Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Ca dao tình cảm gia đình với việc giáo dục học sinhTiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.2 KB, 55 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
------------------

TRẦN THỊ HỒNG

CA DAO TÌNH CẢM GIA ĐÌNH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC HỌC SINH TIỂU HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. ĐỖ THỊ HUYỀN TRANG

HÀ NỘI, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
------------------

TRẦN THỊ HỒNG

CA DAO TÌNH CẢM GIA ĐÌNH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC HỌC SINH TIỂU HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. ĐỖ THỊ HUYỀN TRANG


HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo cô trong khoa Giáo dục
Tiểu học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ em trong quá trình
học tập tại trường và tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô
giáo - Ths. Đỗ Thị Huyền Trang - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em
trong quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Và cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới sự quan tâm và ủng hộ từ gia
đình, bạn bè. Đó chính là nguồn động viên tinh thần to lớn giúp em có thể
hoàn thành khóa luận này một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Hồng


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Ca dao tình cảm gia
đình với việc giáo dục học sinhTiểu học” là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của cô giáo Ths. Đỗ Thị Huyền Trang. Đề tài này
chưa được công bố dưới bất kì hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2018
Sinh viên


Trần Thị Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................ 8
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 8
6. Cấu trúc khóa luận .................................................................................... 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................... 9
1.1. Đặc điểm học sinh lứa tuổi Tiểu học ..................................................... 9
1.1.1. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống của học sinh
Tiểu học ..................................................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học .................................. 10
1.1.3. Đặc điểm thẩm mỹ của học sinh Tiểu học .................................... 12
1.1.4. Đặc điểm nhân cách của học sinh Tiểu học ................................. 13
1.2. Giới thiệu khái quát về ca dao tình cảm gia đình ................................ 16
1.2.1. Khái niệm ca dao .......................................................................... 16
1.2.2. Phân loại ca dao ........................................................................... 20
1.2.3. Ca dao tình cảm gia đình .............................................................. 21
Chương 2. Ý NGHĨA CA DAO TÌNH CẢM GIA ĐÌNH VỚI VIỆC GIÁO
DỤC HỌC SINH TIỂU HỌC ......................................................................... 27
2.1. Ca dao tình cảm gia đình với việc giáo dục nhận thức cho học sinh
Tiểu học ....................................................................................................... 27
2.1.1. Giáo dục những hiểu biết về mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình .......................................................................................... 27

2.1.2. Giáo dục nhận thức về những nguyên tắc của đạo lý làm người . 31


2.2. Ca dao tình cảm gia đình bồi dưỡng tình cảm đạo đức và hình thành
nhân cách cho trẻ ......................................................................................... 35
2.2.1. Ca dao tình cảm gia đình hình thành tình yêu ông bà, cha mẹ .... 35
2.2.2. Ca dao tình cảm gia đình hình thành và phát triển đức tính của
con người................................................................................................ 37
2.3. Ca dao tình cảm gia đình bồi dưỡng năng lực cảm thụ Văn - Tiếng
Việt cho học sinh Tiểu học.......................................................................... 39
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 44
PHỤ LỤC


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ ngàn năm nay, trên khắp mọi miền của đất nước, trẻ em lớn lên
không chỉ nhờ dòng sữa ngọt ngào của mẹ mà còn qua lời ru êm đềm của bà,
của mẹ. Tuổi thơ của các em đã không thể thiếu được những bài ca dao dân ca
mang đậm hơi thở của làng quê, con người Việt Nam hay những câu chuyện
cổ tích thần kỳ qua lời kể của bà. Với các em, các tác phẩm văn học dân gian
không chỉ dựng lên những thước phim quay chậm tái hiện lại một cách chân
thực, mộc mạc, sống động về nếp sinh hoạt, lao động của con người qua bao
thế hệ mà còn chứa đựng nguồn tri thức phong phú được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau như các bài đồng dao, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn…

