Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Nhu cầu làm thêm của sinh viên thành phố hà nội hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.84 KB, 39 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Theo báo cáo Phát triển Thế giới năm 2013 Tại các nước đang phát
triển thì việc là trở thành “nền tảng căn bản cho sự phát triển”, việc làm đem
lại nhiều lợi ích to lớn hơn nhiều so với thu nhập đơn thuần, việc làm có vai
trò quan tròn trong quá trình giảm nghèo, giúp các thành phố vận hành và
giúp lớp trẻ tránh được bạo lực, báo cáo mới của Ngân Hàng Thế giới nhận
định. Tuy nhiên thực trạng việc làm ở Việt Nam cho thấy tỉ lệ thất nghiệp còn
tương đối cao. Ước tính tới cuối thàng 12/ 2014, tỷ lệ thất nghiệp của lao
động trong độ tuổi năm 2014 là 2.08%. Như vật so với nhiều nước trên thế
giới thì tỉ lệ này còn tương đối cao. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15
đến 24 tuổi) năm 2014 là 6.3%, cao hơn so với năm 2013, như vậy tỉ lệ thất
nghiệp ở thanh niên có xu hướng tăng, khu vực thành thị là 11, 49% cao hơn
mức 11.12% của năm trước, khu vực nông thôn là 4.63%, xấp xỉ năm 2013.
Mặc dù việc làm có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, tuy
nhiên ở nước ta vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa có việc làm, và lại chủ
yếu tập trung ở lớp thanh niên do đây là giai đoạn chu yển giao từ giai đoạn
học sinh sang giai đoạn bắt đầu trưởng thành, ở giai đoạn này thường có
những biến động chính vì thế mà thanh niên chưa tìm được cho mình một
công việc ổn đinh cho nên tỉ lệ thất nghiệp khá cao. Sinh viên cũng nằm tron
độ tuổi thanh niên, bên cạnh việc tham gia học tập và các hoạt động thì sinh
viên cũng muốn tìm cho mình một công việc để có thể tiết kiệm thời gian
rảnh rỗi.
Hơn nữa, giá cả các mặt hàng tăng lên khiến đời sống của sinh viên đặc
biệt là sinh viên ở nông thôn trở nên khó khăn hơn. Để vẫn có thể học tập
được và duy trì những thói quen sinh hoạt hằng ngày thì sinh viên đã đi làm
thêm để kiếm thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống của mình.s

1




Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khuyến khích học sinh, sinh viên phải kết
hợp giữa việc học với việc thực hành. Vì vậy ngoài học tập lý thuyết thì
ngành nghề nào cũng cần phải có sự thực hành, ngoài việc được dạy chuyên
môn, nghiệp vụ trong nhà trường thì việc sinh viên tích lũy kinh nghiệm qua
thực tiễn trải nghiệm cuộc sống cũng ngày càng được chú trọng hơn. Hơn
nữa, đi làm thêm ít nhiều còn thể hiện sự tự lập của sinh viên. Ở nhiều nước
trên thế giới, sinh viên khi đã vào Đại học là sống hoàn toàn tự lập, sinh viên
ra ở riêng với gia đình và tự lập về mọi mặt, điều này giúp cho sinh viên dễ
thích nghi với cuộc sống hơn. Sinh viên tự lo cho cuộc sống của bản thân mà
không làm phiền đến cha mẹ. Sự tự lập của sinh viên ở những nước này giúp
sinh viên trưởng thành hơn trong cuộc sống, tuy nhiên điều này chỉ có thể xảy
ra phổ biến ở những nước phát triển như Mỹ, Anh… Còn ở Việt Nam, sinh
viên cũng có nhu cầu sống tự lập, cũng muốn đi làm thêm nhưng ròa cản kinh
tế nói chung khiến sinh viên không có điều kiện thực hiện. Không chỉ sinh
viên mà còn rất nhiều người lao động chưa có việc làm. Nhà nước chưa có
nhiều những chính sách hỗ trợ việc làm nói chung đến từng đối tượng.
Hơn nữa, ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật thì đòi
hỏi một lực lượng lao động phải có thay nghề cao, người sử dụng lao động
ngày càng đòi hỏi lao động có trình độ cao, vì vậy sinh viên muốn có được
công việc như ý muốn của mình với một mức lương phù hợp thì phải đáp ứng
được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Nhưng thực tế lại cho thấy, đa số sinh viên
chưa có nhiều kinh nghiệm để đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Vì
vậy nhu cầu vẫn chỉ dừng lại ở nhu cầu mà chưa thể đi vào thực hiện.
Xuất phát từ những lý do trên, nhằm cung cấp dữ liệu cho những
nghiên cứu để bổ sung các chính sách về việc làm, tác giả đã quyết định lực
chọn đề tài : “Nhu cầu làm thêm của sinh viên Thành phố Hà Nội hiện
nay”


2


2
1

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Tình hình nghiên cứu việc làm thêm nói chung.
Trong một xã hội đang hướng đến một nền công nghiệp nói chung thì
việc tiết kiệm tối đa vốn cá nhân đang ngày được phát huy. Không chỉ dừng
lại ở thời gian làm giờ hành chính mà còn tận dụng các khoảng thời gian rảnh
rỗi khác để tạo ra thu nhập cho bản thân.
Theo báo cáo của Công đoàn bộ khao học và công nghệ với tiêu đề: Kéo
dài giờ làm thêm – bước lùi khi sửa luật lao động” cho biết có 95% số lao động
khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cho biết họ
có làm thêm giờ, số giờ làm việc trung bình mỗi ngày 1.5 lần, có doanh nghiệp
làm thêm tới 600h/1 năm, vượt mức quy định tới 3 lần. Chủ yếu lý do khiên
người lao động phải làm thêm giờ là do lương thấp, không đủ chi tiêu cho cuộc
sống hàng ngày. Chính vì vậy mà người lao động phải làm thêm giờ.
Năm 2010, số liêu do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản công bố
cho thấy, có 56% người lao động Nhật trong độ tuổi từ 15 đến 34 tuổi cần một
dạng thu nhập khác ngoài mức lương chính để trang trải cho cuộc sống. Có
tới gần 90% cho biết lý do họ chấp nhận đi làm thêm giờ là muốn có thêm thu
nhập.

