Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO QUAN hệ QUỐC tế và TRẬT tự THẾ GIỚI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209 KB, 24 trang )

Chuyên đề
QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI HIỆN NAY

1. Khái niệm quan hệ quốc tế
Quan hệ quốc tế (QHQT) là tổng hoà các mối liên hệ, quan hệ và sự
tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể cấu thành đời sống quốc tế trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội...
Sự hình thành QHQT là nhu cầu khách quan, thiết yếu của sự vận động
và phát triển của mỗi cộng đồng dân tộc trong quá trình lịch sử. Trong mỗi
hình thái kinh tế - xã hội, hình thành những hình thức cộng đồng người thích
ứng và mang tính phổ biến. Để tồn tại và phát triển, con người lao động phải
sản xuất, phải cư trú trên một địa vực nhất định và hình thành các quan hệ xã
hội. Do đó, ngay từ xã hội nguyên thuỷ, các thành viên thị tộc không chỉ có
quan hệ trong nội bộ thị tộc, mà giữa các thị tộc cũng có những quan hệ với
nhau, trước hết là quan hệ hôn nhân và quan hệ kinh tế. Đã từng có nhiều
cuộc tranh chấp, xung đột và chiến tranh giữa các thị tộc và bộ lạc. Có thể nói
đây là những mầm mống sơ khai của quan hệ quốc tế.
Đặc biệt, khi xã hội xuất hiện giai cấp và nhà nước ra đời, cũng là sự
hình thành quan hệ quốc tế đầu tiên của các nhà nước và cộng đồng tộc
người. Trong lịch sử đã diễn ra biết bao cuộc chiến tranh xâm lược và chống
xâm lược, thơn tính lãnh thổ hoặc vùng lên giải phóng giữa các cộng đồng
quốc gia dân tộc. Đồng thời giữa các cộng đồng quốc gia đó cũng hình thành
và phát triển các quanhệ về kinh tế, chính trị, ngoại giao... Tuy nhiên, trong xã
hội nơ lệ và phong kiến thì các quan hệ giữa các nhà nước và cộng đồng
người còn chật hẹp về không gian và lĩnh vực quan hệ... Thơng thường các
quan hệ với bên ngồi chịu sự quy định của trình độ phát triển kinh tế, xã hội,
của khả năng vươn tới giới hạn địa lý - lịch sử mà người ta biết đến và lĩnh
vực có thể thực hiện được các mối liên hệ. Khi CNTB ra đời, thực hiện chính
sách thực dân, xâm lược các nước lạc hậu trên phạm vi tồn cầu, thì khơng



2
gian của QHQT đã được mở rộng trên phạm vi tồn thế giới. Trong Tun
ngơn của Đảng Cộng sản, Các Mác và Ph.Ăng ghen viết: "Vì ln bị thúc đẩy
bởi nhu cầu về những mối tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm chiếm khắp
hồn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập
những mối liên hệ ở khắp nơi. Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản
đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế
giới"... "Thay cho tình trạng cơ lập trước kia của các địa phương và dân tộc
vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc
phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh
thần cũng không kém như thế. Những thành quả của hoạt động tinh thần của
một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc" 1. Dưới sự thống
trị, bóc lột của giai cấp tư sản và CNTB, tính chất quan hệ quốc tế mang tính
bất bình đẳng, bất cơng đối với các quốc gia dân tộc bị áp bức và các chủ thể
quan hệ đi ngược lại lợi ích của chúng.
Với thắng lợi của cách mạng XHCN Tháng 10 Nga 1917, sự ra đời của
nhà nước XHCN Xô Viết mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi tồn thế giới; tiếp đó là thắng lợi của các lực lượng hồ
bình, dân chủ, tiến bộ trong chiến tranh thế giới thứ hai; sự hình thành của hệ
thống các nước XHCN, sự nổi dậy mạnh mẽ của phong trào GPDT và ĐLDT,
sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân và tan rã của hệ thống thuộc địa, trên thế
giới đã hình thành cục diện quan hệ quốc tế mới, những xu thế quan hệ quốc
tế mới. Đặc biệt, ngày nay cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
phát triển như vũ bão, tác động và thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống
quốc tế, thúc đẩy nhan xu thế quốc tế hố, tồn cầu hố đời sống chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội... tính chỉnh thể và sự phụ thuộc càng cao, không gian
và thời gian bị tốc độ cuộc sống và sự hiểu biết của con người làm cho trở nên
chật hẹp và rút ngắn hơn.
Như vậy, sự phát triển chung của văn minh nhân loại, của tiến bộ xã hội,
của trí tuệ và năng lực của con người và mỗi cộng đồng quốc gia dân tộc đã

1

Các Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 601 - 602.


3
đạt được, cũng như nhu cầu khách quan của sự phát triển hướng tới tương lai
của các dân tộc, đã quy định sự phát triển ngày càng sâu rộng các mối quan
hệ quốc tế. Ngày nay, nhân loại đang bước vào thiên nhiên kỷ mới, các mối
quan hệ xã hội ngày càng được rộng mở, trong đó QHQT đang trở thành một
trong những quan hệ xã hội cơ bản của con người và loài người. Mối quan hệ
quốc tế trên các lĩnh vực đang và sẽ tác động to lớn tới các quan hệ xã hội
trong mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng, thậm chí tới mỗi cá nhân con người.
QHQT ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, biến đổi mau lẹ, địi hỏi
phải được nghiên cứu có hệ thống, cơ bản, với tính cách là một bộ phận khoa
học tương đối độc lập, từ đó tìm ra những quy luật chi phối quá trình vận
động, biến đổi của các chủ thể và các mối quan hệ cơ bản trong đời sống
quốc tế.
2. Các chủ thể QHQT
Thứ nhất là các quốc gia có chủ quyền
Đây là chủ thể quan hệ chủ yếu, cơ bản nhất cấu thành thực thể chính trị
và đời sống quốc tế. Các quốc gia có chủ quyền là tế bào cơ bản của thế giới;
nơi xuất phát, điểm hội tụ và môi trường xã hội hình thành và thể hiện đầy đủ
nhất các nội dung và nguyên tắc QHQT. Trong đời sống quốc tế và mối quan
hệ giữa các thực thể chính trị thế giới, các quốc gia có chủ quyền là biểu
trưng trọn vẹn cho vị thế và quyền lợi của một cộng đồng xã hội ổn định, đó
là quốc gia dân tộc; đó là thực thể chính trị có đủ tư cách giải quyết các mối
quan hệ cơ bản nhất về chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, có quyền bảo vệ lợi
ích chủ quyền của mình, có quyền địi hỏi và được cộng đồng thế giới cơng
nhận về mặt chính trị và công pháp quốc tế; đồng thời, mặt khác các quốc gia

có chủ quyền cũng phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình trước
cộng đồng thế giới trong giải quyết các quan hệ quốc tế và tham gia vào đời
sống quốc tế.
Hiện nay, trên thế giới có 210 quốc gia có chủ quyền được cộng đồng
quốc tế cơng nhận, trong đó có 192 quốc gia là thành viên chính thức của
Liên Hợp Quốc. Xét về chế độ chính trị - xã hội, các quốc gia có chủ quyền