Nhờ sự đa dạng trong cách thể hiện của văn học dân gian mà biết bao những
tình cảm dung dị, thuần phong mỹ tục, những bài học đạo lý làm người quý
báu… đã tự nhiên đi vào những trí óc non trẻ của các em. Thế giới của văn
học dân gian tựa như những dòng suốt mát lành, là cái nôi nuôi dưỡng những
giá trị tinh thần nhân văn sâu sắc đối với tâm hồn thơ ngây của học sinh Tiểu
học. Có thể nói, văn học dân gian có vai trò quan trọng trong sự phát triển của
trẻ em nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng.
Cũng như các thể loại khác của văn học dân gian, ca dao ra đời sớm và
nó bắt nguồn từ những sinh hoạt đời sống hằng ngày của con người; cũng bởi
thế mà ca dao tồn tại gắn chặt với hoạt động sinh hoạt của cuộc sống thường
nhật. Những bài ca dao về tình cảm gia đình chính là một trong những biểu
hiện sống động mà gần gũi, thân thuộc của ca dao trong cuộc sống hiện đại
ngày nay. Có thể nhận định rằng: “Gia đình là nguồn đề tài chiếm số lượng
khá lớn trong ca dao bởi „gia đình cá thể là hình ảnh thu nhỏ của những mối
quan hệ xã hội‟, là nơi các thành viên trong gia đình thể hiện cảm nghĩ của
mình một cách rõ nét nhất. Đó là các mối quan hệ giữa ông bà - cháu, cha

Trần Thị Hồng

1

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

mẹ - con cái, vợ - chồng, anh - em”[16]. Ca dao về tình cảm gia đình luôn
đem lại cho người đọc đặc biệt là học sinh Tiểu học cảm giác chân thành, ấm

áp, chan chứa ân tình mà ở đó mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
được phản ánh đầy đủ và sinh động. Bên cạnh đó, nội dung chủ yếu trong ca
dao tình cảm gia đình là thể hiện chân thực, tự nhiên tình cảm thân thiết giữa
những người thân trong gia đình với nhau. Để rồi từ đó, ca dao về tình cảm
gia đình đã giáo dục cho trẻ biết yêu thương, quý trọng gia đình, trân trọng và
gìn giữ những tình cảm thiêng liêng, cao cả mà thân thiết, ấm áp. Như vậy, ca
dao tình cảm gia đình đã tác động vào tư tưởng của học sinh Tiểu học, chạm
vào trái tim của các em với những cung bậc cảm xúc khác nhau làm cho đời
sống tình cảm của các em ngày một phong phú. Điều này đã chứng tỏ vai trò
cũng như tầm quan trọng về sự tồn tại của ca dao tình cảm gia đình trong lời
ăn tiếng nói cũng như trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối
sống hằng ngày cho trẻ để từ đó các em hình thành nên những thứ tình cảm
cao đẹp hơn như tình yêu làng xóm, tình yêu quê hương, đất nước…
Là một giáo viên tiểu học tương lai, tôi đã được nghiên cứu và tìm hiểu
về tâm lý cũng như sự phát triển của học sinh lứa tuổi tiểu học. Hơn nữa, cùng
những trải nghiệm tuổi thơ ở một vùng quê yên bình với những khúc hát ru
bình dị, mộc mạc của bà, của mẹ; với những bài đồng dao hay khúc hát dân ca
khi chơi chuyền, chơi chắt, khi chăn trâu cắt cỏ cùng bạn bè… tôi càng nhận
thức được ý nghĩa của những bài ca dao về tình cảm gia đình trong quá trình
phát triển tâm lý của mỗi trẻ em.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Ca dao tình cảm
gia đình với việc giáo dục học sinh tiểu học” nhằm góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục giúp học sinh phát triển toàn diện.
2. Lịch sử vấn đề
Vốn là một bộ phận quan trọng trong dòng văn học dân gian, ca dao

Trần Thị Hồng

2


K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

giống như một tấm gương muôn màu đã soi chiếu và phản ánh một cách
thành công, đầy đủ đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú của những người
bình dân xưa. Ở đó, đề tài về ca dao gia đình luôn đem lại cho người đọc cảm
giác gần gũi, thân thiết và chiếm được sự quan tâm của nhiều tác giả. Tuy
nhiên ca dao về tình cảm gia đình chưa được chú ý nhiều và chưa được
nghiên cứu thành hệ thống.
Năm 1978, trong “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (NXB Khoa học
xã hội) khi nói về hôn nhân và gia đình, nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc
Phan đã đề cập đến một mảnh ghép trong nội dung tình cảm gia đình trong ca
dao. Đó là tình cảnh người phụ nữ lấy phải chồng không ra gì; về tình nghĩa
vợ chồng và tình yêu của phụ nữ đối với chồng; chế độ đa thê và cảnh góa
bụa… Ở đây, ông mới chỉ đưa ra những câu ca dao để dẫn chứng cho từng nội
dung trên chứ chưa có sự phân tích tỉ mỉ nội dung từng câu ca dao đó.
Năm 1997, trong cuốn “Phê bình bình luận văn học ca dao, dân ca,
tục ngữ, vè” (Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn và trích dẫn ‒ NXB Văn nghệ thành
phố Hồ Chí Minh), với bài viết “Những bài ca dao ân tình nghĩa tình” (tình
cảm gia đình) các tác giả đã chỉ ra nội dung của ca dao dân ca trữ tình về sinh
hoạt gia đình là diễn tả mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình: cha
mẹ và con cái, vợ chồng, anh em, chị em, họ hàng… Trong đó, tác giả đã
trích dẫn một số câu ca dao về một nội dung biểu hiện của tình cảm gia đình
qua các câu ca dao thể hiện tâm trạng bùi ngùi, xót xa của những người vợ
kém may mắn:



“Đường đi những lách cùng lau,
Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con.
Duyên sao cắc cớ hỡi duyên
Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai.”

Trần Thị Hồng

3

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

“ Nào khi anh bủng anh beo,
Tay anh cất chén thuốc tay đèo múi chanh.
Bây giờ anh khỏi anh lành,
Anh mê nhan sắc anh tình phụ tôi!”

Đưa ra những câu ca dao trên, các tác giả muốn nói tới “Đức hy sinh,
quên mình vì hạnh phúc của chồng con, một đức tính truyền thống lâu đời
của người vợ, người mẹ Việt Nam”- một khía cạnh của ca dao về tình cảm
gia đình.
Năm 2002, nhóm tác giả Phạm Thu Yến, Lê Trường Phát, Nguyễn Thị
Bích Hà đã biên soạn giáo trình Văn học dân gian (NXB Đại học Sư phạm)
khi nói về ca dao sinh hoạt, các tác giả đã đề cập đến các bài ca dao về sinh

hoạt gia đình:


“Em ơi em ngủ cho say
Cha mẹ đi cày, chị phải nấu cơm.”



“ Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.”



“ Lên mon ngậm ngải tìm trầm
Đền công ơn cha mẹ đã lao tâm sinh thành.”

Các bài ca dao mà nhóm tác giả đưa ra bình dị, mộc mạc, thể hiện được
tình cảm gia đình giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng gắn bó yêu thương nhưng
đa phần ca dao về tình cảm gia đình đều là lời của người phụ nữ đảm đang, vị
tha, chung thủy.
Năm 2007, tác giả Nguyễn Xuân Lạc trong cuốn Phân tích – Bình
giảng tác phẩm văn học dân gian nhà xuất bản Giáo dục đã dành hẳn phần II
để phân tích về các câu ca dao dân ca trong đó có nhắc đến những câu hát về
tình cảm gia đình qua đó nhắc nhở con cháu về công ơn sinh thành của ông

Trần Thị Hồng

4

K40E - GDTH



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

bà, cha mẹ và mối quan hệ huyết thống giữa anh em trong gia đình.
Năm 2014, trong bài viết Hạnh phúc gia đình trong ca dao dân ca trên
báo điện tử Tổ quốc, tác giả Dương Thuấn đã nói về hạnh phúc gia đình bình
dị, đơn sơ qua các câu ca dao ở nhiều khía cạnh khác nhau như tình cảm vợ
chồng thắm thiết gắn bó:
“Chồng khôn vợ được đi hài,
Vợ khôn chồng được nhiều bài cậy trông.”
Vợ chồng sống với nhau có lúc có chuyện này chuyện kia, có khi va
chạm với nhau nhưng cả hai cùng luôn giữ ý tứ và cảm thông cho nhau. Bên
cạnh đó, tác giả còn nói về tình cảm anh em trong gia đình:
“Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”
Hay tình cảm con cái đối với cha mẹ như:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Năm 2016, trong Văn hóa hôn nhân và gia đình trong tục ngữ ca dao
của Nguyễn Nghĩa Dân, tác giả đã nhận định rằng: “Trong giáo dục nhân
cách, tục ngữ ca dao rất chú trọngđạo làm người bởi quan hệ đạo đức của
con người phải được hình thành từ trong gia đình, từ tấm bé để rồi đạo đức
ấy được định hình, lan tỏa từ gia đình ra cộng đồng xã hội.”[93] và tác giả đã
chỉ ra rằng “Rõ ràng tục ngữ ca dao về văn hóa hôn nhân và gia đình Việt
Nam là tấm gương chân thực, là tư liệu quý giá để nghiên cứu văn hóa truyền

thống Việt Nam.”[98] và ngay trong tác phẩm này, Nguyễn Nghĩa Dân đã sưu
tậm và giới thiệu các câu ca dao về tình cảm gia đình:

Trần Thị Hồng

5

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

“Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.”



“Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.”