2

Tình hình nghiên cứu việc làm thêm.
Đề tài khóa luận “Thực trạng làm thêm của sinh viên trên địa bàn Hà
Nội hiện nay” của Nguyễn Thị Tâm Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã mô

phỏng thực trạng làm thêm của sinh viên và những yếu tố tác động đến viện
làm thêm của sinh viên, từ đó đề tài đề xuất một số khuyến nghị đối với nhà
trường và đối với sinh viên và đối với cả xã hội nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất cho sinh viên khi đi làm thêm.
Đề tài khảo sát: “thực trạng làm thêm của sinh viên Đại học Tây
Nguyên” của nhóm sinh viên trường Đại học Tây Nguyên đã chỉ ra rằng có
hai lý do chính khiến sinh viên làm thêm đó để kiếm tiền và để rèn luyện bản
thân. Số liệu điều tra cỉa khảo sát cho thấy có tới 78.4% số sinh viên muốn

3


làm thêm để kiếm tiền tự trang trải cuộc sống, vừa để rèn luyện bản thân,
trong đó thì gia sư là công việc được nhiều bạn sinh viên chọn nhất. Nghiên
cứu cũng chỉ rõ rằng sinh viên tìm việc chủ yếu thông qua sự giới thiệu của
bạn bè (chiếm 44%), thông qua nhà trường chỉ có 8%.
Đề tài: “Nhu cầu làm thêm của sinh viên trường Đại học Ngoại ngữ Đại học quốc gia Hà Nội: Thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Xuân Long
chỉ ra rằng có tới 35.4% sinh viên cho rằng làm thêm là rất cần thiết, có tới
64.2% cho rằng làm thêm là cần thiết.Đề tài cũng chỉ rõ lý do sinh viên đi làm
thêm, lý do chiếm tỉ lệ cao nhất là để rèn luyện chuyên môn, nghiệp vụ chiếm
33.3%, tiếp theo là lý do tăng thêm thu nhập chiếm 31.3%. Đồng thời, đề tài
cũng chỉ ra công việc mà sinh viên đang làm nhiều nhất đó là gia sư, công
viêc này chiếm tới 65.1%.
Bên cạnh đó đề tài: “Nữ sinh với việc làm thêm” của Trần Thu Hương,
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn cho thấy nữ sinh đi làm thêm
chiếm tới 61.3%, cao hơn hẳn so với nam sinh. Trong đó công việc chủ yếu
mà nữ sinh làm cũng là gia sư. Sinh viên nữ chọn công việc gia sư bởi vì công
việc này nhàn hạ, nhẹ nhàng, ngoài ra sinh viên làm việc này còn có thể chủ
động sắp xếp thời gian cá nhân chp phù hợp.
Tóm lại, sinh viên làm thêm được quan tâm từ nhiều khía cạnh khác

nhau, được nghiên cứu, được quan tâm từ thực trạng cho tới nhu cầu, được
xem xét dưới góc độ giới,… Các nghiên cứu trước chủ yếu nhằm vào thực
trạng làm thêm của sinh viên, cũng đã có nghiên cứu về nhu cầu làm thêm của
sinh viên nhưng vẫn còn chưa khai thác được hết nhu cầu của sinh viên.
Trong nghiên cứu này, ngoài việc tìm hiểu đầy đủ hơn nhu cầu của sinh viên
thì tác giả còn tập trung phân tics những yếu tố tác động đến nhu cầu làm
thêm của sinh viên, cụ thể đề tài phân tích qua kết quả khảo sát được tại Học
viện Báo chí và Tuyên truyền.

4


3
1

MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu thực trạng và nhu cầu làm thêm của sinh viên Học viện Báo
chí và Tuyên truyền. Từ đó đề xuất một số giải pháp cho các nhà tuyển dụng
để phù hợp với nhu cầu của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

2
1

Nhiệm vụ nghiên cứu.
Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, đồng thời khái quát một số kết

2

quả có liên quan.

Tìm hiểu thực trạng đi làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên

3

truyền hiện nay.
Tìm hiểu nhu cầu và những yếu tố ảnh hưởng đến việc đi làm thêm của sinh

4

viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Đề xuất một số giải pháp cho các nhà tuyển dụng và nhà trường để phù hợp

4
1

với nhu cầu của sinh viên.
ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VỊ NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu làm thêm của sinh viên học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện

3
5
1
-

nay.
Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên học viện báo chí và Tuyên truyền tại Hà Nội.
Phạm vị nghiên cứu
Không gian: Học viện Báo chí và Tuyên truyền – Hà Nội.

Thời gian: Từ 2/3 – 10/5/2015.
GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT
Giả thuyết nghiên cứu.
Sinh viên nữ có nhu cầu đi làm thêm cao hơn sinh viên nam.
Khối ngành có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu làm thêm của sinh viên. Sinh viên

-

theo khối nghiệp vụ có nhu cầu đi làm thêm cao hơn sinh viên khối lý luận.
Đa số sinh viên mong muốn được đi làm thêm những công việc phù hợp với

-

ngành học mà mình đang theo học.
Điều kiện kinh tế của gia đình có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu làm thêm của

2

sinh viên. Những sinh viên xuất thân trong gia đình có điều kiện kinh tế khá
giả có nhu cầu đi làm thêm thấp hơn những sinh viên xuất thân trong gia đình
có điều kiện kinh tế trung bình trở xuống.

5


-

Sinh viên năm thứ tư có khả năng tìm được những công việc phù hợp với

2


chuyên môn hơn những sinh viên năm nhất, năm hai, năm ba.
Khung lý thuyết.
Khung lý thuyết
Môi trường kinh tế - xã hội, chính sách của Nhà nước về việc làm

ệu kiện của SV: Giới tính, ngành học, năm học, thu nhập cá nhân, chi tiêu cá nhân

NhuHVBCTT
cầu đi làm thêm của sinh viên HVBCTT
Hiện trạng làm thêm của sinh viên
+ Loại hình công việc
+ Thời gian làm việc
+ Mức độ, tính chất cv
+ Thu nhập.
+Chính sách đãi ngộ

Đặc điểm và điều kiện của gia đình:
Nơi ở của gia đình, thành phần gia đình, thu nhập của gia đình

Vai trò của nhà trường trong việc kết nối sinh viên với những nhà tuyển dụng

Biến số:
Biến độc lập: Gồm 2 nhóm biến số chính:
Nhóm 1: Đặc điểm và điều kiện của sinh viên: Giới tính, Ngành học,
năm học, thu nhập cá nhân, chi tiêu cá nhân.
Nhóm 2: Đặc điểm và điều kiện của gia đình: Nơi ở của gia đình, thành
phần gia đình, thu nhập của gia đình.