4
bao gồm các nước XHCN, các nước TBCN ở trình độ phát triển khác nhau và
với nhiều thể chế chính trị khác nhau. Xét về trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, các quốc gia có chủ quyền gồm có các nước phát triển, các nước đang
phát triển và các nước chậm phát triển. Khi nghiên cứu chủ thể QHQT là các
quốc gia có chủ quyền, khoa học QHQT sẽ nghiên cứu vị trí, vai trị, ảnh
hưởng của quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào đó trong đời sống quốc tế;
các mối liên hệ, quan hệ thực tại của nó và dự báo vị trí, xu hướng vận động
biến đổi của quốc gia đó và mối quan hệ quốc tế mà nó tham gia.
Thứ hai là các phong trào chính trị - xã hội lớn trên thế giới.
Đây là những phong trào chính trị - xã hội có vị trí, vai trị ảnh hưởng
quan trọng trong đời sống quốc tế, được sự quan tâm rộng rãi của cộng đồng
thế giới. Chẳng hạn như phong trào Hồ Bình thế giới, phong trào Không liên
kết, phong trào Thanh niên dân chủ thế giới, phong trào Cơng đồn thế giới,
phong trào Đấu tranh vì quyền lợi của phụ nữ thế giới, trào lưu xã hội - dân
chủ, phong trào GPDT và ĐLDT, đặc biệt là phong trào Cộng sản và công
nhân thế giới...
Khi nghiên cứu các phong trào chính trị - xã hội lớn trên thế giới, khoa
học QHQT chỉ ra điều kiện và bối cảnh lịch sử ra đời, quá trình vận động,
biến đổi của nó trong sự vận động biến đổi nói chung của đời sống quốc tế,
những hoạt động chủ yếu và ảnh hưởng của phong trào trong QHQT cũng như
các vấn đề đang đặt ra va xu hướng phát triển của nó trước những tác động

của các nhân tố thời đại hiện nay.
Thứ ba là các tổ chức quốc tế và tổ chức khu vực
Ngày nay, các tổ chức quốc tế và khu vực càng có vai trị quan trọng
trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới. Các tổ chức quốc tế được thừa nhận
và tham gia các quốc gia trên thế giới cùng với các chủ thể khác góp phần giải
quyết có hiệu quả các vấn đề quốc tế, các quan hệ đa phương và các quan hệ
giữa các nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại; tổ chức quốc tế
lớn nhất hiện nay là Liên Hợp Quốc; mặc dù còn nhiều vấn đề cần giải quyết
về cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động... song Liên Hợp Quốc ngày càng có vai


5
trị và ảnh hưởng to lớn đến vấn đề gìn giữ hồ bình, củng cố an ninh, tăng
cường hợp tá và phối hợp hoạt động trong giải quyết các vấn đề khu vực và
các quốc gia vì hồ bình, tiến bộ xã hội và phát triển. Ngoài ra, trong các khu
vực, tiểu khu vực, các tổ chức quốc tế và tổ chức khu vực ngày càng phát huy
vai trò liên kết, điều phối các hoạt động chung giữa các nước hữu quan trên
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội... Đó là một số tổ chức như: Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), tổ chức các nước sản xuất và xuất khẩu dầu mỏ (OPEC),
Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), khu
vực tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), tổ chức thống nhất Châu Phi
(OAU), tổ chức các nước Châu Mỹ (OEA)...
Thứ tư là các khu vực và tiểu khu vực
Hiện nay, cùng với xu thế tồn cầu hố, xu thế các dân tộc nâng cao ý
thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, thì xu thế các quốc gia lớn nhỏ tham gia
ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực kinh tế, thương mại
và các lĩnh vực khác cũng ngày càng tăng lên. Một mặt, do có những yếu tố
tương đồng nhất định về địa lý - tự nhiên, địa lý - chính trị, địa lý - kinh tế, sự
gần gũi về lịch sử - văn hoá... mặt khác xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, sự phù hợp nhất định về lợi ích, các quốc gia trong cùng khu vực dần

hình thành những mối liên hệ, quan hệ chung, tìm được tiếng nói chung, liên
kết với nhau tạo thành một thực thể quan trọng trong đời sống chính trị, kinh
tế thế giới. Sự liên kết khu vực, tiểu khu vực, giúp cho các nước có điều kiện
bổ sung, hỗ trợ, giúp đỡ hợp tác với nhau thúc đẩy sự phát triển kinh tế mỗi
nước và trình độ phát triển đồng đều của cả khu vực. Đồng thời, làm cho các
nước cùng nhau phối hợp khai thác các tiềm năng, trao đổi kinh nghiệm,
chuyên gia, cùng nhau triển khai thực hiện các chương trình dự án chung. Sự
liên kết khu vực cũng làm cho các nước liên quan thông qua trao đổi, thương
lượng, cùng nhau bàn bạc, giải quyết các vấn đề do lịch sử để lại, các vấn đề
mới nảy sinh, hoặc những tranh chấp về lợi ích như lãnh thổ, biên giới, các
vấn đề chính trị, dân tộc, tơn giáo, an ninh, các vấn đề xã hội của mỗi nước
và toànkhu vực. Đặc biệt, sự liên kết về nhiều mặt giữa các quốc gia trong


6
khu vực, tiểu khu vực còn tạo ra các nước này có sức mạnh cạnh tranh và
phát huy ảnh hưởng, uy tín cao hơn trong đời sống quốc tế.
3. Trật tự thế giới và cuộc đấu tranh cho một trật tự thế giới hồ
bình, cơng bằng, dân chủ và tiến bộ
3.1. Xu thế hình thành trật tự thế giới đa cực
3.1.1. Quan niệm về trật tự thế giới
Trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người, cùng với sự phát
triển của con người và các hình thức cộng đồng người, thì các mối quan hệ xã
hội ngày càng đa dạng và phức tạp. Khi giai cấp và Nhà nước xuất hiện, cũng
là thời điểm đánh dấu sự hình thành một hình thức quan hệ xã hội mới; quan
hệ giữa các quốc gia - quan hệ quốc tế.
Lịch sử của quan hệ quốc tế cho thấy, tham gia vào đời sống quốc tế
khơng chỉ có những quốc gia, mà cịn bao gồm nhiều chủ thể quốc tế khác với
tính cách là những thực thể chính trị - xã hội có tính độc lập tương đối. Đồng
thời, nội dung, hình thức, quan hệ cũng ngày càng phong phú và đa dạng; quy

mô và phạm vi quan hệ ngày càng sâu rộng. Toàn bộ các chủ thể và mối quan
hệ tác động qua lại, đan xen nhau giữa các chủ thể đó tạo nên một hệ thống
cấu trúc quan hệ quốc tế trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Các mối quan hệ quốc tế mặc dù diễn biến phức tạp và biến đổi không
ngừng, với những tác động nhiều chiều, song vẫn gắn bó với nhau trong một
chỉnh thể có tính hệ thống và tuân theo quy luật xã hội khách quan. Chính vì
vậy, cũng như mọi hiện tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội khác, thế giới
loài người với tính hệ thống chỉnh thể của nó là những q trình vận động
khơng ngừng theo những quy luật nhất định. Q trình vận động đó, đến một
giới hạn nào đó sẽ đạt tới trạng thái ổn định tương đối - trạng thái cân bằng
động. Lúc đó các thành tố nằm trong hệ thống mà ở đây là các chủ thể trong
hệ thống quan hệ quốc tế có mối liên hệ bền vững, tác động, chi phối lẫn
nhau, tạo nên trạng thái ổn định bền vững của cả hệ thống quan hệ quốc tế.
Trong hệ thống quan hệ quốc tế tồn tại và vận động ổn định bền vững
đó, các chủ thể có vị thế và vai trị, ảnh hưởng khác nhau. Từ vị thế và vai trò


