khủng hoảng tài chính.

Frank và cộng sự (2009) tìm Leach và Newsom (2007) tìm thấy
thấy mối tương quan dương.

rằng các công ty trong tình trạng
tài chính nghiêm trọng sẽ thực hiện
các biện pháp làm cho lợi nhuận
trên báo cáo tài chính đẹp hơn.


10
Koch (2000) tìm thấy rằng báo Crabtree và Maher (2009) và
cáo lợi nhuận của các doanh Ayers và cộng sự (2010) tìm thấy
nghiệp lâm vào kiệt quệ tài rằng khi xảy ra khủng hoảng tài
chính tăng cao bất thường.

chính các doanh nghiệp thường
thực hiện những biện pháp nhằm
làm giảm số thuế phải nộp.

Mills và Newberry (2001, 2005) Kahle và Stulz (2013) tìm thấy có
tìm thấy rằng chêch lệch về thuế sự sụt giảm đáng kể về khả năng
sổ sách có tương quan dương sẵn có của tín dụng, vay mượn của
với kiệt quệ tài chính.


công ty, sự suy giảm giá trị tài sản
và chi phí vốn khi xảy ra khủng
hoảng tài chính.

Hanlon (2005), Blaylock và Cai và Liu (2009) tìm thấy rằng né
Cộng sự (2012) tìm thấy rằng tránh thuế tương quan âm đến việc
các doanh nghiệp sẽ tìm cách né tiếp cận với tín dụng, nghĩa là việc
tránh thuế khi rơi vào tình trạng né tránh thuế sẽ gia tăng nếu khả
thu nhập thấp hoặc xếp hạng tín năng tiếp cận tín dụng của Công ty
dụng bị giảm.

xấu đi.

Nguyễn Thị Lan Anh (2017) tìm Brondolo (2009) chỉ ra rằng việc
thấy tương quan dương giữa kiệt né tránh thuế tăng lên trong suốt
quệ tài chính và né tránh thuế giai đoạn khủng hoảng tài chính và
của các công ty được niêm yết cho rằng các doanh nghiệp bị hạn
trên sàn chứng khoán Việt Nam. chế về tín dụng có thể trở lại với
việc né tránh thuế như là nguồn tài
chính thay thế cho hoạt động của
họ.
ATO (2008, 2010) cho thấy rằng
trong suốt giai đoạn khủng hoảng
tài chính, cả hành vi tránh rủi ro tài


11
chính và né đánh thuế đều nghiêm
trọng hơn, điều này cho thấy khủng
hoảng tài chính đã làm tăng ảnh

hưởng của tình trạng khó khăn về
tài chính đối với né tránh thuế.


12

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Dữ liệu nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam, mẫu nghiên cứu chọn là 337
công ty được lấy theo tiêu chí có doanh thu thuần lớn năm 2016, nghiên cứu về né
tránh thuế của Grant Richardson và cộng sự (2014) cũng chọn mẫu những công ty
có quy mô lớn, việc lựa chọn theo tiêu chí này nhằm mục đích để chọn những công
ty có hệ thống kế toán rõ ràng nhằm có thể đo lường một cách chính xác việc né tránh
thuế của công ty bằng cách sử dụng những thủ thuật kế toán. Chọn những công ty phi
tài chính có niêm yết và loại bỏ những công ty trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm. Giai đoạn được chọn để lấy mẫu là 2008 - 2016, nhằm có thể đo lường việc
né tránh thuế của các công ty trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Trong bài nghiên cứu này các số liệu được lấy theo năm, từ 2008 đến 2016, thời
gian 9 năm với tổng cộng 3.025 quan sát. Số liệu lấy từ báo cáo tài chính và báo cáo
thường niên của các công ty, các công ty phải thỏa mãn điều kiện là hoạt động liên
tục và sẵn có các báo tài chính đã được kiểm toán. Nguồn dữ liệu, các báo cáo tài
chính, báo cáo thường niên được lấy từ các trang web có uy tín: cafef.vn,
cophieu68.vn, vietstock.vn và từ cơ sở dữ liệu FiinPro Platform.