6



Biến phụ thuộc: Nhu cầu làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
● Nhu cầu về loại hình công việc: Công việc lao động chân tay, công
việc lao động trí óc.
● Nhu cầu thời gian làm việc: Thời gian làm việc trung bình 1 tuần,
thời gian làm việc chia theo ngày thường, ngày nghỉ và tất cả các ngày trong
tuần, khung giờ làm việc trong ngày phù hợp.
● Nhu cầu mức độ, tính chất công việc: công việc ổn định hay cồn việc
linh hoạt, tạm thời; công việc yêu thích nhất; yếu tố quan tâm nhận được khi
đi làm thêm.
● Nhu cầu về mức thu nhập: Thu nhập bình quân một tháng nhận được.
● Nhu cầu về chế độ đãi ngộ của các nhà tuyển dụng đối với sinh viên:
những cam kết của nhà tuyển dụng.
Biến trung gian: gồm các biến số chính sau:
● Thực trạng về loại hình công việc: công việc lao đông chân tay hay
lao động trí óc.
●Thực trạng thời gian làm việc: Thời gian làm việc phân theo ngày
thường, hoặc ngày nghỉ.
● Thực trạng mức độ, tính chất công việc: Đang làm bao nhiêu công
việc; đó là những công việc gì; những công việc đó yêu cầu kĩ năng gì; có liên
quan đến chuyên ngành được đào tạo hay không.
● Thực trạng về mức thu nhập: Thu nhập từ việc đi làm thêm là bao
nhiêu.
Biến can thiệp gồm 3 nhóm biến số chính:



Môi trường kinh tế - xã hội

Chính sách của nhà nước về việc làm
Vai trò của nhà trường kết nối sinh viên với các nhà tuyển dụng

6
1

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU.
Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền có mong muốn đi làm thêm hay

2

không?
Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền mong muốn làm thêm những




công việc như thế nào? (thời gian, mức độ, tính chất công việc, loại hình công
việc?)
7


3

Những yếu tố nào ảnh hưởng đến nhu cầu đi làm thêm của sinh viên Học viện

7
1

Báo chí và Tuyên truyền?

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp luận.
Đề tài sử dụng ba lý thuyết xã hội học: Lý thuyết về Nhu cầu, lý thuyết
Hành động xã hội, Lý thuyết Vốn xã hội để tiếp cần và định hướng cho đề tài
nghiên cứu.

2

Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đề tài sử dụng mô hình nghiên cứu xã hội học: định tính – định lượng,
trong đó phương pháp định lượng (Sử dụng bảng hỏi Anket) được sử dụng là
phương pháp nghiên cứu chính, phương pháp nghiên cứu định tính (Phương
pháp phỏng vấn sâu, phương pháp phân tích tài liệu) là phương pháp bổ sung
cho phương pháp định lượng.

1
-

Phương pháp nghiên cứu định tính.
Phương pháp phân tích tài liệu
● Mục đích: nhằm tìm hiểu khái quát những vấn đề liên quan đến việc
làm thêm của sinh viên, đồng thời phát hiện vấn đề mới mà những nhà nghiên
cứu trước đó chưa đề cập tới hoặc là đã đề cập tới nhưng chưa sâu.
● Cách thực hiện: Người nghiên cứu tiến hành thu thập thông tin tại
các trung tâm thư viện như Thư viện Quốc gia, Thư viện Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Đồng thời sử dụng một số kết quả trên các báo, tạp chí giấy và
điện tử.
- Phương pháp Phỏng vấn sâu.
● Mục đích: Nhằm tìm hiểu sâu hơn về thực trạng, nhu cầu, các yếu tổ
ảnh hưởng đến việc làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên

truyền, đồng thời phương pháp này cũng cung cấp thông tin về các chính sách
đãi ngộ của nhà tuyển dụng đối với sinh viên để phù hợp với nhu cầu của sinh
viên.
● Cách thực hiện. Người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu đối với
10 sinh viên trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, phương pháp chọn

8


mẫu đối với 10 trường hợp này là sử dụng phương pháp chọn mẫu trong
2
-

-

nghiên cứu định tính đó là phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
Phương pháp nghiên cứu định lượng
Mục đích: Nhằm thu thập thông tin và thực trạng và nhu cầu đi làm thêm của
sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Cách thực hiện: Nghiên cứu định lượng được tiến hành gồm 2 giai đoạn sau.
● Giai đoạn 1: Chọn khoa để tiến hành nghiên cứu.
Trên cơ sở phân trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền thành hai
khối là khối lý luận và khối nghiệp vụ, đề tài tiếp tục lập danh sách chọn mẫu
bằng cách rút thăm ngẫu nhiên 2 khoa trong tổng số các khoa thuộc khối lý
luận và 2 khoa trong tổng số các khoa thuộc khối nghiệp vụ, kết quả cụ thể
như sau:
♣ Khối nghiệp vụ: Khoa xã hội học và khoa Báo chí.
♣ Khối lý luận: Khoa Triết và Khoa Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
● Giai đoạn 2: Chọn sinh viên để tiến hành nghiên cứu.
Do nhân lực, thời gian có giới hạn cho nên nghiên cứu được tiến hành

trên 200 mẫu chia đều cho các khoa, mỗi khoa nghiên cứu 50 ngẫu nhiên hệ
thống 50 sinh viên.
Phương pháp xử lý số liệu

3

Để xử lý kết quả khảo sát, để tài đã sử dụng các phần mềm thống kê
chuyên ngành sau:
8

Phần mềm SPSS 13.0 để xử lý dữ liệu định lượng
Phần mềm NVIVO 7.0 để xử lý dữ liệu định tính.
MÔ TẢ MẪU NGHIÊN CỨU
Với 200 phiếu anket đạt tiêu chuẩn sử dụng phân tích định lượng, cơ
cấu mẫu cụ thể như sau:
Phân bố mẫu điều tra
Nam
Giới tính
Nữ
Tổng
Khối lý luận
Ngành học
Khối nghiệp vụ
Tổng
Tuổi sinh viên
Năm nhất
Năm hai
Năm ba
9


