Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Luận văn chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.65 KB, 124 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FDI Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
PCI Provincial Competitiveness Index - Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
VCCI Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam
KTXH Kinh tế xã hội
UBND Ủy ban nhân dân
KCX Khu chế xuất
KCN Khu công nghiệp
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
MNCs Multi National Corporations
VĐK Vốn đăng ký
TP

Thành phố

TNHH Trách nhiệm hữu hạn


Lao động

TW Trung Ương
BOT Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao
BT
OECD

Xây dựng – Chuyển giao


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay đã và đang tạo ra xu


hướng nhất thể hóa các nền kinh tế trên thế giới. Việc Việt Nam ngày
càng khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế cùng với sự
kiện chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) đã tạo ra thời cơ và thách thức cho Việt Nam nói chung và Thành
phố Hà Nội nói riêng trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó,
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng, tạo nguồn
lực bổ sung về vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý và lao
động trình độ cao với tác phong công nghiệp, góp phần tạo việc làm,
nâng cao trình độ phát triển nhiều mặt của đất nước nói chung và của
Thành phố Hà Nội nói riêng.
Kể từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính hoạt động thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài của Thành phố có nhiều vấn đề cần xem xét một
cách toàn diện bởi những nét đặc thù riêng của từng địa phương về tự
nhiên, dân số, các vấn đề kinh tế - xã hội khác nhau, tạo nên sự đa dạng
phong phú về nguồn lực đồng thời là sự cồng kềnh hơn của bộ máy quản
lý nhà nước đòi hỏi Hà Nội nhìn nhận lại những thành tựu và hạn chế
trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của mình để đưa ra giải pháp
tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thành
phố.
Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng với những biến
động của tình hình an ninh – chính trị trên thế giới thời gian gần đây đã
ảnh hưởng không chỉ đối với các nước đang phát triển mà với hầu hết các
nước trên thế giới làm di chuyển dòng vốn giữa các quốc gia. Để đẩy


mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội đòi hỏi
cần có những biện pháp hoàn thiện chính sách thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài một cách phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong những năm qua Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu
đãi, áp dụng nhiều cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào

Hà Nội. Nhưng do cơ chế chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
hiện nay của nước ta còn nhiều bất hợp lý, chưa hấp dẫn và chưa phù hợp
với thông lệ quốc tế, nên điều đó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ thu
hút vốn FDI của Hà Nội. Cụ thể là có những giai đoạn mà dòng vốn FDI
vào Hà Nội đã giảm sút rõ rệt, trong khi nhu cầu vốn FDI cho phát triển
kinh tế - xã hội trong thời gian tới là rất lớn.
Với vị trí là đầu tàu, trung tâm kinh tế và giao dịch quốc tế, Hà Nội
đặt mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế, kiểm soát lạm phát, đi đôi với đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng, bảo đảm kinh tế phát triển bền vững. Hà Nội
cũng sẽ phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới theo hướng đồng bộ,
văn minh và hiện đại, phấn đấu để Hà Nội là địa phương đi đầu và về
đích sớm 1 đến 2 năm trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; đóng góp ngày
càng quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để
đạt được mục tiêu đó đòi hỏi Chính phủ phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế
chính sách thu hút FDI ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Với
mong muốn góp phần vào việc giải quyết vấn đề có ý nghĩa quan trọng
thiết thực và mang tính cấp bách này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “chính
sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn
Thành phố Hà Nội hiện nay.” Để làm luận văn tốt nghiệp của mình.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang đóng vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói
riêng. Do đó, chủ đề này đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học trong nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
hướng nghiên cứu của đề tài. Một số công trình tiêu biểu đó là:
+ “FDI vào ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội”(2006), luận