3.2. Mô hình hồi quy
Kế thừa từ bài nghiên cứu “The impact of financial distress on corporate tax
avoidance spanning the global financial crisis: Evidence from Australia” của các tác
giả Grant Richardson, Grantley Taylor, Roman Lanis (2014), bài nghiên cứu sử dụng
các biến và mô hình sau:


3.2.1. Biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc đại diện cho việc né tránh thuế được sử dụng trong bài nghiên
cứu là tỷ lệ thuế hiệu dụng (CASHETR). Biến này được sử dụng nhiều trong các bài
nghiên cứu trước, tiêu biểu là Dyreng và cộng sự 2008, thể hiện các nhà quản lý công
ty xem một kế hoạch thuế hiệu quả là giảm thiểu số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp càng nhiều càng tốt. Tỷ lệ thuế hiệu dụng phản ánh chiến lược né tránh thuế
để hoãn thuế phải trả cho các kỳ sau nhưng không ảnh hưởng đến chi phí thuế thu


13
nhập doanh nghiệp trong báo cáo tài chính. Tỷ lệ thuế hiệu dụng được đo lường như
sau:
CASHETR =

𝐶𝑇𝑃
𝐴𝐼

CTP: thuế thu nhập doanh nghiệp phải trả
AI:

lợi nhuận kế toán trước thuế

CASHETR càng nhỏ thì mức độ né tránh thuế càng lớn. Dyreng và cộng sự
2008 cũng chỉ ra điều này trong bài nghiên cứu của mình. Ngoài ra, biến này đã được
sử dụng ở nhiều nghiên cứu trước đây ở Việt Nam để đo lường việc né tránh thuế như
trong bài nghiên cứu: Mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sự né tránh thuế của các
doanh nghiệp Việt Nam – Phan Gia Quyền (2016).
Ngoài ra, Grant Richardson và cộng sự (2014) còn sử dụng thước đo né tránh
thuế là phần dư của chêch lệch thuế sổ sách, hồi quy theo tổng dồn tích. Tuy nhiên,
phần lợi nhuận thực sự chịu thuế để tính chêch lệch thuế sổ sách khó lấy dữ liệu ở

Việt Nam nên bài nghiên cứu không sử dụng thước đo này.

3.2.2. Biến độc lập
3.2.2.1 Biến kiệt quệ tài chính
Có rất nhiều mô hình kế toán có thể đo lường mức độ kiệt quệ tài chính của
công ty như: Z-score của Altman (Altman, 1968), O-score của Ohlson’s (Ohlson,
1980) và X-score của Zmijewski (Zmijewski, 1984), mô hình Merton (1974). Trong
bài nghiên cứu gốc của các tác giả Grant Richardson, Grantley Taylor, Roman Lanis
họ sử dụng mô hình Merton để đo lường xác suất vỡ nợ của công ty và biết được mức
độ kiệt quệ tài chính. Tuy nhiên hiện nay chưa có nhiều nghiên chuyên sâu về mô
hình Merton ứng dụng vào Việt Nam do không ước lượng một số yếu tố và lấy dữ
liệu cho mô hình, do đó bài viết sử dụng mô hình Z-core của Altman để đo lường
mức độ kiệt quệ tài chính của các công ty ở Việt Nam.
Mô hình Z-core được nghiên cứu bởi giáo sư Edward I. Altman được tính với 5
chỉ số tài chính ký hiệu X1, X2, X3, X4, X5 và được tính như sau:
X1: vốn luân chuyển chia cho tổng tài sản


14
X2: lợi nhuận giữ lại chia cho tổng tài sản
X3: lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia cho tổng tài sản
X4: giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu chia cho giá trị sổ sách của nợ
X5: doanh thu chia cho tổng tài sản
Đối với doanh nghiệp cổ phần hóa, Z- core được tính theo công thức:
Z = 1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 + 0.64X4 + 0.999X5
- Nếu Z > 2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá
sản.
- Nếu 1.8 < Z < 2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy
cơ phá sản.
- Nếu Z <1.8: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.