Số lượng
62
138
200
100
100
200
52
58
47

%
32
68
100
50
50
100
26
29
23.5


9
1
-

Năm tư
43
21.5

Tổng
200
100
Kí túc xá HVBCTT
38
19
Thuê trọ
118
59
Nơi ở hiện tại
Ở với gia đình, người thân
40
20
Nơi ở khác
4
2
Tổng
200
100
Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Ý nghĩa lý luận.
Góp phần bổ sung tài liệu cho những nghiên cứu về thực trạng và nhu cầu làm
thêm của sinh viên. Từ đó khóa luận tạo cơ sở và nguồn dữ liệu cho những

-

nghiên cứu tiếp theo.
Đề tài cung cấp những luận giải khoa học cho việc đánh giá về nhu cầu loại
hình công việc, mức độ, tính chất công việc, chính sách đãi ngộ đối với sinh


2
-

viên.
Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu cung cấp dữ liệu phong phú và đa dạng khi nghiên cứu về

-

việc làm thêm của sinh viên.
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài làm sáng tỏ thực trang, nhu cầu, nguyên nhân đi
làm thêm của sinh viên. Qua đó để xuất một số khuyến nghị đối với nhà
trường, các nhà tuyển dụng để giúp sinh viên kết hợp cân đối giữa việc học và

10

làm thêm một cách hiệu quả nhất.
KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN.
Kết cấu của Đề tài bao gồm các phần sau:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung và kết quả nghiên cứu
Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương II. Thực trạng làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
Chương III: Nhu cầu làm thêm của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
Chương IV. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc làm thêm của sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

10



CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1

THAO TÁC HÓA KHÁI NIỆM
1.1.1 Nhu cầu.
Theo từ điển xã hội học oxford: “nhu cầu” là cái gì đó được coi là cần
thiết, đặc biệt khi nó được coi là thiết yếu cho sự tồn tại của mỗi con người,
một tổ chức hay bất cứ thứ gì khác. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi
trong các khoa học xã hội, với sự chú ý đặc biệt dành cho cái gọi là những
nhu cầu con người. Nhu cầu thường đối lập với muốn, nhu cầu nói đến những
thứ cần thiết, còn muốn thì nói đến những thứ người ta ao ước có. Vì khái
niệm này tự nó giả định rằng nhu cầu cần phải được thỏa mãn nên nó thường
được dẫn ra trong những phát biểu hùng hồn tạo các cuộc tranh luận về chính
trị và chính sách đặc biệt là để hậu thuẫn cho những tuyên bố về sự cần thiết
phải hành động hay can thiệp.
Tuy nhiên, không có gì ngạc nhiên là người ta tranh cãi gay gắt về việc
xác định nhu cầu cơ bản để tồn tại như những nhu cầu sinh lý và vật chất về
ăn, ngủ và ở.

-

Theo từ điển xã hôi học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên: mọi hành vi của con
người đều do sự thúc đẩy của những nhu cầu nào đó. Nhu cầu thể hiện sự lệ
thuộc của một cơ thể sống vào môi trường bên ngoài, thể hiện thành những
ứng xử tìm kiếm khi cơ thể thiếu những điều kiện để tồn tại và phát triển. Từ
đầu thế kỉ này, small (Mỹ) đã thấy những hoạt động tâm lý của các cá nhân
bắt nguồn từ những nhu cầu của nó (về của cải, quyền lực, về sự tán thành của


-

người khác…)
Thỏa mãn được nhu cầu, con người cảm thấy thích thú và hài lòng. Không
thỏa mãn được con người bị hẫng hụt và có thể đi tới những hành vi chống lại
những trở ngại (có thật hay giả định) trong việc tìm kiếm sự thỏa mãn nhu
cầu. Không ít nhà tư tưởng cho rằng một xã hội hạnh phúc chỉ có thể đạt tới
khi nhu cầu của con người được thỏa mãn.

11


-

Về đại thể, người ta chia những nhu cầu của con người thành hai loại cơ bản:
nhu cầu sinh học, nhu cầu văn hóa (cũng được gọi là nhu cầu vật chất và nhu

-

cầu tinh thần). thật ra ở con người rất khó phân biệt hai loại nhu cầu đó.
Mỗi người có nhu cầu riêng, đồng thời toàn xã hội còn có nhu cầu chung. Nhu
cầu xã hội không chỉ là tổng của những nhu cầu cá nhân mà còn bao gồm
những nhu cầu để duy trì và phát triển xã hội với tư cách tổng thể. Sự kết hợp
giữa nhu cầu cá nhân và nhu cầu xã hội đặt ra những vấn đề khó khăn, có khi
gay gắt, nhất là trong tình trạng năng suất lao động, sản phấm xã hội trình
trình độ lao động còn thấp kém. Không thẻ hi sinh nhu cầu cá nhân cho nhu
cầu xã hội, hoặc ngược lại. Vì như vậy cả hai loại nhu cầu đều không được

2
-


đáp ứng đến mức cần thiết.
Việc làm
Dưới góc độ xã hội học thì việc làm là sự biểu thị thực tế các thành viên có
khả năng lao động một mình hay liên kết với thành viên khác của một xã hội
tiến hành một loại lao động xã hội có ích bằng cách đó thỏa mãn những nhu
cầu của mình và đáp ứng nhu cầu nhất định của xã hội. Lao động xã hội có
ích để xác định thế nào là việc làm, thế nào là nghề nghiệp. Vì hiện nay có
việc làm ở quốc gia này bị cấm hoặc chưa được công nhận hoặc thừa nhận thì
thì ở quốc gia khác lại coi đó là một nghề và có đăng kí sổ lao động. và để có
việc làm ổn định con người phải sử dụng công cụ lao động, người lao động
phải có khả năng thực tế. Điều này đảm bảo cho sản phẩm của người lao động

-

tạo ra trong quá trình làm việc đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Có thể thấy, người có việc làm là người làm việc gì đó được trả tiền công, lợi
nhuận, hay được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào
các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập
(Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung về cơ sở giải quyết việc làm ở Việt

-

Nam, nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà Nội, 1997).
Dựa vào khái niệm việc làm và người có việc làm PTS Nguyễn Hữu Dũng và

-

PTS Trần Hữu Trung còn chia việc làm thành việc làm chính và việc làm phụ.
Việc làm chính: là những công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian

hơn so với công việc khác.
12


-

Việc làm phụ: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian sau việc
làm chính.
Mang tính khái quát hơn, tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa về
người có việc làm là: người đang làm một việc gì đó được trả tiền công hoặc
những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tìm lợi ích hay
thay thế thu nhập gia đình. Tuy nhiên cũng cần xem xét người lao động có
việc làm thường xuyên hay không thường xuyên để từ đó đánh giá thu nhập.