văn thạc sĩ của học viên Trần Văn Lưu, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh. Nghiên cứu này chủ yếu đi sâu phân tích đánh giá thực trạng
thu hút và sử dụng FDI vào ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
+ “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng
phát triển bền vững” (2008), luận văn thạc sĩ của học viên Trần Thị
Tuyết Lan, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này tập
trung đánh giá thực trạng thu hút FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng bền
vững nhằm chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu và đề xuất giải pháp nhằm
đẩy mạnh thu hút FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng bền vững.
+ “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế - xã
hội ở Thành phố Đà Nẵng”(2006), luận văn Thạc sĩ của học viên
Nguyễn Văn Chiến, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên
cứu này đã đi sâu phân tích những tác động tích cực và hạn chế của FDI
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng, từ đó đưa ra
những giải pháp nâng cao tác động tích cực của FDI đối với phát triển
kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng.
- - “Hoàn thiện thể chế về môi trường kinh doanh của Việt Nam”
(PGS. TS Lê Danh Vĩnh, NXB Chính trị Quốc gia, 2009). Tác giả đã nêu


được thực trạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam, trong đó tập
trung vào các yếu tố phản ánh thể chế môi trường kinh doanh và các tiêu
chí đánh giá mức độ cải thiện thể chế môi trường kinh doanh của các tổ
chức trong nước và quốc tế.
- “Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Thành phố Đà Nẵng” (Phạm Minh Nhựt, Luận văn Thạc sĩ,
2005). Đề tài đã phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút
FDI, từ đó đưa ra các giải pháp hợp lý cải thiện môi trường đầu tư để
thúc đẩy việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- “Thu hút nguồn lực của người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào

phát triển Kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội đến năm 2015 ” (TS Nguyễn
Minh Phong, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, 2009).
Đề tài đã nêu được những tiềm năng các nguồn lực của cộng đồng người
Việt định cư ở nước ngoài. Phân tích những thuận lợi và khó khăn và bài
học kinh nghiệm trong việc thu hút các nguồn lực của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội.
Tuy nhiên số liệu trích dẫn chưa nêu cụ thể thời kỳ nào và một số số liệu
trích dẫn chưa chính xác.
- “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội” (Trương Tuấn Anh, luận
văn Thạc sĩ kinh tế đối ngoại, 2009). Đề tài đã phân tích và đánh giá thực
trạng thu hút FDI vào Hà Nội trong giai đoạn từ khi Đổi mới đến trước
khi Hà Nội mở rộng. Do đó, đề tài chỉ phân tích về môi trường đầu tư
cũng như tình hình thu hút FDI của Hà Nội cũ mà chưa cập nhật các số
liệu của Hà Nội mới.
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã có nhiều đóng
góp quan trọng trong việc lam rõ những vấn đề lý luận về FDI, phân tích


vai trò của FDI, đưa ra những giải pháp chung để đẩy mạnh thu hút FDI
vào nước ta, cũng như một số địa phương trong thời gian tới. Tuy nhiên,
cho đến nay vẫn có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về
chính sách thu hút FDI trên địa bàn Hà Nội một cách hệ thống cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này là quan trọng và
cấp thiết.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách thu hút FDI. Đánh
giá tác động của sách thu hút FDI đến kết quả thu hút FDI vào Thành phố
Hà Nội. Đề xuất những giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách để tăng
cường thu hút FDI ở thủ đô Hà Nội đến năm 2020.

3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn cần tập trung giải quyết
một số nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách thu hút FDI ở Hà Nội
trong thời gian qua; Chỉ ra những thành tựu đạt được cũng như những
tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách thu hút FDI vào Hà Nội đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
và quá trình hoàn thiện chính sách thu hút FDI ở Hà Nội trong thời gian
gần đây.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu chính sách thu hút FDI trên
địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu chính sách thu hút FDI trên địa
bàn thành phố Hà Nội trong thời gian từ 2009 – 2014 và đưa ra những
giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước; Chủ trương, Chính sách
của Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội; là những giá trị về lý luận khoa
học của các công trình nghiên cứu về hoàn thiện chính sách thu hút vốn
FDI .
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là các phương pháp triết học

duy vật biện chứng; cụ thể là các phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh...
6.Những đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận
và thực tiễn của việc hoàn thiện chính sách thu hút FDI ở Việt Nam nói
chung và Hà Nội nói riêng.