“Làm trai nết đủ trăm đường
Trước tiên điều hiếu đạo thường xưa nay.
Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấm lạnh giữ phần đạo con.”

Có thể nói, tất cả các ý kiến, nhận xét trong các giáo trình, các công
trình nghiên cứu khoa học trên đều xác đáng, song hầu hết mới chỉ dừng lại ở
mức độ khái quát hay mới chỉ đề cập đến một phương diện của ca dao về tình
cảm gia đình, rất ít công trình nghiên cứu cụ thể, chi tiết. Nó chưa được
nghiên cứu thành đề tài riêng và vẫn còn đang là “mảnh đất màu mỡ” cần sự
vun trồng, chờ đợi lòng say mê nghiên cứu của những ai quan tâm đến ca dao.
Là sinh viên năm cuối, lần đầu được nghiên cứu khoa học, ở khóa luận này,
trên cơ sở gợi ý quý báu của những người đi trước, tôi tình hiểu đề tài “Ca
dao tình cảm gia đình với việc giáo dục học sinh tiểu học” để đưa ra một cái
nhìn cụ thể và toàn diện hơn về tình cảm gia đình trong ca dao và góp phần
vào việc giáo dục học sinh Tiểu học.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài: “Ca dao tình cảm gia đình với vệc giáo dục học sinh tiểu học”
nhằm chỉ ra được vai trò của văn học dân gian nói chung và ca dao tình cảm

Trần Thị Hồng

6

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


gia đình nói riêng trong việc giáo dục học sinh Tiểu học.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ca dao tình cảm gia đình với việc giáo
dục học sinh Tiểu học.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
‒ Tuyển tập Ca dao Việt Nam đặc sắc của Phúc Hải (tuyển chọn) (2014),
nhà xuất bản Thời đại.
‒ Sách giáo khoa Tiếng Việt (tập một, tập hai) lớp 1,2,3,4,5.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê
Phương pháp tổng hợp tài liệu
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp phân tích
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Phụ lục, Nội dung khóa luận gồm
hai chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Ý nghĩa của ca dao tình cảm gia đình với việc giáo dục học
sinh tiểu học

Trần Thị Hồng

7

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Đặc điểm học sinh lứa tuổi Tiểu học
Học sinh Tiểu học là thiếu nhi từ 6 đến 11 tuổi. Ở gia đoạn này, có thể
nhận thấy các em có những đặc điểm như sau:
1.1.1. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống của học sinh Tiểu học
1.1.1.1. Về hoạt động
Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi thì đến
bậc tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ
hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Sinh hoạt học tập của trẻ rất dễ
hào hứng để cuốn theo các ý tưởng, các kiến thức mới lạ và không ngừng đặt
ra nhứng câu hỏi thắc mắc để tìm ra tri thức mới. Tuy nhiên, song song với
hoạt động học tập thì ở trẻ còn diễn ra các hoạt động khác như:
+ Hoạt động vui chơi : Đối tượng vui chơi của trẻ thay đổi từ chơi với đồ
vật sang chơi các trò chơi vận động.
+ Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia vào các hoạt động lao động
đơn giản của gia đình và nhà trường.
+ Hoạt động xã hội: học sinh bắt đầu tham gia vào các phong trào, hoạt
động của lớp, trường và cộng đồng dân cư.
1.1.1.2. Về môi trường sống
Không giống với giai đoạn mầm non, ở giai đoạn tiểu học các em có sự
thay đổi rõ rệt về môi trường sống. Các em không còn nhút nhát, rụt rè mà
thích tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh. Các em mạnh dạn, tự tin hơn
trong các hoạt động ở gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy, môi
trường hoạt động của trẻ có nhiều thay đổi đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý


Trần Thị Hồng

8

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

thời gian lên tục từ 30 – 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham
hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu trẻ đã biết kiềm chế dần tính hiếu
động, bột phá để chuyển thành tính kỷ luật. nề nếp, chấp hành nội quy học
tập. Phát triển độ tinh nhạy và các thao tác tinh khéo của đôi bàn tay để học
tập. Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những điều
này thì cần phải có sự quan tâm, giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội
dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
1.1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học
Ở học sinh lứa tuổi Tiểu học, tri giác mang tính đại thể, toàn bộ, ít đi sâu
vào chi tiết nhất là đối với học sinh các lớp đầu Tiểu học (lớp 1, 2), tuy nhiên
trẻ cũng bắt đầu có khả năng phân tích dấu hiệu, chi tiết nhỏ của một nội dung
nào đó và tri giác mang tính ổn định. Tri giác, đánh giá không gian và thời
gian còn hạn chế, tri giác chưa chính xác về độ lớn của các vật quá to hoặc
quá nhỏ.
Tư duy của học sinh đầu cấp Tiểu học (lớp 1, 2, 3) là tư duy cụ thể mang
tính hình thức, dựa vào đặc điểm bên ngoài. Các phẩm chất tư duy chuyển
dần từ tính cụ thể sang tính khái quát. Khi khái quát, trẻ thường dựa vào chức
năng và công cụ của sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó tiến hành phân loại. Khả
năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi. Đến các lớp 4, 5, các em bắt