3.2.2.2 Biến khủng hoảng tài chính
Để xem xét ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính đối với né tránh thuế, biến
giả GFC được sử dụng, biến này được gán là 1 nếu quan sát trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính và bằng 0 nếu ngược lại. Ở Việt Nam, cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2007 – 2008 bắt đầu có ảnh hưởng đến Việt Nam trong năm 2008 vì vậy
biến này sẽ được gán bằng 1 nếu dữ liệu quan sát trong năm 2008 và bằng 0 trong
những năm còn lại.
Biến GFC nhân với biến đo lường kiệt quệ tài chính Z-core (tức là GFC* Zcore) được sử dụng để xem xét ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính đến việc né tránh
thuế của các công ty trong điều kiện xuất hiện khủng hoảng tài chính.
3.2.3 Biến kiểm soát
Biến kiểm soát sử dụng trong bài bao gồm: độ tuổi công ty, quy mô công ty,
đòn bẩy tài chính, mức độ vốn, mức độ R&D, mức độ tồn kho, tỷ lệ giá trị thị trường
trên giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu.
Độ tuổi công ty (FAGE) (được tính bằng năm tuổi của Công ty) thể hiện sự khác
biệt về thời gian mà cổ phiếu của công ty được giao dịch trên thị trường. Những công
ty mới niêm yết có khả năng thực hiện những sai phạm về tài chính nhiều hơn vì để
đáp ứng những mong muốn, những yêu cầu về thu nhập. Theo Beasley, 1996, công
ty có thời gian giao dịch trên thị trường càng lâu thì càng nhiều khả năng nó đã có


15
những thay đổi để tuân thủ những yêu cầu của thị trường. Do vậy trong bài nghiên
cứu này kỳ vọng FAGE sẽ có tương quan âm với né tránh thuế.
Quy mô công ty (SIZE) (được tính là logarit tự nhiên của tổng tài sản). Các công
ty càng lớn càng dễ thực hiện hành vi né tránh thuế vì quyền lực về kinh tế và cả
chính trị cao hơn Công ty nhỏ. Kỳ vọng dấu của SIZE là dương.
Đòn bẩy tài chính (LEV) được tính bằng nợ dài hạn trên tổng tài sản; mức độ
vốn (CINT) là tài sản hữu hình chia cho tổng tài sản; mức độ R&D (RDINT) là logarit
tự nhiên của chệch lệch tài sản cố định vô hình vì theo nguyên tắc kế toán các chi phí
trong quá trình nghiên cứu và phát triển góp phần tạo nên tài sản vô hình của công

ty; mức độ tồn kho (INVINT) được tính bằng hàng tồn kho trên tổng tài sản. Do lãi
vay được khấu trừ thuế nên dự đoán LEV sẽ có tương quan dương đến việc né tránh
thuế; CINT và RDINT được dự đoán có tương quan dương đến việc né tránh thuế vì
khấu hao cũng là một chi phí có thể được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp;
INVINT được dự đoán là có tương quan âm đến việc né tránh thuế, các công ty có tỷ
trọng hàng tồn kho trên tổng tài sản càng ít thì né tránh thuế càng nhiều bởi vì các
công ty có doanh thu lớn có xu hướng hạch toán thấp giá trị hàng tồn kho trên bảng
cân đối kế toán, công ty sẽ đẩy nhiều chi phí vào kết quả kinh doanh để giảm được
lợi nhuận trước thuế từ đó giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng sử dụng biến kiểm soát MKTBK được tính bằng
giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu chia cho giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu, dự
đoán biến này có tương quan dương với né tránh thuế.
Trong bài nghiên cứu của Grant Richardson và cộng sự (2014), các tác giả còn
sử dụng biến giả ngành công nghiệp (INDSEC), phân ngành theo chuẩn phân ngành
quốc tế GICS. Ở Việt Nam chuẩn GICS chưa được sử dụng đồng đều giữa các sàn
chứng khoán nên bài nghiên cứu không sử dụng biến này. Ngoài ra, biến Công ty có
công ty con nằm trong thiên đường thuế (THAV) cũng không được sử dụng do ở Việt
Nam không thể lấy được dữ liệu này.


16
BẢNG 2: TÓM TẮT CÁC BIẾN SỬ DỤNG TRONG BÀI NGHIÊN CỨU

Ký hiệu
Biến
phụ
thuộc

CASHETR


Tên biến

Cách tính

Tỷ lệ thuế hiệu dụng

thuế thu nhập doanh nghiệp
phải trả/lợi nhuận kế toán
trước thuế
1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 +
0.64X4 + 0.999X5
X1: vốn luân chuyển chia cho tổng tài
sản

Z-CORE

Kiệt quệ tài chính

X2: lợi nhuận giữ lại chia cho tổng tài
sản
X3: lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia
cho tổng tài sản
X4: giá trị thị trường của vốn chủ sở
hữu chia cho giá trị sổ sách của nợ