3

Việc làm thêm
Trong thời đại nền kinh tế thị trường như ngày nay thì việc tận dụng
triệt để tài sản của cá nhân bao gồm công sức, kinh nghiệm, tri thức và cả thời
gian… là điều rất cần thiết. Hơn nữa sinh viên ngoài thời gian học trên các
giảng đường ra thì sinh viên được coi là nhóm có nhiều thời gian rảnh rỗi
nhất. Chính vì vậy, việc sinh viên tận dụng thời gian rảnh rỗi của mình để
tham gia các hoạt động khác trở nên phổ biến.
Hơn nữa sự gia tăng của giá cả khiến cho đời sống của một bộ phận
sinh viên mà chủ yếu là sinh viên đến từ nông thôn trở nên khó khăn hơn, để
bù đắp vào đó thì sinh viên đã chọn cho mình những công việc làm ngoài giờ
học để có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống cũng như tích lũy kinh
nghiệm cho cá nhân.
“Việc làm thêm” cũng thường có ở những thành phố lớn, những nhà
tuyển dụng thường tuyển nhân viên dưới nhiều hình thức khác nhau từ tính

chất công việc, đặc điểm công việc, nơi làm việc hay cả thời gian làm việc…
Những người ứng tuyển vào đó hoàn toàn có quyền chọn cho bản thân những
công việc phù hợp với một mức lương phù hợp. Như vây, “việc làm thêm” là
một định nghĩa mô tả một công việc không chính thức, không thường xuyên
bên cạnh một công việc ổn định khác, đối với sinh viên thì công việc chính
thức là tham gia học tập, công việc không chính thức là đi làm thêm, đi thực
tập hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác.

4

Sinh viên.
13


Có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm sinh viên, đứng ở mỗi khía
cạnh khác nhau thì các nhà nghiên cứu lại có những khái niệm khác nhau về
sinh viên.
Theo từ điển Tiếng Việt thì sinh viên (sinh viên Việt Nam) là công dân
Việt Nam đang theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng hay Trung cấp
chuyên nghiệp. ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề
chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những
bằng cấp mà họ đạt được trong quá trình học. Quá trình học của họ theo
phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua bậc tiểu học và trung học.
Họ là một nhóm dân số khá lớn với các đặc điểm được xác định rõ vai trò, vị
trí của hệ thống tái sản xuất và phát triển xã hội.
Đối với các nhà nghiên cứu xã hội học, sinh viên có những đặc điểm
sau:
Có đặc điểm riêng trong sự phân tầng và khả năng di động xã hội cao.
Do tính chất hoạt động nghề nghiệp trong tương lai, họ là những người có
nhiều cơ hội thuận lợi hơn để chiếm những địa vị cao trong xã hội nhất là

trong nền kinh tế tri thức.
5

Là nhóm có khả năng thích ứng cao, tiếp thu nhanh các giá trị mới.
Là nhóm xã hội đặc thù về lứa tuổi mà ở lứa tuổi này quá trình xã hội hóa
diễn ra mạnh mẽ so với nhóm thiếu nhi, tiếp thu nhanh các giá trị mới.
Việc làm thêm sinh viên
Đặc điểm của sinh viên cho thấy sinh viên là nhóm có khả năng thích
ứng, nhanh nhạy, luôn năng động trong nhiều hoạt động như việc tham gia
các hoạt động do trường, địa phương, các tổ chức khác tổ chức… ngoài ra
sinh viên còn tham gia các hoạt động tạo thu nhập cho chính bản thân mình.
Việc sinh viên ngoài giờ lên lớp còn tham gia các hoạt động tạo ra thu nhập
cho cá nhân thì đó được gọi là việc làm thêm của sinh viên. Khái niệm “việc
làm thêm của sinh viên” trong nghiên cứu này được hiểu là sinh viên ngoài
giờ học trên lớp còn tranh thủ làm những công việc khác để tạo ra thu nhập.

14


2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
1.2.1 Lý thuyết nhu cầu
Lý thuyết nhu cầu của nhà tâm lý học Maslow (1908 – 1970) là lý
thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc nhận dạng các nhu cầu tự nhiên của con
người nói chung. Nhu cầu là đòi hỏi thường xuyên của mỗi cá nhân, là trạng
thái thấy thiếu thốn ở trong con người. Các nhu cầu của con người một mặt
được tạo ra do những đòi hỏi bên trong cơ thể, mặt khác được tạo ra từ trong
những điều kiện nhất định của xã hội. Theo lý thuyết này, nhu cầu tự nhiên
của con người được chia thành các thang bậc khác nhau từ “đáy” lên tới

“đỉnh”, phản ánh mức độ cơ bản của nó đối với sự tồn tại và phát triển của
con người vừa là một sinh vật tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.

Cấu trúc của Tháp nhu cầu gồm có 5 tầng, trong đó những nhu cầu của
con người được liệt kê theo hình kim tự tháp. Những nhu cầu cơ bản phía đáy
phải được thỏa mãn trước khi nghĩ đến các nhu cầu cao hơn. Các nhu cầu bậc
cao sẽ nảy sinh và mong muốn được thỏa mãn ngày càng mãnh liệt khi tất cả
các nhu cầu cơ bản ở dưới đã được đáp ứng đầy đủ.
5 tầng của thang nhu cầu của Maslow như sau:
15