7
ảnh hưởng đó, mỗi chủ thể tham gia vào đời sống quốc tế, chi phối các mối
quan hệ quốc tế và lựa chọn các đối sách đối ngoại phù hợp lợi ích của mình.
Do đó, trong hệ thống quan hệ quốc tế, thơng thường các chủ thể có tiềm lực
kinh tế, vị thế chính trị và các lợi thế hơn các chủ thể khác, dĩ nhiên sẽ có vị
trí và vai trò chi phối mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị trên thế giới.
Sự vận động, biến đổi cục diện quốc tế trong các thời điểm lịch sử xác
định, sẽ dần dần tạo nên sự hình thành trật tự thế giới. Trật tự thế giới phản
ánh trạng thái tồn tại, tính tương đối ổn định, vị thế, vai trò cũng như sự ràng
buộc, chế định lẫn nhau giữa các chủ thể cấu thành hệ thống quan hệ quốc tế.
Sự biến đổi của cục diện quốc tế dần dần phá vỡ, sự ổn định của trật tự đó để
lại tạo nên một trật tự thế giới mới. Sự tồn tại của trật tự thế giới quy định
tính ổn định bền vững tương đối trong cấu trúc của hệ thống chủ thể quan hệ

quốc tế. Sự phá vỡ trật tự thế giới tất nhiên cũng là sự sụp đổ các hệ thống
quan hệ quốc tế.
Trật tự thế giới được hình thành và tồn tại trong một giai đoạn lịch sử
nào đó có vai trị chi phối, chế định các hoạt động của các chủ thể thông qua
các điều kiện, nhân tố, chuẩn mực thích ứng mà nó tạo ra. Cho nên, khi trật tự
thế giới cũ bị phá vỡ thì không thể không tạo nên sự biến đổi các điều kiện,
các nhân tố và chuẩn mực nguyên tắc quan hệ quốc tế tương ứng của trật tự
quốc tế đó.
Như vậy, khái niệm trật tự thế giới dùng để chỉ trạng thái ổn định tương
đối của kết cấu hệ thống quan hệ quốc tế do tương quan so sánh lực lượng
giữa các chủ thể cấu thành hệ thống đó tạo nên, quy định vị trí, vai trị của
các chủ thể; đồng thời chế định các chuẩn mực, nguyên tắc quan hệ quốc tế
và các hành vi của các chủ thể trong đời sống quốc tế ở một giai đoạn lịch sử
nhất định.
Cơ sở hình thành một trật tự thế giới
Sự hình thành trật tự thế giới trong một giai đoạn lịch sử - cụ thể được
quy định bởi xung lực tương tác giữa các lực lượng chính trị - xã hội trên thế
giới. Do đó, tiềm lực sức mạnh tổng hợp của mỗi chủ thể và sự tham gia vào


8
đời sống quốc tế của nó là nhân tố trực tiếp tạo nên kết quả tổng hoà trong
tương quan so sánh lực lượng giữa các chủ thể. Đồng thời, chính tương quan
so sánh lực lượng này tạo nên trạng thái cân bằng ổn định tương đối của hệ
thống cấu trúc. Trong hệ thống cấu trúc đó, các chủ thể có vị thế, vai trò và
ảnh hưởng lớn hơn sẽ trở thành những mắt khâu chủ yếu, những điểm nút các
cấu trúc hệ thống quan hệ quốc tế. Vì vậy, sự rung chuyển, đứt gãy của các
điểm nút, các mắt khâu chủ yếu sẽ gây nên sự chấn động, rung chuyển của
kết cấu trật tự thế giới.
"Trật tự thế giới" là kết quả phản ánh tương quan so sánh lực lượng giữa

chủ thể. Do đó, dù có tính độc lập, ổn định trong một giai đoạn lịch sử cụ thể
tương đối dài, song trật tự thế giới không thể vượt ra khỏi phạm vi và tính
quy định của thời đại. Nội dung, tính chất, đặc điểm, các mâu thuẫn cơ bản
và xu thế của thời đại là nhân tố suy đến cùng - quyết định nội dung, tính
chất, đặc điểm của trật tự thế giới. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa thời đại và
trật tự thế giới ở một giai đoạn lịch sử nhất định, có thể thấy trật tự thế giới
khơng phản chiếu nội dung, tính chất thời đại một cách đơn giản, mà rất
quanh co, phức tạp. Song, sự tồn tại và vận động của trật tự thế giới vẫn chỉ
là biểu hiện tính lịch sử - cụ thể của thời đại trong một giai đoạn xác định mà
không thể phủ định được nội dung, tính chất và xu thế thời đại. Trật tự thế
giới mặc dù có vai trò chi phối sự vận động, phát triển của thế giới trong một
giai đoạn lịch sử mà nó tồn tại, nhưng nó vẫn là sự phản ánh các mối liên hệ,
quan hệ, những đặc trưng và mâu thuẫn cơ bản, xu thế chủ yếu của thời đại
trong giai đoạn lịch sử đó. Để nhìn nhận, đánh giá một trật tự thế giới đang
tồn tại, hoặc bị phá vỡ, hoặc đang dần dần được xác lập... một cách đúng đắn,
cần phải đứng vững trên thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng Mác xít. Mọi sự nhìn nhận một cách chủ quan, phiến diện,
siêu hình, đều sẽ dẫn đến những nhận định, đánh giá sai lầm về trật tự thế
giới, nhất là khi trật tự thế giới cũ đã tan rã, trật tự thế giới mới chưa định
hình rõ nét. Bởi vậy, trong những thời kỳ đó, có thể xuất hiện rất nhiều quan
điểm khác nhau về trật tự thế giới. Những quan điểm khác nhau về trật tự thế


9
giới phản ảnh dưới lăng kính chủ quan, bị chi phối bởi lập trường, lợi ích giai
cấp, và lợi ích dân tộc nhất định. Song, trật tự thế giới hiện thực chỉ có một,