đâu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, ở phần đông học sinh hoạt động
phân tích, tổng hợp còn sơ đẳng . Việc học Tiếng Việt và Toán sẽ giúp các em
biết phân tích, tổng hợp.
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với
trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dày dặn.
Ở đầu tiểu học, tưởng tượng còn tản mạn ít có tổ chức, hình ảnh tưởng tượng
cong đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. Ở cuối tiểu học, tưởng tượng tái
tạo bắt đầu phát triển và từng bước hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái

Trần Thị Hồng

9

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

tạo ra hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn
cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh…
Đặc biệt tưởng tượng giai đoạn này có sự chi phối mạnh mẽ của xúc cảm, tình
cảm, những hình ảnh, sự vật, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với sự rung
động tình cảm của trẻ.
Về trí nhớ, giai đoạn lớp 1, 2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt
và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ
chức ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết
khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. Giai đoạn lớp 4, 5 ghi
nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ logic được tăng cường. Ghi nhớ có chủ

định đã phát triển. Ghi nhớ có chủ đích giúp trẻ nhớ nhanh hơn, lâu hơn và
chính xác hơn. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ gắn với mục đích còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tập trung trí tuệ của các em, sức hấp
dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của trẻ…
Chú ý có chủ định ở học sinh tuổi đầu tiểu học còn yếu, khả năng kiểm
soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Trong giai đoạn này chú ý có chủ định
không chiếm ưu thế bằng với chú ý không chủ định. Chú ý của trẻ bị chi phối
bởi hững môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn, có nhiều
tranh ảnh, … Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa
thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Ở cuối tiểu học,
trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ
định phát triển dần và ngày càng chiếm ưu thế, các em đã có sự nỗ lực trong
học tập như cố gắng học thuộc một bài thơ, một bài hát dài hay một công thức
toán… Chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện sự giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ
đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để hoàn thành một công việc
nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.

Trần Thị Hồng

10

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.1.3. Đặc điểm thẩm mỹ của học sinh Tiểu học
Thẩm mỹ là sự cảm thụ và hiểu biết cái đẹp. Giáo dục thẩm mỹ là một

quá trình tác động có hệ thống và có mục đích vào nhân cách của cá nhân
nhằm phát triển năng lực cảm thụ và nhận biết cái đẹp trong nghệ thuật, trong
tự nhiên và trong đời sống xã hội, giáo dục lòng yêu cái đẹp và đưa cái đẹp
vào trong đời sống một cách sáng tạo.
Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển
toàn diện đối với thế hệ trẻ và cần được tiến hành ở lứa tuổi tiểu học. Hầu hết
trẻ thơ đều có tâm hồn nhạy cảm. Với các em, thế giới xung quanh chứa
đựng bao điều mới lạ, hấp dẫn. Các em thường dễ xúc cảm với con người và
cảnh vật xung quanh. Tính hình tượng đang phát triển mạnh mẽ và gần như
chi phối mọi hoạt động của trẻ. Nhờ vậy mà năng khiếu nghệ thuật của trẻ
được nảy sinh từ tuổi thơ và tất nhiên việc giáo dục thẩm mỹ cần được tiến
hành ngay ở lứa tuổi Tiểu học để ươm mầm những tài năng cho tương lai.
Khái niệm giáo dục thẩm mỹ là một khái niệm rộng, trong đó chủ yếu là
giáo dục thái độ thẩm mỹ với thế giới xung quanh các em như thiên nhiên,
lao động, đời sống xã hội, sinh hoạt, và nghệ thuật. Bởi thế, thẩm mỹ thuộc
phạm trù quan hệ và đánh giá. Khi có quan hệ với đối tượng thẩm mỹ, cá
nhân bộc lộ quan điểm, thái độ của mình qua sự đánh giá về đối tượng. Trong
tâm lí, thái độ được lí giải như một mối liên hệ giữ con người với hiện
thực.Thái độ thẩm mỹ của trẻ thế giới xung quanh là một hệ thống hoàn chỉnh
của những mối liên hệ cá nhân, có chọn lọc của trẻ với những phẩm chất mĩ
học xung quanh.
Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh Tiểu học có mối liên hệ mật thiết với
giáo dục đạo đức và giáo dục trí tuệ. Đối với học sinh Tiểu học, tính thẩm mỹ
được nhìn nhận từ góc độ đạo đức, tức là giúp học sinh nhận biết và phân biệt
được cái đẹp, cái xấu. Từ việc nhận thức được cái đẹp, cái xấu của sự vật,