Tầng thứ nhất: các nhu cầu về căn bản nhất thuộc về “thể lý”: thức ăn,
nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi…
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn: cần có cảm giác yên tâm về an toàn
thân thể, an toàn việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc:
muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn
bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến: cần có cảm giác
được tôn trọng, kính mến, được tin tưởng.
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân: muốn được sáng tạo,
được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được
công nhận là thành đạt.
Trong cuộc sống, mỗi người đều có những nhu cầu khác nhau không ai
giống ai, sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền cũng vậy, mỗi sinh viên
cũng có những nhu cầu khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của
từng người, tuy nhiên nhu cầu nào cũng đều rất quan trọng và cần được đáp
ứng. Khi nhu cầu thấp đã đạt được thì lại có nhu cầu cao hơn. Mỗi sinh viên
luôn tồn tại những nhu cầu khác nhau, đối với một số sinh viên có thể nhu cầu

là được đáp ứng các yêu cầu ở tầng tháp nhu cầu sinh lý, nhưng cũng có
những sinh viên thì nhu cầu lại chính là sự tự thể hiện. Nhưng dù ở tầng nhu
cầu nào đi nữa thì chỉ khi nhu cầu được đáp ứng con người mới cảm thấy hài
lòng. Như vậy, đối với việc sinh viên làm thêm, đối với một số người thì đó là
nhu cầu sinh lý, nhưng đối với một số sinh viên khác thì việc đi làm thêm lại
là sự tự thể hiện bản thân, sinh viên muốn được công nhận họ là những người
tự lập, họ mong muốn được cho rằng bản thân mình là những người thành đạt,
không nương tựa vào ai.
1.2.2 Lý thuyết hành động xã hội.
Lý thuyết xã hội học về hành động xã hội có nguồn gốc từ nhiều nhà
nghiên cứu khác nhau, Weber là một trong những nhà nghiên cứu có công đầu
16


xây dựng lý thuyết xã hội học về hành động xã hội. Quan niệm của Weber cho
thấy hành động xã hội là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Ông đã chỉ ra
sự khác nhau giữa hành động xã hội và và những hành vi và những hoạt động
khác của con người. Hành động xã hội được ông tổng quát định nghĩa là hành
động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành động có
tính đến hành vi của người khác, và vì vậy được định hướng tới người khác
trong đường lối và quá trình của nó. Theo Weber, ông phân loại thành 4 loại
hành động sau đây:
Hành động duy lý – công cụ: là hành động được thực hiện với sự cân
nhắc, tính toán, lực chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiểu quả
nhất.
Hành động duy lý giá trị: là hành động được thực hiện vì bản thân
hành động (mục đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm vào
những mục đích phi lý nhưng lạ được thực hiện bằng những công cụ, phương
tiện duy lý.
Hành động cảm tính: là hành động do các trạng thái xúc cảm hoặc

tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối
quan hệ giữa công cụ phương tiện và mục đích hành động.
Hành động theo truyền thống: là loại hành động tuân thủ những thói
quen, nghi lễ, phong tục, tập quán truyền lại từ đời này qua đời khác.
Xã hội học nghiên cứu hành động xã hội thực chất là tập trung vào
nghiên cứu loại hành động duy lý – công cụ. Weber lập luận rằng: đặc trưng
quan trọng nhất của xã hội học hiện đại là hành động xã hội của con người
ngày càng trở nên duy lý, hợp lý với tính toán chi ly, tỉ mỉ, chính xác về mối
quan hệ giữa công cụ/phương tiện và mục đích/kết quả.
Do vậy việc sinh viên quyết định có đi làm thêm hay không và làm
những công việc như thế nào đều được tính toán chi li, cẩn thận. Tuy nhiên
việc sinh viên quyết định chọn công việc như thế nào còn tùy thuộc vào nhiều

17


yếu tố khác nhau và đều được tính toán, lựa chọn phương pháp để đạt được
năng suất, chất lượng, và hiệu quả cao nhất có thể.
1.2.3 Lý thuyết vốn xã hội
Lý thuyết vốn xã hội xuất hiện chủ yếu vào những năm 90. Đây là một
khái niệm mới và có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về vốn xã hội nhưng
tựu trung lại các quan điểm đều quy vốn xã hội về các mạng lưới xã hội và
đều cho rằng giống như vốn con người, tuy thuộc về vốn vật chất nhưng vốn
xã hội cũng có khả năng sinh lợi.
Trong cuộc sống, để duy trì và tồn tại thì không một ai mà sống độc
lập, tách biệt hoàn toàn với xã hội, mỗi người đều tham gia vào những mạng
lưới xã hội nhất định, có người tham gia nhiều, có người tham gia ít, có người
có mạng lưới xã hội dày đặc nhưng cũng có người tham gia vào những mạng
lưới xã hội lỏng lẻo.
Đó có thể là các mạng lưới không chính thức như họ hàng, gia đình,

bạn bè, người thân,.. hoặc có thể là các mạng lưới chính thức như các tổ chức
dân sự chính thức, các hiệp hội, các nhóm nghề nghiệp… Trong quá trình cá
nhân tham gia vào các nhóm xã hội sẽ giúp cá nhân khai thác và sử dụng
được thông tin, ý tưởng, nguồn lực và và sự hợp tác từ các thành viên khác
trong mạng lưới. Vốn xã hội có thể được hiểu như là nguồn lực được tăng lên
khi các cá nhân tham gia vào các mạng lưới xã hội.
Đối với sinh viên trong vấn đề tìm kiếm việc làm, vốn xã hội chính là
việc sinh viên tận dụng các mối quan hệ, mạng lưới của mình để tìm cho mình
những công việc phù hợp với bản thân, vai trò của vốn xã hội trong việc sinh
viên làm thêm được thể hiện ở việc gắn kết hay kết nối giữa những người
đang tìm việc với những người đang nắm giữ nguồn lực. Do nắm giữ quyền
lực mà một số cá nhân có khả năng chi phối nhất định đối với những người
khác. Trong trường hợp này, nhà trường có vai trò nhất định kết nối giữa nhà
tuyển dụng với sinh viên để sinh viên tìm được những công việc phù hợp với

18


khả năng và trình độ của mình, bù lại các nhà tuyển dụng dựa vào mạng lưới
liên kết với nhà trường mà tìm được cho mình những lao động phù hợp.