Biến
độc lập

Biến
kiểm

soát

X5: doanh thu chia cho tổng tài sản

GFC

Khủng hoảng tài chính

Biến giả: gán là 1 nếu quan sát
trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính (năm 2008) và bằng
0 trong những trường hợp
khác

GFC*ZCORE

GFC*Z-CORE

Biến GFC*Z-CORE

FAGE

Độ tuổi công ty

Tuổi công ty từ năm thành lập
đến năm 2016

SIZE

Quy mô công ty


Logarit tự nhiên của tổng tài
sản

LEV

Đòn bẩy tài chính

Nợ dài hạn trên tổng tài sản


17

CINT

Mức độ vốn

Tài sản hữu hình trên tổng tài
sản

RDINT

Mức độ R&D

Logarit tự nhiên của chêch
lệch tài sản cố định vô hình

INVINT

Mức độ tồn kho


Hàng tồn kho trên tổng tài sản

MKTBK

Tỷ số giá thị trường
trên giá trị sổ sách của
vốn chủ sở hữu

Giá trị thị trường của vốn chủ
sở hữu chia cho giá trị sổ sách
của vốn chủ sở hữu

3.2.4 Mô hình
Bài nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và né tránh thuế
trên mô hình 1:
CASHETR

= α0it + β1Z-CORE + β2FAGEit + β3SIZEit + β4LEVit + β5CINTit +

it

β6RDINTit + β7INVINTit + β8MKTBKit + Ɛit
Sau đó mở rộng để xem xét mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính, khủng hoảng
tài chính và né tránh thuế trên mô hình 2:
CASHETR

it

= α0it + β1Z-CORE + β2GFCit + β3GFC*Z-COREit + β4FAGEit +

β5SIZEit + β6LEVit + β7CINTit + β8RDINTit + β9INVINTit +
β10MKTBKit + Ɛit

Trong đó:
i: là công ty, nhận giá trị từ 1 đến 337 và t là năm tài chính, nhận giá trị từ 2008
đến 2016
Ɛ: sai số thống kê


18

3.3. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng kết hợp phân tích mô tả cũng như phân tích định lượng.
Thực hiện phân tích mô tả các biến để hiểu và nghiên cứu rõ từng biến, tiếp theo sử
dụng phân tích tương quan để xem xét mối quan hệ giữa các biến với nhau, dự báo
chiều và ảnh hưởng tác động của các biến. Sau cùng sử dụng phương pháp hồi quy
định lượng đối với dữ liệu bảng bằng mô hình hồi quy tác động cố định, mô hình hồi
quy tác động ngẫu nhiên và OLS gộp.

3.3.1. Mô hình tác động cố định (Fixed effects model)
Mô hình hồi quy tác động cố định, là một dạng mở rộng của mô hình hồi quy
tuyến tính cổ điển mà sai số của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển được tách làm
hai thành phần: các yếu tố không quan sát được khác nhau giữa các đối tượng nhưng
không thay đổi theo thời gian và những yếu tố không quan sát được khác nhau giữa
các đối tượng và thay đổi theo thời gian. Hai phương pháp ước lượng thường được
sử dụng là: Ước lượng hồi quy biến giả tối thiểu LSDV và uớc lượng tác động cố
định (Fixed effects estimator).

3.3.2. Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random effects model)
Trong mô hình tác động ngẫu nhiên sai số của mô hình hồi quy tuyến tính cổ

điển được chia làm 2 thành phần: yếu tố không quan sát được khác nhau giữa các đối
tượng nhưng không thay đổi theo thời gian và những yếu tố không quan sát được
khác nhau giữa các đối tượng và thay đổi theo thời gian. Phần yếu tố không quan sát
được khác nhau giữa các đối tượng nhưng không thay đổi theo thời gian lại được chia
làm 2 phần: thành phần bất định và thành phần ngẫu nhiên. Phương pháp ước lượng
thường được sử dụng là ước lượng tác động ngẫu nhiên (Random effects estimator).

3.3.3. Trình tự nghiên cứu
Trình tự các bước nghiên cứu thực hiện trong bài như sau:
 Bước 1: Sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị để kiểm tra tính dừng cho dữ liệu;
 Bước 2: Thống kê mô tả các biến và sử dụng tương quan Pearson để kiểm tra
mối tương quan giữa các biến;
 Bước 3: Lựa chọn phương pháp hồi quy phù hợp.


×