hiện

thực

khách quan, khơng tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan. Bởi vậy, cần có thái độ
khách quan, khoa học khi phân tích, đánh giá về trật tự thế giới hiện thực.
Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế, trật tự thế giới lại là kết quả tổng hoà các
xung lực tác động giữa các chủ thể, kết quả của tương quan so sánh lực lượng
trên trường quốc tế, kết quả hoạt động thực tiễn của con người, giai cấp, quốc
gia xác định với ý đồ, mục tiêu, lợi ích, tiềm năng và sức mạnh khác nhau. Vì
vậy, phân tích đánh giá trật tự thế giới phải mang tính lịch sử - cụ thể; phải
đứng trên một lập trường lợi ích giai cấp và dân tộc nhất định. Có như vậy,
mới thấy hết được tính đa dạng, phức tạp trong cuộc đấu tranh giữa các lực
lượng chính trị - xã hội trên thế giới cho một trật tự thế giới mới.
Phân tích đặc điểm, xu thế biến đổi của trật tự thế giới hiện nay, chúng
ta cần thiết phải phân tích sự biến đổi của phương thức sản xuất, trước hết là
của lực lượng sản xuất, các quan hệ kinh tế trong phạm vi mỗi nước và toàn
cầu, cùng với nó là những biến đổi về cơ cấu xã hội và đời sống chính trị
quốc gia và quốc tế. Chính sự vận động của đời sống kinh tế - xã hội và đời
sống chính trị xã hội ở mỗi nước, các khu vực và toàn thế giới, trực tiếp góp
phần tạo nên tương quan so sánh lực lượng giữa các chủ thể quan hệ quốc tế,
từ đó dần dần dẫn đến trạng thái bền vững của các thứ bậc về vị trí, vai trị và
ảnh hưởng của các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Như vậy, chỉ có đi vào
nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa học công nghệ, của các quan hệ kinh tế; đồng thời phân tích nội dung, đặc điểm
cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, các mâu thuẫn xã hội đang diễn ra
trong phạm vi mỗi quốc gia và trên thế giới mới có thể rút ra kết luận khách
quan, khoa học về một trật tự thế giới.
Những luận chứng trên đây lại càng được khẳng định trong khi đời sống
quốc tế hiện thực, một trật tự thế giới bao hàm trật tự kinh tế thế giới và trật
tự chính trị thế giới, phản ánh quan hệ chính trị quốc tế và quan hệ kinh tế



10
quốc tế. Hiện nay, cuộc đấu tranh cho trật tự kinh tế quốc tế cũng không kém
phần gay go, quyết liệt, phức tạp so với cuộc đấu tranh cho trật tự chính trị
quốc tế.
3.1.2. Trật tự thế giới 2 cực sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến
cuối những năm 80 (thế kỷ XX)
Như vậy, sự biến đổi to lớn và sâu sắc của cục diện quốc tế sau chiến
tranh thế giới thứ hai dần tạo nên trật tự thế giới hai cực: CNXH do Liên Xô
đứng đầu và CNTB do Mỹ cầm đầu. Đây là hai thế giới đối lập nhau. Mâu
thuẫn giữa CNXH và CNTB là mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu chi phối tới toàn
bộ tiến trình thế giới, đến quan hệ quốc tế và các chiến lược đối ngoại của các
chủ thể trong quan hệ quốc tế suốt mấy thập niên của thế kỷ XX.
Có thể nói, sự hình thành trật tự thế giới 2 cực sau CTTG lần thứ 2 là kết
quả của sự biến đổi to lớn của cục diện quốc tế sau CTTG lần thứ nhất. Sự ra
đời của nhà nước Xô Viết đã phá vỡ trật tự thế giới cũ và mở đầu cho sự hình
thành của trật tự thế giới mới hai cực. Đặc biệt, cục diện quốc tế sau cuộc
CTTG lần thứ 2 đã đẩy nhanh quá trình xác lập và định hình rõ nét trật tự thế
giới 2 cực mà rõ rệt nhất là vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX - khi Liên
Xô và hệ thống XHCN lập được sự cân bằng về chiến lược và quân sự so với
Mỹ và Phương Tây.
Trật tự thế giới 2 cực: CNXH hiện thực do Liên Xô đứng đầu và CNTB
do Mỹ cầm đầu có một số đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự tồn tại của trật tự thế giới 2 cực được duy trì do có sức
mạnh tổng hợp to lớn của các lực lượng cách mạng và tiến bộ. Mặc dù sự ra
đời và tồn tại của nhà nước XHCN Xô Viết, sự lớn mạnh của phong trào
cách mạng trên thế giới sau cách mạng XHCN Tháng 10 Nga 1917 đã phá vỡ
trật tự thế giới do sự thống trị độc tôn của CNĐQ và mở đầu cho sự định hình
trật tự thế giới 2 cực của 2 hệ thống chính trị - xã hội đối lập. Song chỉ đến

sau chiến tranh thế giới thứ 2, với sự ra đời của hệ thống XHCN thế giới, sự
phát triển như vũ bão của phong trào giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc và
các lực lượng cách mạng khác, ba dòng thác cách mạng ở thế tiến công.


11
CNXH hiện thực ngày càng trở thành nhân tố quyết định chiều hướng phát
triển của xã hội loài người, nhất là khi các lực lượng cách mạng, tiến bộ tạo
được thế cân bằng chiến lược, đủ sức răn đe, ngăn chặn âm mưu, hành động
hiếu chiến của CNĐQ do Mỹ cầm đầu, thì trật tự thế giới 2 cực mới được xác
lập rõ ràng ổn định và tồn tại trong mấy thập kỷ qua. Đồng thời hơn thế nữa,
sức mạnh đấu tranh của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới do
hệ thống XHCN làm nòng cốt, chống CNĐQ và các lực lượng phản động
khác đã mở ra một xu thế mới, những nhân tố và điều kiện mới cho sự hình
thành

một

trật

tự

thế giới mới trong tương lai. Trật tự thế giới hồ bình, cơng bằng, dân chủ và
tiến bộ.
- Thứ hai, trật tự thế giới hai cực bị tác động thường xuyên bởi cuộc
"chiến tranh lạnh" do CNĐQ phát động và tiến hành. Mặc dù nguyên tắc quan
hệ Đông - Tây đã đạt được những thoả thuận quan hội nghị Ianta và Pốtxđam
cũng như được khẳng định trong Hiến chương Liên Hiệp quốc. Song Mỹ và
Phương Tây với bản chất hiếu chiến, phản động không bao giờ từ bỏ âm mưu
xố bỏ Liên Xơ và CNXH trên thế giới, ngăn chặn sự phát triển của các

lực lượng cách mạng và tiến bộ. Vì vậy, sau chiến trnh thế giới thứ 2, Mỹ
và Phương Tây đã tiến hành cuộc "chiến tranh lạnh" chống Liên Xô và các
nước XHCN, gây căng thẳng, đối đầu giữ hai hệ thống, tìm mọi thủ đoạn
thâm độc, xảo quyệt để chống CNXH thế giới. Cuộc "chiến tranh lạnh" và các
chính sách thù địch của Mỹ và Phương Tây chống lại các nước XHCN làm
cho sự phân cực, phân tuyến các chủ thể quan hệ quốc tế về 2 cực càng rõ rệt,
mang tính đối lập triệt để và làm cho đời sống quốc tế luôn bị đe doạ bởi cuộc
chiến tranh thế giới mới.
Thứ ba, trật tự thế giới 2 cực tồn tại trong trạng thái cân bằng bên miệng
hố chiến tranh.
Với sự tồn tại và lớn mạnh của CNXH hiện thực, sự phát triển của cuộc
đấu tranh chống CNĐQ và các thế lực phản động của 3 dòng thách cách
mạng, làm cho thế giới hình thành hai lực lượng đối lập nhau, tìm cách phủ