- Trên cơ sở phân tích thực trạng chính sách thu hút FDI của Hà Nội,
luận văn đã chỉ ra những thành tựu và hạn chế cần phải hoàn thiện chính
sách thu hút FDI của Hà Nội.
- Luận văn đã đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính
sách nhằm tăng cường thu hút FDI vào Hà Nội đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu như sau: ngoài phần mở đầu, kết luận, tài
liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện chính sách thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương 2. Thực trạng hoàn thiện chính sách thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Hà Nội
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện
chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội đến năm
2020.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.Những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
và chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1.Khái niệm, đặc điểm, bản chất của đầu tư trực tiếp nước

ngoài


Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), FDI được định nghĩa là “một
khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một
nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh
nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là
muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền
kinh tế khác đó”
Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD)
cũng đưa ra một định nghĩa về FDI. Theo đó, FDI là “hoạt động đầu tư
liên quan đến một mối quan hệ lâu dài và phản ánh mối quan tâm dài hạn
cùng với sự kiểm soát bởi một thực thể trong công ty đầu tư(công ty mẹ)
đầu tư vào một tập đoàn kinh tế khác(công ty có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài hay công ty thành viên hoặc công ty nước thành viên). FDI
ngầm định các chủ đầu tư có quyền ảnh hưởng đáng kể trong việc điều
hành quản lý của công ty nhận đầu tư. Hoạt động đầu tư này liên quan
đến các khoản giao dịch ban đầu giữa hai công ty và tất cả các khoản
giao dịch sau đó giữa họ và các thành viên nước ngoài có liên quan(bao
gồm cả thành viên sát nhập và thành viên không sát nhập)”. Như vậy
theo UNCTAD, FDI gồm ba phần: vốn đầu tư ban đầu của doanh
nghiệp, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay nội bộ giữa các công ty
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm:
“Đầu tư trực tiếp nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một
doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh
hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: - Thành lập
hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền
quản lý của chủ đầu tư.
- Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.



- Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
- Cấp tín dụng dài hạn(>5 năm).
Luật đầu tư của Việt Nam ban hành năm 2005 quy định: “Đầu tư
trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư.” “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để
tiến hành hoạt động đầu tư.”
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư
trực tiếp nước ngoài như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình
thức đầu tư quốc tế trong đó nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng
tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để giành quyền kiểm soát
hoặc tham gia kiểm soát hoạt động đầu tư.
* Đặc điểm của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn của các cá
nhân và tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và
làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Xuất phát từ khái niệm chúng ta
có thể rút ra một số đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Một là, các nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối
thiểu vào vốn pháp định, tùy theo quy định của luật đầu tư mỗi nước.
Vốn pháp định trong dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là vốn tự có của
chủ đầu tư được quy định theo luật đầu tư. Sau khi góp vốn hợp lệ, nhà
đầu tư có quyền tham gia vào việc quản lý và điều hành dự án đầu tư.
Hai là, quyền quản lý dự án đầu tư phụ thuộc vào mức độ góp vốn
của mỗi bên. Nếu vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài là 100% thì nhà


đầu tư nước ngoài có toàn quyền quản lý doanh nghiệp.Tuy nhiên việc
hoạt động của doanh nghiệp có vốn góp nước ngoài cho dù dưới bất kì
hình thức nào thì cũng phải tuân theo quy định của nước sở tại.

Ba là, lợi nhuận mà nhà đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào
kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ
góp vốn.
Bốn là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện
thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng
phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cơ phiếu để thôn tính hoặc
xát nhập các doanh nghiệp với nhau
Năm là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền
với việc di chuyển vốn mà còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển
giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, tạo ra thị trường mới cho cả phía
đầu tư và phía nhận đầu tư.
Sáu là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay gắn liền với
các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.Các công
ty mẹ có thể thông qua các công ty con để trực tiếp đầu tư vào các quốc
gia có công ty con đó.
1.1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Về bản chất, hình thức đầu tư thực chất là hình thức tổ chức kinh
doanh mà nhà đầu tư có thể sử dụng để thực hiện các hoạt động đầu tư.
Theo Luật đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn một
trong các hình thức tổ chức kinh doanh sau:
Doanh nghiệp liên doanh


Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture Enterprise) là doanh
nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập thành lập tại Việt
Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài,
hoặc là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp
Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước
ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh.

Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh chỉ chịu
trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định doanh
nghiệp.
Như vậy có thể hiểu doanh nghiệp liên doanh là một hình thức tổ
chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt
giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản
sắc văn hoá; hoạt động trên cơ sở có sự đóng góp của các bên về vốn,
quản lý lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro
có thể xảy ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản
xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu triển khai.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (100% Foreign –
Invested Enterprise) là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
100% vốn, là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do
nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh.


Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành
quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các
điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện
về chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hoá, mức độ cạnh tranh…
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là một
thực thể pháp lý độc lập hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành lập
dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh ( Business Co-operation Contract)
là văn bản được ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư,

kinh doanh, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh
doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
Đặc điểm của hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là:
- Các bên thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ sở ký kết
một hợp đồng hợp tác mà không hình thành một pháp nhân mới tách biệt
với các bên hợp doanh như hình thức doanh nghiệp liên doanh và doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Có sự phân chia kết quả kinh doanh giữa các bên hợp doanh, mỗi
bên được hưởng lợi hay phải chịu lỗ tương ứng theo tỷ lệ vốn góp.
- Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước
sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh
hoạt động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật
nước sở tại. quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hợp doanh được ghi trong
hợp đồng hợp tác kinh doanh.


Đầu tư nước ngoài theo hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT
BOT (xây dựng – kinh doanh - chuyển giao) là một thuật ngữ để
chỉ một số mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện
xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước.
Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc
quyền xây dựng và vận hành một công trình mà thường do chính phủ
thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu
đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển
quyền sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có hợp
đồng BTO (xây dựng – chuyển giao – kinh doanh), hợp đồng BT (xây
dựng – chuyển giao).
Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài
với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình)

và kinh doanh trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi
nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho
nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng
xây dựng chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT
nhưng có điểm khác là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong
công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và
được Chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó
hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu
tư và có lợi nhuận thoả đáng về công trình đã xây dựng và chuyển giao.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu
tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước


chủ nhà thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với
vốn đầu tư đã bỏ ra và một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý.
Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đồng BOT, BTO, BT
mặc dù hợp đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đồng là
các cơ quan quản lý nhà nước ở nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn
các doanh nghiệp FDI khác, chủ yếu áp dụng cho các dự án phát triển cơ
sở hạ tầng; được hưởng các ưu đãi đầu tư cao hơn so với các hình thức
đầu tư khác và điểm đặc biệt là khi hết hạn hoạt đồng, phải chuyển giao
không bồi hoàn công trình cơ sở hạ tầng đã được xây dựng và khai thác
cho nước sở tại.
Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company)
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lý
được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển.
Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty

khác ở mức đủ để kiểm soát hoạt động quản lý và điều hành công ty đó
thông qua việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hội đồng quản
trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và
chỉ giới hạn hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến
lược và giám sát hoạt động quản lý của các công ty con. Các công ty con
vẫn duy trì quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của mình một cách
độc lập, tạo rất nhiều thuận lợi:


- Cho phép các nhà đầu tư huy động vốn để triển khai nhiều dự án
đầu tư khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và
hỗ trợ các công ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiêu thụ hàng hoá, điều
tiết chi phí thu nhập và các nghiệp vụ tài chính.
- Quản lý các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một
thể thống nhất và chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch
chiến lược điều phối các hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.
- Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh
mục đầu tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư
cho các công ty con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
- Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ,
quan hệ đối ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát
triển (R&D)…
Hình thức công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với
số lượng tối đa không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ
đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là nó có quyền phát hành

chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác.
Về mặt cơ cấu tổ chức: công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông,
hội đồng quản trị và giám đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới,
cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phiếu thường có
quyền tham gia giám sát quản lý hoạt động của công ty cổ phần. Đại hội


cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết là cơ quan quyết định
cao nhất của công ty cổ phần.
Ở một số nước khác, công ty cổ phần có vốn đầu nước ngoài được
thành lập theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI
(doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang
hoạt động, mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước cổ phần hoá.
Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn
nước ngoài ở chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập
trong khi công ty con thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của
công ty con thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong
khi trách nhiệm của chi nhánh theo quy định của một số nước, không chỉ
giới hạn trong phạm vi tài sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến
cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài.
Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các
khoản chi phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ
tại nước ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi
phí quản lý của công ty mẹ ở nước ngoài vào phần thu nhập chịu thuế ở
nước sở tại.
Hình thức công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên
hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.

Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín
nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty


hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Các thành
viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý
công ty, còn thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ
quy định tại điều lệ công ty nhưng không được tham gia quản lý công ty
và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty.
Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A)
Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh
nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh
nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài)
mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này
không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các công ty xuyên quốc
gia (TNCs) lớn và tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp ô tô, dược phẩm,
viễn thông, tài chính, ngân hàng, chứng khoán ở các nước phát triển. Trong
tương lai các thương vụ M & A sẽ ngày càng tăng cả về số lượng, hình thức
và giá trị.
1.1.1.3.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đối với nước đi đầu tư:
Đứng trên góc độ quốc gia:
Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là cách để các quốc gia có thể
mở rộng và nâng cao quan hệ hợp tác về nhiều mặt đối với các quốc gia
khác mà mình sẽ đầu tư. Khi một nước đầu tư sang nước khác một mặt
hàng thì nước đó thường có những ưu thế nhất định về mặt hàng như về
chất lượng, năng suất và giá cả cùng với chính sách hướng xuất khẩu của

nước này; thêm vào đó là sự có một sự sẵn sàng hợp tác chấp nhận sự


đầu tư đó của nước sở tại cùng với những nguồn lực thích hợp cho sản
phẩm đó. Mặt khác, khi đầu tư FDI nước đi đầu tư có rất nhiều có lợi về
kinh tế cũng như chính trị.
Thứ nhất, quan hệ hợp tác với nước sở tại được tăng cường và vị thế của
nước đi đầu tư được nâng lên trên trường quốc tế.
Thứ hai, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, khi trong nước sản
phẩm đang thừa mà nước sở tại lại thiếu.
Thứ ba, giải quyết công ăn việc làm cho một số lao động, vì khi đầu tư
sang nước khác, thì nước đó phải cần có những người hướng dẫn, hay
còn gọi là các chuyên gia trong lĩnh vực này. Đồng thời tránh được việc
phải khai thác các nguồn lực trong nước, như tài nguyên thiên nhiên hay
ô nhiễm môi trường.
Thứ tư, đó là vấn đề chính trị, các nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng
những kẻ hở của pháp luật, sự yếu kém về quản lý hay sự ưu đãi của
Chính phủ nước sở tại sẽ có những mục đích khác như làm gián điệp.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp:
Mục đích của doanh nghiệp cũng như mục đích của một quốc gia thường
là lợi nhuận, lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Một khi trong nước hay các
thị trường quen thuộc bị tràn ngập những sản phẩm của họ và sản phẩm
cùng loại của đối thủ cạnh tranh thì họ phải đầu tư ra nước khác để tiêu
thụ số sản phẩm đó. Trong khi đầu tư ra nước ngoài, họ chắc chắn sẽ tìm
thấy ở nước sở tại những lợi thế so sánh so với thị trường cũ như lao
động rẻ hay tài nguyên chưa bị khai thác nhiều.
Một nguyên nhân nữa là họ có thể bán được những máy móc và công
nghệ cũ kỹ lạc hậu hay bị hao mòn vô hình do thời gian với giá cao



nhưng lại là mới đối với nước nhận đầu tư (khi nước đầu tư là nước đang
phát triển).
Thêm vào đó, là sản phẩm của họ được bán tại thị trường này sẽ ngày
càng tăng uy tín và tiếng tăm cho nó và làm tăng sức cạnh tranh đối với
các đối thủ có sản phẩm cùng loại.
Đối với nước nhận đầu tư:
Những mối lợi:
- Chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển giao nguồn
lực): Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản xuất
chưa được phát huy kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc
tiếp thu được một nguồn vốn lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất
và cải tiến chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý chặt chẽ là một điều hết
sức cần thiết.
Như ta đã biết thì công nghệ chính là trung tâm của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá một đất nước đang phát triển như nước ta.
Chúng ta cần có vốn và công nghệ để có thể thực hiện được nó. Khi đầu
tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ được du nhập vào trong đó có cả một số
công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, các chuyên gia
cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công
nghệ này, do vậy các cán bộ bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ.
Trên thực tế có nhiều mức độ phụ thuộc khác nhau vào nguồn FDI ở các
nước đang phát triển. Từ năm 1973, khi có nhiều nước chuyển sang đi
vay các nước khác, những luồng vốn chảy vào đó đã góp phần quan
trọng cho việc hình thành vốn của một vài nước đang phát triển. Giữa
năm 1979 và năm 1981, luồng vốn đầu tư trực tiếp chiếm khoảng 25%