19


PHẦN B: BÁO CÁO THỰC TẬP
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Theo báo cáo Phát triển Thế giới năm 2013 Tại các nước đang phát

triển thì việc là trở thành “nền tảng căn bản cho sự phát triển”, việc làm đem
lại nhiều lợi ích to lớn hơn nhiều so với thu nhập đơn thuần, việc làm có vai
trò quan tròn trong quá trình giảm nghèo, giúp các thành phố vận hành và
giúp lớp trẻ tránh được bạo lực, báo cáo mới của Ngân Hàng Thế giới nhận
định. Tuy nhiên thực trạng việc làm ở Việt Nam cho thấy tỉ lệ thất nghiệp còn
tương đối cao. Ước tính tới cuối thàng 12/ 2014, tỷ lệ thất nghiệp của lao
động trong độ tuổi năm 2014 là 2.08%. Như vật so với nhiều nước trên thế
giới thì tỉ lệ này còn tương đối cao. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15
đến 24 tuổi) năm 2014 là 6.3%, cao hơn so với năm 2013, như vậy tỉ lệ thất
nghiệp ở thanh niên có xu hướng tăng, khu vực thành thị là 11, 49% cao hơn
mức 11.12% của năm trước, khu vực nông thôn là 4.63%, xấp xỉ năm 2013.
Mặc dù việc làm có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, tuy
nhiên ở nước ta vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa có việc làm, và lại chủ
yếu tập trung ở lớp thanh niên do đây là giai đoạn chu yển giao từ giai đoạn
học sinh sang giai đoạn bắt đầu trưởng thành, ở giai đoạn này thường có
những biến động chính vì thế mà thanh niên chưa tìm được cho mình một
công việc ổn đinh cho nên tỉ lệ thất nghiệp khá cao. Sinh viên cũng nằm tron
độ tuổi thanh niên, bên cạnh việc tham gia học tập và các hoạt động thì sinh
viên cũng muốn tìm cho mình một công việc để có thể tiết kiệm thời gian
rảnh rỗi.
Hơn nữa, giá cả các mặt hàng tăng lên khiến đời sống của sinh viên đặc
biệt là sinh viên ở nông thôn trở nên khó khăn hơn. Để vẫn có thể học tập
được và duy trì những thói quen sinh hoạt hằng ngày thì sinh viên đã đi làm
thêm để kiếm thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống của mình.
20


Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khuyến khích học sinh, sinh viên phải kết
hợp giữa việc học với việc thực hành. Vì vậy ngoài học tập lý thuyết thì
ngành nghề nào cũng cần phải có sự thực hành, ngoài việc được dạy chuyên

môn, nghiệp vụ trong nhà trường thì việc sinh viên tích lũy kinh nghiệm qua
thực tiễn trải nghiệm cuộc sống cũng ngày càng được chú trọng hơn. Hơn
nữa, đi làm thêm ít nhiều còn thể hiện sự tự lập của sinh viên. Ở nhiều nước
trên thế giới, sinh viên khi đã vào Đại học là sống hoàn toàn tự lập, sinh viên
ra ở riêng với gia đình và tự lập về mọi mặt, điều này giúp cho sinh viên dễ
thích nghi với cuộc sống hơn. Sinh viên tự lo cho cuộc sống của bản thân mà
không làm phiền đến cha mẹ. Sự tự lập của sinh viên ở những nước này giúp
sinh viên trưởng thành hơn trong cuộc sống, tuy nhiên điều này chỉ có thể xảy
ra phổ biến ở những nước phát triển như Mỹ, Anh… Còn ở Việt Nam, sinh
viên cũng có nhu cầu sống tự lập, cũng muốn đi làm thêm nhưng ròa cản kinh
tế nói chung khiến sinh viên không có điều kiện thực hiện. Không chỉ sinh
viên mà còn rất nhiều người lao động chưa có việc làm. Nhà nước chưa có
nhiều những chính sách hỗ trợ việc làm nói chung đến từng đối tượng.
Hơn nữa, ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật thì đòi
hỏi một lực lượng lao động phải có thay nghề cao, người sử dụng lao động
ngày càng đòi hỏi lao động có trình độ cao, vì vậy sinh viên muốn có được
công việc như ý muốn của mình với một mức lương phù hợp thì phải đáp ứng
được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Nhưng thực tế lại cho thấy, đa số sinh viên
chưa có nhiều kinh nghiệm để đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Vì
vậy nhu cầu vẫn chỉ dừng lại ở nhu cầu mà chưa thể đi vào thực hiện.
Xuất phát từ những lý do trên, nhằm cung cấp dữ liệu cho những
nghiên cứu để bổ sung các chính sách về việc làm, tác giả đã quyết định lực
chọn đề tài : “Nhu cầu làm thêm của sinh viên Thành phố Hà Nội hiện
nay” (Qua khảo sát tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền).

21


2.
-


Đặc điểm sinh viên trường Học Viện Báo chí và Tuyên truyền.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là nơi nuôi dưỡng, ươm mồng lên một thế
hệ tri thức bao gồm các cán bộ giảng dạy, các nhà báo, phóng viên, nhà
nghiên cứu… Hằng năm, Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho tốt nghiệp
hàng nghìn sinh viên, mỗi sinh viên sau khi ra trường đều được trang bị một
khối lượng kiến thức đáng kể để phục vụ cho xã hội. Chính vì vậy mà đây là

-

một môi trường tốt cho sinh viên học tập và rèn luyện.
Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền được đánh giá là khá năng động
trong nhiều hoạt động. Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền được
đánh giá là ngôi trường đào tạo một lớp sinh viên luôn nhiệt tình, năng nổ
tham gia các hoạt động, Học viện Báo chí và Tuyên truyền là trường Đảng
cho nên các phong trào về Đoàn, Đảng luôn sôi nổi, sinh viên luôn tích cực
tham gia các hoạt động cũng như tự biết sắp xếp thời gian của mình sao cho

-

phù hợp với khối lượng các hoạt động dày đặc.
Hiện nay, đối với sinh viên các khóa K31, K32, K33 nhà trường vẫn đang duy
trì hình thức đào tạo theo niên chế, theo đó sinh viên đi học theo lịch học
được nhà trường sắp xếp trước, sinh viên khóa K31 và K33 chỉ học chính
khóa vào buổi sáng, sinh viên các Khóa K32, K34 chỉ học chính khóa vào
buổi chiều. Đối với sinh viên K34, hiện nay nhà trường đã abc đổi hình thức
đào tạo từ niên chế sang tín chỉ, tuy nhiên lịch học vẫn do nhà trường sắp xếp,
sinh viên vẫn chưa phải đăng kí lịch học như các trường Đại học khác có đào
tạo theo tín chỉ. Chính vì vậy sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền có
tương đối nhiều thời gian để tham gia các hoạt động cũng như đi làm thêm.