12
định nhau. Trong tư duy chính trị và hành động thực tiễn, cả CNXH và CNTB
đều theo đuổi các biện pháp loại bỏ nhau, không chấp nhận sự tồn tại của
nhau. Vì vậy, CNĐQ ln muốn tạo ra ưu thế sức mạnh hơn CNXH, nhất là
về quân sự, để khi cần thiết và điều kiện có lợi sẽ loại bỏ CNXH. Ngược lại,
để đối phó với Mỹ và Phương Tây nên Liên Xô và các nước XHCN phải tăng
cường sức mạnh phịng thủ của mình. Từ đó, dẫn đến các vịng xốy của cuộc
chạy đua vũ trang, bao gồm cả vũ khí chiến tranh thơng thường và vũ khí huỷ
diệt hàng loạt. Đặc biệt, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại, sự ứng dụng rộng rãi và nhanh chóng của các thành
tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực quân sự, làm cho cuộc chạy đua vũ
trang trở nên cực kỳ tốn kém và vô cùng nguy hiểm. Cả 2 siêu cường Xơ, Mỹ
và 2 khối chính trị - qn sự đối lập, trong các kho tàng đầy ắp các vũ khí
hiện đại, cơng nghệ cao mà sức cơng phá của nó có thể huỷ diệt nhiều lần tất
cả sự sống trên trái đất. Loài người đứng trước nguy cơ huỷ diệt nếu cuộc

CCTG mới nổ ra. Tuy vậy, xét trên một góc độ nào đó, chính sự cần bằng về
vũ khí chiến lược, về vũ trang giữa 2 siêu cường và hai hệ thống cũng chi
phối tới sự tồn tại của trật tự thế giới hai cực. Nhưng đồng thời trong những
thập kỷ vừa qua, trên thế giới đã diễn ra hàng chục cuộc chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, tạo ra các điểm nóng lâu dài. Cùng với đó là cuộc đấu
tranh tư tưởng - lý luận, đấu tranh ý thức hệ rất gay gắt, quyết liệt, phức tạp,
chi phối các quan hệ quốc tế.
Nhìn vào tổng thể, kể từ sau CTTG thứ 2 đến những năm 70, tính 2 cực
của trật tự thế giới thể hiện rất rõ nét. Trật tự thế giới này chi phối đời sống
chính trị thế giới. Mặc dù trật tự thế giới giữa 2 cực bị phá vỡ với sự kiện chế
độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ cuối thập niên 80 đến thập niên 90;
nhưng trong thập niên 70, 80, thế 2 cực cũng đã có sự suy giảm, do sự biến
đổi của cục diện thế giới của thời kỳ này là sự suy giảm của Liên Xô và Mỹ
và sự lớn mạnh của Nhật, Đức, Pháp (EU) và Trung Quốc. Nói cách khác,
ngay trong thập niên 70, 80, cục diện thế giới đa trung tâm cũng đang
định hình.


13
Thực tế lịch sử đã cho thấy, trong khi cuộc chiến tranh lạnh đang diễn ra
gay gắt, Xô, Mỹ đều lâm vào suy thối kinh tế, thì trái lại CHLB Đức, Nhật
Bản lại đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thập niên 60, 70. Từ
cuối thập niên 70 và suốt cả thập niên 80 đến nay nhờ cải cách, nền kinh tế
Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ rất cao, trung bình > 10% năm.
Rõ ràng trên thế giới thời kỳ này đang nổi lên nhiều trung tâm kinh tế
mới. Đồng thời với sức mạnh kinh tế, các trung tâm này cũng không dấu giếm
những tham vọng chính trị, xác lập và củng cố vị trí, vai trị, ảnh hưởng của
mình đến đời sống quốc tế, cạnh tranh với hai siêu cường.
Sự biến đổi vị thế đó của các trung tâm kinh tế - chính trị mới, đã tác
động đến hai siêu cường. Cả Liên Xô và Mỹ đều phải có sự điều chỉnh chiến

lược. Từ 1983 Xơ - Mỹ đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến lược; từ 1984 Xô
-Mỹ và 2 khối Nato - Vácsava đàm phán về giảm lực lượng thông thường ở
Châu Âu và diễn tập quân sự. Năm 1987, Liên Xô và Mỹ ký hiệp ước huỷ bỏ
tên lửa tầm trung trên đất liền, và hai bên đều có giảm chi phí quân sự.
Mặt khác, do sự lớn mạnh của Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc trong
quan hệ quốc tế, các quan hệ song phương và đa phương giữa các nước lớn
cũng có những biến đổi mang tính đa dạng hơn. Đồng thời, trong cả hai hệ
thống XHCN và TBCN, xu hướng độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế, đa
dạng, đa phương trong quan hệ quốc tế của các chủ thể cũng phát triển và
vượt ra ngoài sự kiểm sốt và khống chế của Xơ, Mỹ như trước kia để tìm
kiếm và theo đuổi lợi ích dân tộc của mình, và do đó làm cho QHQT đa dạng,
phong phú hơn.
3.1.3. Xu hướng hình thành trật tự thế giới đa cực từ khi chế độ XHCN ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ (1991) đến nay.
Cuối thập niên 80 đầu thập niên 90, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ sau hơn 70 năm tồn tại (ở các nước Đông Âu là gần 1/2 thế kỷ).
Đây là một trong những sự kiện làm rung chuyển thế giới, tác động trực tiếp
và sâu xa đến cục diện thế giới. Trật tự thế giới 2 cực với tính đối đầu trực
tiếp và phân tuyến triệt để giữa 2 lực lượng Xô, Mỹ và hai hệ thống XHCN


14
và TBCN, thực tế đã bị phá vỡ do sự tan rã của một cực là Liên Xô và CNXH
ở Đông Âu. Tuy nhiên, cũng cần chỉ ra rằng, sự tan vỡ của trật tự thế giới 2
cực Xô, Mỹ khơng có nghĩa là sự tan vỡ của CNXH trên thế giới với tính
cách là chế độ chính trị - xã hội đối lập với CNTB; và do đó khơng làm thay
đổi nội dung, tính chất thời đại hiện nay - thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, cũng cần khẳng định rằng, sự
sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu không phải là tất yếu khách quan,
là định mệnh của CNXH. Sự sụp đổ đó có nguyên nhân sâu sa và trực tiếp,

nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất
là do sai lầm về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ, sự suy yếu
vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản, sự phá hoại của chủ nghĩa cơ hội, xét
lại và chủ nghĩa chống cộng trong quá trình cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu.
Sự tan rã của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, thúc đẩy xu thế đa trung
tâm và đa cực của trật tự thế giới trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Như đã phân tích ở trên, tính đặc trưng tiêu biểu của trật tự thế giới 2
cực thể hiện đậm nét nhất trong thập niên 60, 70 của thế kỷ này. Cuối thập
niên 70, 80 đến trước khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trên thực tế,
trong kết cấu của hệ thống quốc tế, trật tự thế giới hai cực đã có suy yếu, do
xuất hiện và nổi lên một số lực lượng có xu hướng hạn chế sự phụ thuộc vào
Xơ, Mỹ; thậm chí cạnh tranh với Xô, Mỹ trong quan hệ quốc tế. Chẳng hạn,
Nhật Bản, Tây Âu đối với Mỹ; Trung Quốc đối với Liên Xơ; cũng như xu
hướng độc lập tìm kiếm các quan hệ song phương hoặc đa phương trong quan
hệ Đông - Tây, dựa trên lợi ích quốc gia của các chủ thể.
Vì vậy, trong thập niên 80, trật tự thế giới đã có khuynh hướng "tán
cực", đang hình thành các trung tâm mới làm giảm "lực hấp dẫn" của hai cực
Xô - Mỹ.
Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đơng Âu được coi là sự kiện có tính
quyết định thời điểm đánh dấu sự kết thúc thế giới hai cực, mở ra và phát
triển xu hướng đa trung tâm, đa cực của trật tự thế giới mới.