trong tổng số vốn cố định được đầu tư của Singapore; 11% ở Malaixia;
gần 5% ở Chile và Philipines; khoảng 15% tại Brazil, Indonesia, Mehico,
còn ở Hàn Quốc, Ấn Độ và Nigeria không đáng kể. Tuy nhiên, những

con số này chưa phản ánh đủ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc sở
hữu nước ngoài vào tổng số vốn được đầu tư. Lợi nhuận tái đầu tư đã
không được kể đến ở một số nước đang phát triển; ngoài ra, quĩ khấu hao
của các doanh nghiệp FDI đã trang trải cho một phần cơ bản của các
khoản chi tiêu trong tổng số vốn của các nước này, mà lại không đưa vào
định nghĩa FDI.
Có những khác biệt lớn giữa các nước về mức độ thay thế của FDI cho
các luồng vốn nước ngoài khác, do những khác biệt trong cơ cấu kinh tế
có những tác động đến sức hấp dẫn của đất nước đối với các nhà đầu tư,
cũng như những khác biệt trong các yếu tố kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải có
các luồng vốn chảy vào. Các nước có thị trường nhỏ bé, ít các nguồn lực
tự nhiên, kết cấu hạ tầng yếu kém và ít khả năng xuất khẩu hàng công
nghiệp thì ít có khả năng thu hút các nguồn FDI lớn, ngay cả khi có
những qui chế tự do và những ưu đãi hào phóng. Về cơ bản, các nước đó
nói chung cũng không có khả năng vay nợ theo các điều kiện thương mại
thông thường, và chủ yếu dựa vào kết quả ưu đãi. Kết quả là những khả
năng thay thế giữa tín dụng thương mại nước ngoài và FDI chủ yếu có
liên quan tới các nước lớn, có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, hoặc
có khu vực công nghiệp khá phát triển. Các nước đã có được một số
lượng lớn các nguồn FDI nói chung cũng sẽ dễ tác động hơn tới cơ cấu
tương lai của nguồn vốn, bởi vì họ cũng có thể tác động tới hoạt động
FDI thông qua cơ cấu tài chính của các chi nhánh hiện hữu thuộc các
công ty nước ngoài, và cụ thể là tới số lượng vay từ các nguồn trong


nước và các nguồn khác ở nước ngoài. Nhưng so với vay nước ngoài,
FDI có xu hướng tập trung nhiều hơn tại một số ít nước.
Những nguyên nhân kinh tế vĩ mô của các luồng vốn vào cũng có thể ảnh
hưởng lớn tới mức độ thay thế giữa FDI và tín dụng thương mại với tư
cách là nguồn vốn nước ngoài. Tại các nước có các thị trường vốn phát