Trần Thị Hồng

11


K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

hiện tượng học sinh dần bồi đắp nên những cảm xúc thẩm mỹ. Cảm xúc thẩm
mỹ không chỉ được xây dựng trên cơ sở cảm thụ cái đẹp mà còn dựa vào sự
hiểu biết sâu sắc nội dung, tư tưởng của các tác phẩm nghệ thuật. Những cảm
xúc thẩm mỹ có sự ảnh hưởng lớn tới đạo đức con người và làm cho tính cách
con người thêm cao thượng. Cảm xúc thẩm mỹ làm cho cuộc sống của trẻ
thêm phong phú, góp phần giáo dục tính lạc quan, yêu đời của các em, đồng
thời khơi gởi các em tính tích cực, sáng tạo và ảnh hưởng đến việc hình thành
mối quan hệ giữa trẻ với mọi người xung quanh và cuộc sống. Giáo dục thẩm
mỹ xây đắp để sự tự giác ngày càng hoàn thiện hơn, làm cho việc hiểu cái đẹp
đã tự giác ngày càng sâu sắc hơn và góp phần phát triển năng lực nhận thức
của mỗi cá nhân.
1.1.4. Đặc điểm nhân cách của học sinh Tiểu học
Khi đến độ tuổi Tiểu học, cuộc sống của trẻ được thiết kế lại, từ những
vấn đề trong cuộc sống đến các mối quan hệ với mọi người xung quanh cũng
như vị thế xã hội của trẻ. Vì vậy, cuộc sống của trẻ có nhiều thay đổi, trẻ phải
thực hiện một cách nghiêm chỉnh các hoạt động để thực thi các quyền lợi và
nghĩa vụ mới của người học sinh; trẻ phải thiết lập các mối quan hệ xã hội
mới với giáo viên, bạn bè cùng lớp, cùng trường; phải tham gia vào các hoạt
động tập thể với những chuẩn mực và giá trị nhất định; trẻ phải học cách tự
lập dần… Tất cả những điều ấy vừa nêu ra yêu cầu đồng thời cũng tạo ra cơ
hội để trẻ có những thay đổi nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách nói
chung cúng như từng thành phần trong cấu trức nhân cách nói riêng.
Về nhu cầu, ở học sinh Tiểu học, nhu cầu nhận thức gắn liền với nhu cầu

được tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh mình. Đầu tiên là nhu cầu tìm
hiểu những sự vật riêng lẻ, những hiện tượng riêng biệt gắn liền với câu hỏi
“Cái đó là cái gì?” (lớp 1, 2, 3). Sau đó đến nhu cầu giải quyết câu hỏi “Vì
sao?”, “Như thế nào?” (lớp 4,5) gắn liền với việc phát hiện nguyên nhân, quy

Trần Thị Hồng

12

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

luật, các mối quan hệ và quan hệ phụ thuộc giữa các sự vật, hiện tượng. Nhu
cầu nhận thức là một nhu cầu tinh thần lớn của con người, có một ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triền trí tuệ của trẻ giúp các em khám phá khó khăn
để tự mình chiếm lính tri thức, tự học suốt đời.
Tính cách của học sinh Tiểu học hình thành từ khá sớm từ thời kì trước
tuổi đi học. Mỗi em có một nét tính cách riêng biệt, có em thì trầm lặng, ít nói
nhưng có em lại năng nổ, hoạt bát, ham hoạt động, có em lại nhút nhát. Tuy
nhiên những nét tính cách này chỉ là tạm thời, chưa ổn định, có thể thay đổi
qua quá trình can thiệp, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội. Vì thế, đôi
khi chúng ta dễ nhầm tưởng trạng thái tâm lý tạm thời là nét tính cách của trẻ.
Ở độ tuổi Tiểu học, tính cách của trẻ có tính xung động trong hành vi, nói
cách khác là khi có sự kích thích từ bên ngoài hay bên trong thì trẻ thường có
khuynh hướng hoạt động mà ít suy nghĩ, cân nhắc. Đó cũng là nguyên nhân
làm cho hành vi của trẻ còn mang tính tự phát. Không chỉ vậy, trẻ ở lứa tuổi