15
Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, với tham vọng bá chủ thế giới và
với tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự của một siêu cường duy nhất, Mỹ coi
đây là thời cơ thuận lợi nhất để thực hiện giấc mơ bá chủ thế giới, có thể sắp
đặt và điều khiển thế giới theo ý muốn của Mỹ. Ở thập kỷ cuối cùng của thế
kỷ XX, những âm mưu và hành động của Mỹ đã cho thấy, Mỹ khơng hề dấu
diếm tham vọng đó. Dư luận thế giới đã có sự lo ngại, trật tự thế giới hình

thành theo xu hướng một cực do Mỹ khống chế.
Những thái độ trịch thượng, kẻ cả, chà đạp lẽ phải và công lý của Mỹ thể
hiện trắng trợn qua cuộc chiến tranh I rắc (1991); Mỹ trực tiếp can dự hoặc
lợi dụng danh nghĩa LHQ để can thiệp vào các khu vực trên khắp thế giới;
gần đây nhất là việc Mỹ phớt lờ cả LHQ tiến hành cuộc chiến tranh chống
Nam Tư (1999), lợi dụng chống khủng bố, tình hình xâm lược Ápganixtan,
tiến công xâm lược I rắc 3/2003, vi phạm độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ của một quốc gia có chủ quyền là thành viên của LHQ bằng vũ khí,
phương tiện chiến tranh cơng nghệ cao đã chứng tỏ tham vọng bá chủ thế giới
của Mỹ. Thực tế cho thấy, hiện nay, Mỹ vẫn có tiềm lực rất mạnh, vẫn có khả
năng nhất định khuyếch trương bạo lực, dùng áp lực kinh tế, chính trị, quân
sự áp đặt ý đồ của Mỹ với các dân tộc, buộc các đồng mình cùng Mỹ bao vây,
cấm vận, can thiệp, thậm chí tiến hành chiến tranh, hịng thực hiện vai trò
lãnh đạo của Mỹ. Tuy nhiên, những năm gần đây thực tiễn cục diện thế giới
đã chứng tỏ rõ ràng rằng, Mỹ khó có thể thực hiện được tham vọng đó. Xu
thế đa trung tâm, đa cực ngày càng mạnh hơn, làm hạn chế sức mạnh của Mỹ,
kìm hãm Mỹ thực hiện giấc mộng thống trị thế giới của mình. Nhận định này
được dựa trên những cơ sở khách quan sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ những yếu kém và sự có hạn trong tiềm lực sức
mạnh của Mỹ. Năm 1950, GNP của Mỹ chiếm 52% của thế giới, đến cuối thể
kỷ này chỉ còn từ 23 - 25%. Hiện nay, Mỹ mất độc quyền vũ khí hạt nhân; và
thực tế chứng tỏ, trong quan hệ quốc tế Mỹ không phải là vô địch, không phải
không chịu thất bại cay đắng và bất lực mặc dù đã nỗ lực hết sức, ví dụ thất
bại của Mỹ ở Việt Nam và nhiều nơi khác.


16
Nền kinh tế Mỹ mặc dù cịn mạnh, song khơng phải khơng có khó khăn
rất lớn. Hiện nay, nợ liên bang đã tới > 10.000 tỉ USD; Mỹ thường xuyên
thâm hụt thương mại so với Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc... năng xuất lao

động, thu hút đầu tư của kinh tế Mỹ tăng chậm; khả năng của nền kinh tế Mỹ
kém, từ chỗ chiếm 50% mậu dịch toàn cầu hiện cịn 18%; sức mạnh đồng đơ
la ngày càng suy giảm so với các đồng tiền khác. Năm 2008, kinh tế Mỹ biến
đổi theo hướng suy thoái và cuối 2008 cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
bắt đầu diễn ra ở Mỹ với sự khủng hoảng đổ vỡ của hàng loạt ngân hàng
thương mại Mỹ.
Đến nay, sau 6 năm, kể từ năm 2003, khi Mỹ nguỵ tạo các chứng cớ
IRắc có sản xuất, tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt để tiến hành cuộc chiến
tranh xâm lược lật đổ chính quyền của Tổng thống Xadam Hutsen, Mỹ đã chi
phí trên 600tỷ USD (con số thực >2000 tỷ USD), gần 4500 lính Mỹ bị giết,
32.000 lính Mỹ bị thương, giết hại hàng trăm dân thường, làm gần 3 triệu
người phải di tản ở nước ngồi... tình hình IRắc vẫn bất ổn, Mỹ càng lún sâu
vào vùng lầy IRắc. Tân Tổng thống Mỹ Barắc Ôbama đã phải tuyên bố rút hết
quân Mỹ ở IRắc trong 18 tháng.
Ở Ápganixtan, kể từ sau cuộc chiến tranh do Mỹ phát động và lôi kéo
một số nước NATƠ tham gia lật đổ chính quyền Taliban, tình hình qn sự,
an ninh cịn tồi tệ hơn IRắc. Tại đây hàng ngàn lính Mỹ và liên quân bị tiêu
diệt, nhưng Taliban ngày càng mạnh hơn, chiếm giữ một phần khá lớn diện
tích. Cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố do Mỹ tiến hành chưa hề có dấu
hiệu kết thúc. Tình hình đó buộc Mỹ phải tập trung lực lượng quân sự để giải
quyết vấn đề Ápganixtan. Mỹ sẽ điều động một bộ phận lớn quân Mỹ được
rút ra từ IRắc sang chiến trường Ápganixtan. Song, các động thái cho thấy,
Mỹ khơng dễ gì giải quyết tình hình bằng biện pháp quân sự. Tổng thống Mỹ
Barắc Ôbama đã tuyên bố khả năng đàm phán với Taliban.
Điều đó cho thấy, sức mạnh của Mỹ hiện nay có hạn khơng thể dễ dàng
cùng một lúc tiến hành hai cuộc chiến tranh kéo dài, tốn kém. Hơn nữa, cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đang gây nên những hậu quả hết sức