triển, các nguồn gốc mất cân bằng kinh tế vĩ mô riêng lẻ có thể chỉ có tác
động hạn chế tới cơ cấu luồng vốn vào. Tuy nhiên, phần lớn các nước
đang phát triển đều có các thị trường vốn trong nước phân tán, và đối với
các nước này, những nguyên nhân làm cho luồng vốn chảy vào có ý
nghĩa lớn hơn. Có ba loại yếu tố khiến cần thiết phải có các luồng vốn
chảy vào ngày càng nhiều, thể hiện khả năng thay thế khác nhau giữa
FDI và vay nước ngoài.
Thứ nhất là, tổng cầu có thể tăng lên tương đối so với tổng cung do chỉ
tiêu tăng thêm vào các dự án đầu tư mà chúng được coi là có khả năng
thành công về mặt tài chính. Nếu hoạt động đầu tư ấy diễn ra trong khu
vực tư nhân thì khả năng thay thế sẽ cao, miễn là các qui định về thuế
khoá và qui chế tỏ ra thích hợp đối với FDI. Nếu hoạt động đầu tư ấy
được thực hiện chủ yếu bởi các doanh nghiệp nhà nước, thì tại nhiều
nước, khả năng thay thế sẽ thấp do các hàng rào thể chế ngăn cản hoạt
động FDI. Tuy nhiên, vẫn có khả năng lớn cho sự tham gia cổ phần của
nước ngoài thông qua những thoả thuận đầu tư liên doanh với các doanh
nghiệp nhà nước thích hợp, với điều kiện những hình thức này là phù
hợp với phương hướng phát triển chung của nước nhận đầu tư. Những
thoả thuận như vậy là phổ biến trong ngành thăm dò và khai thác khoáng
sản, một ngành có nhiều rủi ro với vốn cổ phần nước ngoài hoạt động
liên kết với các công ty nhà nước, nhưng chúng còn được thấy rõ trong
nhiều khu vực khác nữa. Brazil đã khuyến khích hoạt động đầu tư liên


doanh, bao gồm sự kết hợp của nhà nước với vốn cổ phần tư nhân trong
nước cũng như nước ngoài, đặc biệt là trong ngành công nghiệp hoá dầu.
Kinh nghiệm của Trung Quốc, một nước hiện nay đang sử dụng nguồn
FDI nhiều hơn so với hình thức vay tín dụng thương mại nước ngoài, cho
thấy rằng hệ thống doanh nghiệp nhà nước không nên cản trở sự thay thế
giữa các hình thức khác nhau của vốn nước ngoài. Một biện pháp chính

để thường xuyên thay thế đó là việc đưa ra những bảo đảm của nhà nước
đối với các khoản vay do các doanh nghiệp nhà nước vay của ngân hàng
thương mại nước ngoài. Điều này làm giảm bớt chi phí vay tín dụng
thương mại cho doanh nghiệp, vì nhà nước gánh chịu một phần sự rủi ro
của người cho vay, do vậy, nó trở nên tương đối hấp dẫn hơn đối với các
doanh nghiệp nhà nước, nếu so với hình thức tham gia cổ phần của phía
nước ngoài.
Thứ hai là, tổng cầu có thể tăng lên tương đối so với tổng cung, do chi
tiêu nhiều hơn cho tiêu dùng hoặc cho các dự án đầu tư được coi như
không khả thi về tài chính (bao gồm các dự án về kết cấu hạ tầng có thể
đưa lại lợi nhuận kinh tế nói chung cao hơn, nhưng lại không tạo ra một
nguồn thu trực tiếp nào). Sự vượt quá của nhu cầu như vậy thường xảy ra
ở dưới dạng những thâm hụt lớn về tài chính, ví dụ như chi tiêu nhà nước
vào các khoản trợ cấp, các khoản trả lương cao hơn hoặc sự mở rộng kết
cấu hạ tầng xã hội. Trong trường hợp này, FDI khó có thể thay thế việc
Chính phủ hoặc ngân hàng TW đi vay nước ngoài. Sẽ không có những dự
án đầu tư bổ xung có khả năng thu hút các nhà đầu tư trực tiếp. Về
nguyên tắc, khoản vay mượn cao hơn ở trong nước do Chính phủ thực
hiện sẽ làm tăng mức lãi suất ở trong nước và dẫn tới các luồng vốn chảy
vào hoặc đầu tư trực tiếp lớn hơn. Tuy nhiên, trong thực tế, những ảnh
hưởng gián tiếp đó tới các luồng vốn nước ngoài là có hạn, bởi vì ở nhiều


nước đang phát triển, thị trường vốn bị phân tán và không có các chính
sách linh hoạt.
Cuối cùng, một phần vốn vay nước ngoài của các nước đang phát triển
thường không dùng để trang trải cho sự gia tăng trong tổng chi phí quốc
nội mà để bù vào luồng vốn chảy ra của tư nhân. Khả năng thay thế sự
vay mượn đó bằng đầu tư trực tiếp là thấp, đặc biệt là do chính sách tỷ
giá hối đoái và lãi suất không thích hợp. Những chính sách này thường