này có sự cả tin. Trẻ dường như tin tưởng một cách tuyệt đối vào người lớn,
sách vở và cả bản thân mình. Với các em, mọi điều người lớn (đặc biệt là
thầy, cô giáo) nói ra đều đúng chuẩn mực nên các em thường thực hiện các
yêu cầu của giáo viên một cách vô điều kiện giống như “người chấp hành”.
Chính vì vậy, giáo viên cần tận dụng đặc điểm này để giáo dục các em, tuy
nhiên muốn làm tốt được điều này mỗi giáo viên cần là một tấm gương sáng,
có lời nói đi đôi với hành động để các em học tập. Ngoài ra, trong nét tính
cách của mỗi học sinh Tiểu học thường có một đặc điểm quan trong là tính
bắt chước. Trẻ thường bắt chước những những người xung quanh như người
lớn, bạn bè, nhân vật trong truyện tranh, thần tượng trên truyền hình, … Cho
nên, cần coi việc bắt chước như đặc điểm thuận lợi để giáo dục trẻ bằng tấm
gương cụ thể. Thực tế cho thấy, phần lớn học sinh Tiểu học đều có những nét
tính cách tốt như tính thật thà, lòng vị tha, sự ham hiểu biết…
Về tình cảm, tình cảm là thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối

Trần Thị Hồng

13

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

với sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu, động cơ của họ. Ở học sinh
Tiểu học, xúc cảm, tình cảm vẫn mang đặc điểm ở lứa tuổi trước. Trước hết,
tình cảm của các em còn mang tính cụ thể, trực tiếp hay là đối tượng tạo cảm
xúc cho các em thường là sự vật, hiện tượng cụ thể, sinh động mà các em có

thể đã từng thấy, tiếp xúc. Sau nữa, học sinh Tiểu học rất dễ xúc cảm thể hiện
ở tính giàu cảm xúc và tính dễ xúc động. Trẻ có thể dễ khóc trước những hoàn
cảnh thương tâm; vui sướng reo lên khi được điểm cao; buồn bã hay đôi khi là
khóc khi bị điểm kém hay bị chê trách;… Các em dễ dàng bộc lộ những cảm
xúc của bản thân một cách hồn nhiên, chân thật, không giấu giếm.; khả năng
kiềm chế cảm xúc yếu. Tình cảm của học sinh Tiểu học còn mong manh chưa
bền vững và chưa có sự sâu sắc. Các em đang khóc đấy nhưng lại có thể cười
ngay được, cảm xúc cũng như đối tượng cảm xúc dễ dàng bị thay đổi. Trong
quá trình học tập tại trường Tiểu học, đời sống tình cảm có nhiều sự biến đổi
diễn ra cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện, đồng thời khả năng kiềm chế
cảm xúc cũng dần được hình thành và phát triển. Nếu như ở lớp 1, trẻ hầu như
chưa có sự kiềm chế trong tình cảm thể hiện ở tính xung động trong hành vi
thường thấy trong biểu hiện tình cảm của trẻ như nói chuyện cười đùa tự do
trong giờ, bật khóc trước mặt người khác khi bị trách mắng… thì đến lớp 2, 3
trẻ bắt đầu có sự kìm nén trong việc thể hiện cảm xúc như biết cúi mặt hay
gục xuống bàn khi khóc, có sự ngại ngùng, lấy tay che miệng khi cười…Các
em có tình cảm đực biệt đối với người thân trong gia đình và thầy cô. Ở học
sinh Tiểu học, các tình cảm trí tuệ như ham học tập, ngạc nhiên, nghi ngờ, hài
lòng khi được điểm cao… dần được hình thành và phát triển một cách mạnh
mẽ. Bên cạnh đó, tình cảm thẩm mỹ ở các em cũng được phát triển mạnh.
Học sinh Tiểu học thích nhiều cái đẹp trong thiên nhiên như hoa lá, cây cỏ,
muông thú, …; yêu quý những thứ gần gũi xung quanh cuộc sống. Nhiều em
còn thể hiện sự ham thích văn học, hội họa, âm nhạc, …Không chỉ dừng lại ở