17

nghiêm trọng đối với Mỹ như sự gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ và suy thối
của nhiều ngành kinh tế. Mỹ đã phải sử dụng gói kích cầu kinh tế gần 1000 tỷ
USD, nhưng xem ra chưa mấy hiệu quả. Hiện nay, Mỹ trở thành con nợ lớn
nhất thế giới. Thâm hụt ngân sách lên tới 1.800 tỷ USD của năm khoá 20082009 gấp 4 lần so với năm khố trước.
Ngồi ra, xã hội Mỹ cịn đầy rẫy những mâu thuẫn phức tạp, khơng dễ gì
giải quyết: nạn thất nghiệp cao; đạo đức, lối sống xuống cấp, suy đồi, y tế,
giáo dục trì trệ; bất cơng xã hội ngày càng tăng.
Hơn nữa, Mỹ khó có thể huy động được tiềm lực sức mạnh cho một mục
tiêu nào đó và đạt được hiệu quả cao nhất, khi phải đương đầu với những vấn
đề quốc tế phức tạp, kéo dài, trước những đối thủ có bản lĩnh, kiên định và
khơn khéo.
Thứ hai, là sự vươn lên của các chủ thể khác cả về tiềm lực, vai trò và
ảnh hưởng của họ trên thế giới.
Nhật Bản vẫn tiếp tục tăng cường sức mạnh kinh tế của mình và đang là
cường quốc thứ hai về kinh tế sau Mỹ. Ở nhiều khu vực, ảnh hưởng về kinh
tế của Nhật còn mạnh hơn Mỹ. Một số khu vực vốn trước kia là "sân sau" của
Mỹ như Mỹ La tinh, hiện nay Nhật Bản đã có chỗ đứng và cạnh tranh với
Mỹ. Nhật Bản cũng có khả năng khống chế nhiều lĩnh vực cơng nghệ cao
hơn. Hơn nữa, với sức mạnh kinh tế của mình, Nhật Bản khơng muốn bị lép
vế về chính trị. Hiện nay, Nhật Bản có tham vọng chi phối và quyết định
nhiều vấn đề chính trị quốc tế. Chẳng hạn, Nhật Bản đã thông qua dự luật
PKO cho phéo điều quân đội ra nước ngồi tham dự lực lượng gìn giữ hồ
bình của LHQ, tìm cách tăng ngân sách qn sự, tăng cường đầu tư, quan hệ
song phương và đa phương với các nước lớn và khu vực, ra sức vận động đòi
cải cách cơ cấu tổ chức của LHQ, mở rộng số uỷ viên thường trực Hội đồng
bảo an trong đó, Nhật Bản chiếm một ghế trong tổ chức đầy quyền lực này...
tương xứng với tầm vóc kinh tế của Nhật Bản...
Liên minh Tây Âu (EU) với chương trình mở rộng các nước thành viên,
nhất thể hoá về tiền tệ, kinh tế và chính trị đầy tham vọng và có tính hiện



18
thực đang thực sự là một trung tâm kinh tế, chính trị lớn trên thế giới. Hiện
nay, Liên minh Châu Âu là một thực thể kinh tế - chính trị trải dài trên một
diện tích từ Bắc Âu đến Nam Âu, từ Đại Tây Dương đến Ban Căng, chiếm
gần hết diện tích Châu Âu (trừ Nga), với số dân 370 triệu người, với một tiềm
lực kinh tế còn mạnh hơn Nhật Bản. EU có trình độ cơng nghệ cao, chiếm giữ
nhiều lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, có quan hệ truyền thống về kinh tế, văn hố,
ngơn ngữ, chủng tộc với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Những năm
gần đây, EU và các thành viên chủ chốt của nó ngày càng trở nên năng động
hơn, chủ động mở rộng và tăng cường các quan hệ quốc tế. Thông qua một số
tổ chức như "khối thịnh vượng chung" của các quốc gia nằm trong Liên Hiệp
Anh "cộng đồng Pháp ngữ", các cuộc đối thoại Á - Âu (ASEM); EU với
ASENA; quan hệ song phương và đa phương giữa Pháp, Đức, Anh... với Nga,
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, ASEAN... hoặc tham gia vào giải quyết các
điểm nóng ở Châu Phi, Trung Đông... đã cho thấy EU đang thật sự cạnh tranh
với quyền bá chủ của Mỹ.
Trong các hội nghị quốc tế, các quan hệ song phương và đa phương, trên
diễn đàn LHQ, các nước Đức, Pháp, Anh... công khai bày tỏ quan điểm đòi
thiết lập trật tự thế giới đa cực, bác bỏ tham vọng của Mỹ trở thành một cực
duy nhất của trật tự thế giới mới.
Trung Quốc đang trở thành một đối thủ đáng gờm của Mỹ trong thế kỷ
XXI. Là một quốc gia rộng lớn với gần 1,3 tỉ người; Trung Quốc cũng đầy
tham vọng trong quan hệ quốc tế. Với những thành tựu kỳ diệu đạt được về
kinh tế trong quá trình cải cách, mở cửa, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc tăng liên tục. Nhiều chiến lược gia kinh tế nhận định thế kỷ XXI là thế
kỷ Trung Quốc; Trung Quốc sẽ vượt Mỹ, Nhật... trở thành siêu cường kinh tế
thế giới. Năm 2008, Trung Quốc đã vươn lên vượt Đức, trở thành nền kinh tế
thứ ba trên thế giới; và các chuyên gia kinh tế còn khẳng định năm 2009
Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật bản, trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới.

Trong quan hệ chính trị thế giới, Trung Quốc ứng xử một cách độc lập, tự
chủ, lấy lợi ích quốc gia làm nền tảng. Những năm gần đây, Trung Quốc thực


19
hiện chiến lược đối ngoại đa phương "Đông - Tây, Nam - Bắc" để mở rộng
ảnh hưởng ra khắp các khu vực; thành lập quan hệ hợp tác chiến lược với
Nga, hữu hảo với Nhật, thân thiện với Pháp, Đức, Anh, hoà dịu với Ấn Độ,
đối thoại với ASEAN... tăng cường vị thế với các nước đang phát triển... làm
cho Trung Quốc ngày càng có vai trị của một trung tâm kinh tế, chính trị thế
giới cạnh tranh và cản trở Mỹ thực hiện tham vọng bá chủ, đồng thời thực
hiện tham vọng lớn, sâu xa của mình. Việc Trung Quốc cùng Nga và một số
nước Trung Á thành lập nhóm Thượng Hải, tổ chức các cuộc tập trận quân sự
và diễn tập chống khủng bố với quy mô lớn, thể hiện sức mạnh răn đe và đối
trọng với Mỹ trên các khu vực nhạy cảm trên thế giới.
Liên bang Nga là chủ thể thừa kế trực tiếp của Liên Xô - một siêu cường
thế giới trước đây. Hơn một thập niên, sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga
lâm vào khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, Liên bang Nga vẫn
là một cường quốc quân sự và vẫn là một thực tế kinh tế đầy tiềm năng, có
sức mạnh tiềm tàng để trở thành một cường quóc thế giới. Từ năm 2000 đến
nay, dưới thời Tổng thống Putin, Nga thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế,
chính trị và có sự phát triển mạnh mẽ. Gần đây Liên bang Nga phần nào lấy
lại vị thế của mình, đang tìm mọi cách để khơi phục lại ảnh hưởng, vai trò của
một cường quốc trong quan hệ quốc tế. Nga vẫn là nịng cốt trong SNG, có
ảnh hưởng lớn ở Châu Âu, thiết lập liên minh với Bêlarút, tăng cường hợp tác
với Ấn Độ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản; tham gia giải quyết xung đột ở Trung
Đông, chương trình hạt nhân của IRan, CHĐCN Triều tiên, tỏ ra cứng rắn với
chủ nghĩa ly khai dân tộc vùng Cápcadơ. Đẩy mạnh hiện đại hoá quân sự tăng
cường sức mạnh răn đe hạt nhân. Những động thái đó cho thấy Liên bang
Nga khơng cam chịu đánh mất những gì cịn lại sau khi Liên Xô tan vỡ, mà

hơn nữa đang tìm lại vị thế của một siêu cường.
Ngồi ra, qn trình tồn cầu hố, khu vực hố đang tạo ra những thực
thể kinh tế - chính trị mới có vảitị ngày càng lớn như ASEAN, Ấn Độ,
Braxin, Châu Mỹ la tinh, Châu Phi... Đặc biệt là những biến động dữ dội của
thế kỷ XX, loài người tiến bộ, các quốc gia dân tộc đang phát triển ngày càng