22


PHẦN II: NỘI DUNG
1.

NHU CẦU LÀM THÊM CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ
TUYÊN TRUYỀN.
Kết quả khảo sát cho thấy, đa số sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền có mong muốn đi làm thêm, tỉ lệ sinh viên không muốn làm thêm rất
thấp, chỉ có 16.5 % sinh viên không muốn làm thêm, còn lại 83.5 % sinh viên
muốn làm thêm. Những phân tích dưới đây nhằm hướng tới những sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền có nhu cầu đi làm thêm.

1.1

Nhu cầu của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền về thời gian làm
việc.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là một trong số ít các trường Đại học
còn giữ lại hình thức đào tạo theo Niên chế, cho đến năm 2014 – 2015 nhà
trường mới bắt đầu chuyển sang hình thức đào tạo tín chỉ nên lịch học và nghỉ
của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền tương đối ổn định. Chính vì
vậy mà sinh viên có điều kiện đi làm thêm hơn một số sinh viên của các
trường khác do lịch học không cố định.
Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay chủ yếu chỉ học
một buổi học trên giảng đường, vì thế sinh viên có khá nhiều thời gian rảnh
rỗi. Ngoài việc tham gia các hoạt động, đi làm tình nguyện thì khá nhiều sinh
viên đã tận dụng thời gian rảnh rỗi của mình để đi làm thêm.


-

Các ngày mong muốn đi làm: Khi được hỏi sinh viên muốn đi làm vào
những ngày nào trong tuần thì chủ yếu sinh viên cho rằng họ mong muốn
được đi làm vào các ngày từ thứ 2 đến chủ nhật, chiếm gần một nửa tổng số
sinh viên muốn đi làm thêm (chiếm 48.2%), tiếp theo đó có gần 1/3 mẫu
nghiên cứu cho rằng họ muốn đi làm tất cả các ngày trong tuần.

23


Thời gian đi làm trong tuần (Đơn vị: %)

-

Số giờ làm việc trung bình: Đa số sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền khi được hỏi có muốn đi làm thêm hay không thì đều trả lời là có
muốn, tuy nhiên mỗi người lại mong muốn có số giờ làm việc trung bình là
khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng người.
Số giờ làm việc trung bình một tuần (Đơn vị: %)

Kết quả nghiên cứu về thời gian sinh viên muốn đi làm thêm trung bình
bao nhiêu giờ một tuần cho thấy, có tới hơn một nửa sinh viên cho rằng họ
mong muốn đi làm thêm vào khoảng từ 15h đến 35h một tuần, chiếm 51.2 %
trong tổng số người trả lời. Có tới 30.1% mẫu nghiên cứu cho rằng họ muốn
làm việc trên 35h/ 1 tuần, điều này đặt ra câu hỏi liệu đối với những sinh viên
mong muốn làm thêm vào thời gian tương đối dài trong tuần như vậy thì sinh
viên có thể cân bằng được giữa việc học và việc, việc tham gia các hoạt động
và việc đi làm thêm không hay không? Trong khi đó, một số nước trên thế
giới như Đức, Mỹ đã quy định thành luật về số giờ làm thêm của sinh viên đó

là không vượt quá 29h /1 tuần để đảm bảo việc làm thêm không ảnh hưởng
quá nhiều đến việc học tập. Thực tế ở Việt Nam lại cho thấy rằng, một bộ
phận sinh viên do quá chú trọng, đầu tư vào việc làm thêm mà bỏ bê việc học
hành, đã có khá nhiều sinh viên vì lý do này mà thường xuyên bị thi lại, học
lại hoặc nợ môn, thậm chí còn ra trường chậm hơn so với các bạn trong lớp.
Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền cũng đang rơi vào nguy cơ này
do có tới gần 1/3 sinh viên muốn được làm thêm trên 35h/ 1 tuần. Như vậy
đối với sinh viên, việc làm thêm tương đối quan trọng, làm thêm đem lại cho
sinh viên nhiều mặt tích cực nhưng đồng thời nếu không được sắp xếp hợp lý,
khoa học thì có thể sẽ đem lại cho sinh viên khá nhiều mặt hạn chế. Chính vì

24


thế, mỗi sinh viên phải tự biết sắp xếp, bố trí thời gian cho mình thật khoa học
để việc đi làm thêm không ảnh hưởng quá nhiều đến việc học, làm thêm
những kết quả hoch tập vẫn tương đối ổn định.
1.2

Nhu cầu của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền về loại hình
công việc.
Thực trạng sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền đi làm thêm
cho thấy hiện nay hầu như sinh viên đi làm thêm nhưng chủ yếu là làm những
công việc lao động chân tay như phục vụ, bàn hàng, giúp việc nhà, tỉ lệ sinh
viên trả lời đang đi làm thêm những công việc lao động trí óc tương đối thấp
chỉ chiếm có 40,4% sinh viên hiện đang đi làm thêm những công việc lao
động trí óc. Có thể thấy đối với sinh viên một trường Đại học khá năng động
và cần nhiều kĩ năng thực hành, kĩ năng tác nghiệp nhưng lại chỉ có hơn 40%
làm những công việc lao động trí óc, đa số còn lại là làm những công việc lao
động chân tay cho thấy sinh viên chưa tìm được cho mình những công việc

phù hợp để kết hợp giữa việc học và việc thực hành. Sinh viên chủ yếu vần
phải làm những công việc lao động chân tay mà không cần tới trình độ cao
cũng có thể làm được.
Từ thực trạng sinh viên đang chủ yếu làm những công việc chân tay
như trên, sau khi được hỏi là sinh viên muốn tìm được những công việc có
tính chất như thế nào thì đa số sinh viên trả lời họ muốn tìm được những công
việc lao động trí óc, những công việc liên quan đến chuyên ngành mà họ được
đào tạo để họ có thể vừa học, vừa áp dụng những kiến thức mình tiếp thu
được vào việc học.
Loại hình công việc (Đơn vị: %)

Theo bản tin cập nhật thị trường lao động do Bộ LĐ – TB&XH
cùng Tổng cục Thống kê công bố trong quý IV – 2013, cả nước có hơn

25


×