gây ra sự thất thoát vốn, và như vậy cũng thường không thúc đẩy được
hoạt động FDI.
Do đó, mức độ thay thế vay nước ngoài bằng FDI trong thập kỷ vừa qua
của các nước đang phát triển có lẽ phụ thuộc vào cách thức sử dụng
khoản vay mượn đó. Phần lớn số vốn vay sau hai lần tăng đột biến giá
dầu lửa là nhằm hỗ trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán ngắn hạn. Đối
với khoản vay đó, khả năng thay thế là rất thấp. Tuy nhiên, phạm vi
chuyển dịch giữa các hình thức vốn vào có lẽ đã tăng lên theo độ dài của
thời kỳ diễn ra sau sự mất cân đối đối ngoại ban đầu. Về vấn đề này,
bằng chứng nêu ra trên tờ Triển vọng Kinh tế Thế giới 1983 về nguồn
vốn đã cho thấy rằng, đối với hầu hết các nước vay mượn lớn nhất trong
số các nước đang phát triển không sản xuất dầu lửa, sự gia tăng nợ nước
ngoài trong thập kỷ vừa qua đã gắn liền với mức đầu tư cao hơn và phần
lớn không sử dụng vào việc chi cho tiêu dùng. Tuy nhiên, một bộ phận
đầu tư lớn cần được dành cho các dự án về kết cấu hạ tầng, nhưng chúng
không thu hút được FDI.
Những hoạt động chuyển giao công nghệ (bao gồm cả năng lực quản lý
và marketing) khó đo lường hơn so với các luồng chảy vào, nhưng phần
lớn chuyển giao đã diễn ra ở công ty mẹ ở nước ngoài và các chi nhánh
của chúng. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tầm quan trọng của các hoạt


động chuyển giao công nghệ trong nội bộ các công ty như thế tuỳ thuộc
vào những chuyển giao từ các phía khác nhau. Tại Hàn Quốc là nơi FDI
được điều chỉnh và hướng vào các khu riêng biệt, gần 3/4 số hợp đồng
cấp giấy phép sản xuất của nước ký kết; tuy nhiên, ở Singapore là nơi có
tương đối ít những hạn chế về đầu tư trực tiếp, hầu hết các hợp đồng cấp
giấy phép sản xuất đã được ký kết bởi các công ty có ít nhất một phần
thuộc quyền sở hữu nước ngoài. Trong các ngành sử dụng kỹ thuật mới
hoặc kỹ thuật đặc thù của doanh nghiệp (như các ngành điện tử), đa số

các hoạt động chuyển giao diễn ra giữa các công ty mẹ và chi nhánh
thuộc quyền sở hữu hoàn toàn hoặc sở hữu một phần lớn của công ty mẹ;
do có sự lo lắng tới việc duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với kỹ thuật
công nghệ có liên quan. Tuy nhiên, trong nhiều ngành khác, các hoạt
động chuyển giao công nghệ diễn ra thông qua các hợp đồng cấp giấy
phép sản xuất khác nhau đã tăng lên nhanh hơn so với sự chuyển giao
công nghệ thông qua FDI.
- Các nhà đầu tư gánh chịu rủi ro: Đầu tư trực tiếp khác với đầu tư gián
tiếp là nhà đầu tư phải tự đứng ra quản lý đồng vốn của mình, tự chịu
trách nhiệm trước những quyết định đầu tư của mình, do vậy độ rủi ro
cao hơn so với đầu tư gián tiếp. Các nước nhận đầu tư trực tiếp do vậy
cũng không phải lo trả nợ hay như đầu tư gián tiếp theo mức lãi suất nào
đó hay phải chịu trách nhiệm trước sự phá sản hay giải thể của nhà đầu tư
nước ngoài.
- Tăng năng suất và thu nhập quốc dân; cạnh tranh hơn, hiệu quả kinh tế
hơn: Do có công nghệ cùng với trình độ quản lý được nâng lên nên đối
với các ngành sản xuất thì việc tăng năng suất là điều tất yếu. Không
những thế những công nghệ này còn cho ra những sản phẩm có chất
lượng cao hơn, tính năng đa dạng hơn, bền hơn và với những mẫu mã đa


×