20
thức tỉnh. Xu thế giữa vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, mở rộng hợp tác
quốc tế, khát vọng vì một thế giới hồ bình, cơng bằng, bình đẳng và tiến bộ
ngày càng mạnh mẽ.
Tất cả những tác động to lớn đó, rõ ràng làm cho tham vọng bá chủ thế
giới, thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mỹ là khơng có khả năng hiện thực.
Thế giới sau "chiến tranh lạnh", trật tự hai cực tan rã, đang trong quá trình
vận động theo xu hướng hình thành nhiều trung tâm nhiều cực. Mặc dù hiện
nay, cục diện thế giới còn diễn biến phức tạp, song xu thế phân cực ngày càng
bộc lộ rõ rệt hơn. Đối với lồi người tiến bộ, cuộc đấu tranh vì một trật tự thế
giới mới: hồ bình, cơng bằng, dân chủ và tiến bộ ngày càng sâu rộng và
mạnh mẽ.
3. 2. Xu thế QHQT
Một là, hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, và ngày càng
trở nên cấp thiết và là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc.
Các nước XHCN đang đẩy mạnh đổi mới, cải cách hoặc điều chỉnh chính
sách để phát triển; các nước chậm phát triển và đang phát triển cần thời gian để
xây dựng; các nước lớn và các nước phát triển cũng cần sự ổn định để tăng
cường thế lực, ảnh hưởng. Sau khi trật tự thế giới hai cực tan rã, hiện nay trên
thế giới các nước phát triển đang có sự điều chỉnh chiến lược, sắp xếp lực lượng,
tìm kiếm đối tác, lợi ích và mâu thuẫn giữa các nước lớn đan xen nhau, tạo ra
cục diện vừa đấu tranh vừa hợp tác. Trên thế giới đang diễn ra quá trình hình
thành trật tự thế giới đa trung tâm, đa cực. Cuộc đấu tranh giữa các chủ thể

QHQT cho trật tự thế giới diễn ra phức tạp. Tuy nhiên, về cơ bản hồ bình, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới hiện nay.
Hai là, tồn cầu hố và khu vực hố là một xu thế khách quan và ngày
càng rõ nét trong đời sống quốc tế. Do sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, của lực lượng sản xuất, sự bùng nổ của thông tin, sự ra
đời của Intert và kinh tế tri thức, sự giao lưu về kinh tế , chính trị, văn hố, xã
hội... cũng như do nhu cầu động cơ, mục tiêu lợi ích khác nhau của các chủ
thể QHQT, làm cho q trình tồn cầu hoá, khu vực hoá ngày càng tăng lên,


21
chi phối đến đời sống quốc tế, mở ra triển vọng mới cho các nền kinh tế tham
gia phân công lao động quốc tế.
Tồn cầu hố tuy là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia, nhưng nó lại được các chủ thể lợi dụng với động cơ mục đích
khác nhau. Thực tế quan hệ quốc tế đang chứng tỏ, tồn cầu hố đang bị chủ
nghĩa đế quốc lợi dụng và sử dụng quá trình này để giành giật được nhiều lợi
ích, thúc đẩy tự do hố thương mại, dịch vụ, đầu tư tồn cầu... với những lợi
thế áp đảo.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển cũng lợi dụng cơ hội này để tiếp
thu khoa học, công nghệ cao, vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, đội ngũ
cơng nhân lành nghề. Vì vậy, trên thế giới, các nước lớn, nhỏ, phát triển,
đang phát triển ngày càng tham gia rộng rãi vào quá trình hợp tác, liên kết
khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại... hợp tác và đấu tranh, liên
kết và cạnh tranh trong cùng tồn tại hồ bình đan xen, đi liền với nhau và
diễn biến rất quyết liệt. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật các nguồn
tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ giữa các nước ngày
càng gay gắt. Đặc biệt, nó đặt ra cho các nước đang phát triển những thời cơ
và thách thức cực kỳ to lớn có ý nghĩa sống cịn đối với độc lập, chủ quyền và
khả năng phát triển.
Ba là, các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt, trong cuộc đấu

tranh đó, các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu
tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ
quyền và nền văn hoá dân tộc.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản, các thế lực xâm lược, hiếu chiến, bá quyền,
vẫn không từ bỏ tham vọng nô dịch các dân tộc. Họ sử dụng sức mạnh kinh
tế, các thủ đoạn chính trị xảo quyệt để áp đặt tư tưởng chính trị, áp đặt các
giá trị; can thiệp vào cơng việc nội bộ, thậm chí khơng từ bỏ dùng sức mạnh
bạo lực tàn bạo để đạt mục tiêu. Hành động đó đi ngược lại lợi ích chính đáng
của các dân tộc. Mặt khác, các dân tộc ngày càng thức tỉnh về chủ quyền và
sức mạnh của mình, không dễ dàng chấp nhận sự áp đặt, can thiệp từ bên


22
ngoài. Bởi vậy, nâng cao ý thức độc lập tự chủ, bảo vệ chủ quyền, bản sắc
văn hoá dân tộc là một xu thế trong quan hệ quốc tế hiện nay không chỉ với
các nước đang phát triển mà cả một số nước phát triển.
Trong công cuộc đổi mới, cải cách, các nước XHCN giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi
mới và cải cách vẫn đang tiếp tục được đẩy mạnh theo định hướng XHCN, lòng
tin của nhân dân với Đảng cộng sản và chế độ XHCN ngày càng cao.
Phong trào độc lập dân tộc, các nước khơng liên kết càng tăng cường
đồn kết, đấu tranh bảo vệ quyền lợi chủ quyền dân tộc, tăng cường hợp tác
quốc tế, tìm tịi con đường phát triển đất nước, tích cực đấu tranh vì một trật
tự thế giới mới về kinh tế, chính trị, vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Phong trào công nhân, các đảng cộng sản ở nhiều nước trên thế giới đang
phục hồi, củng cố, giành được nhiều thắng lợi mới trong cuộc đấu tranh vì
hồ bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các phong trào hồ bình, dân
chủ trên thế giới cũng ngày càng trở thành lực lượng to lớn. Như vậy, thực tế
cho thấy, xu thế này ngày càng tỏ rõ sự chuyển biến mạnh mẽ, biểu hiện

chiều hướng phát triển tốt hơn của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trong
những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Bốn là, những cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột dân
tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ ly khai, hoạt
động khủng bố, tranh chấp về biên giới lãnh thổ, biển đảo và tài nguyên thiên
nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.
Năm là, các vấn đề toàn cầu ngày càng bức xúc đòi hỏi các quốc gia và
các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết như: chênh lệch giàu nghèo, giữa các
nước phát triển và đang phát triển ngày càng lớn; sự gia tăng dân số, tình hình
di cư, khan hiếm năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, thiên
tai, dịch bệnh lớn, tội phạm xuyên quốc gia…
Sáu là, khu vực châu Á- Thái Bình Dương và Đơng Nam Á xu thế hồ
bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố


23
bất ổn định như tranh chấp về ảnh hưởng quyền lực, biên giới, lãnh thổ, biển
đảo, tài nguyền giữa các nước; những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở
một số nước.
Các xu thế và tình hình quốc tế trên đây tạo ra và thúc đẩy tính đa
phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của các nước.



×