Trần Thị Hồng

14

K40E - GDTH



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

việc yêu thích các em đã biết thể hiện sự trân trọng, giữ gìn và chăm sóc cho
cái đẹp. Chính vì vậy, việc dùng các tác phẩm văn học nghệ thuật để tác động
đến cảm xúc của trẻ đặc biệt quan trọng. Giáo viên muốn giáo dục tình cảm
cho học sinh phải thể hiện một cách khéo léo, tế nhị những nội dung, ý nghĩa
của từng tác phẩm khi tác động đến học sinh.
Về ý chí và hành động ý chí, với học sinh Tiểu học, tình cảm giữ vai trò
rất quan trọng trong hành động ý chí của em đến nỗi trong một số trường hợp
tình cảm trở thành động cơ của hành vi, hành động. Do vậy, ở lứa tuổi này
tình cảm và ý chí có sự tác động qua lại lẫn nhau không ngừng. Các em chưa
có khả năng tự đặt ra mục đích và chưa tự lập kế hoạch cho hành động nên
học sinh không thể tập trung sức lực và kiên trì theo đuổi mục tiêu dẫn đến dễ
gặp thất bại và dễ mất lòng tin vào sức lực, khả năng của bản thân. Trẻ Tiểu
học có tính độc lập, kiềm chế và tự chủ trong hành động còn thấp, nên học
sinh Tiểu học nhất là các lớp đầu Tiểu học chưa có sự độc lập hoàn toàn trong
hành động mà còn phải trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác. Bên cạnh
đó, ý chí hành động của các em còn mang tính bột phát ngẫu nhiên làm cho
các em thường dễ bắt chước hành động của người khác và dễ bị ảnh hưởng
của các tác động xung quanh cuộc sống của các em.
1.2. Giới thiệu khái quát về ca dao tình cảm gia đình
1.2.1. Khái niệm ca dao
Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Nếu định nghĩa theo từ nguyên thì ca
là bài hát có chương khúc hoặc có âm nhạc kèm theo, còn dao là bài hát ngắn
không có chương khúc. Như vậy, xét về mặt bản chất thì ca dao và dân ca
hầu như không có sự khác biệt, không có ranh giới rõ ràng. Tuy nhiên, trên
thực tế thì thuật ngữ ca dao có nội dung hẹp hơn so với thuật ngữ dân ca.

Ngày xưa, phần lớn ca dao được tác giả dân gian sáng tác nên để hát, rồi sau
đó trong những bài hát có những câu tách ra thành ca dao. Có thể nói, ca dao

Trần Thị Hồng

15

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

được coi như lời của bài hát dân gian khi tách lời ca ra khỏi điệu hát hay phần
giai điệu âm nhạc nhằm phân biệt ca dao và dân ca về mặt diễn xướng. Một
bài ca dao chỉ đơn thuần thể hiện bằng cách đọc không cần luyến láy, nhạc
điệu cũng như không cần tiếng đệm thì là ca dao; còn một bài ca dao trở thành
một bài dân ca khi nó được dùng để hát, có nhạc đệm, giai điệu và sự đưa hơi
khi thể hiện. Do đó, khi khảo sát và phân tích về ca dao, chúng ta cần chú ý
đến yếu tố tính độc lập tương đối của văn bản để giúp tập hợp tư liệu, nghiên
cứu nội dung tư tưởng và giá trị thẩm mỹ của thể loại. Song không thể không
chú ý đến đặc trưng nguyên hợp về chức năng và nghệ thuật của tác phẩm
folklore, biểu hiện ở đặc điểm diễn xướng và chức năng thực hành - sinh hoạt
của ca dao. Nói cách khách, giảng dạy về ca dao phải chú ý đến nghĩa rộng
của khái niệm, nghĩa là phải quan tâm đến ba yếu tố gắn bó chặt chẽ trong đặc
trưng nguyên hợp, bao gồm:
- Lời ca: là yếu tố về ngôn từ, là chất liệu quan trọng mang đến ý nghĩa,
nội dung đích thực của một tác phẩm.
- Lối hát: chính là hình thức sinh hoạt, cách thể hiện hay phương thức

diễn xướng của ca dao. Khi diễn xướng một tác phẩm ca dao thường có hai
hình thức cơ bản là hát cuộc và hát lẻ.
- Điệu hát: nghĩa là làn điệu, giai điệu của lời hát, yếu tố âm thanh,
những tiếng đệm, yếu tố âm thanh, luyến láy, đưa hơi để tạo thành nét âm
nhạc và có những nét âm nhạc đặc thù như dân ca Quan họ, hát phường vải
Nghệ Tĩnh, hát Xoan ghẹo Phú Thọ…
Trong bảng phân loại các thể loại khác nhau của văn học dân gian thì
hầu hết các thể loại thuộc phương thức tự sự, chỉ có thể loại ca dao và dân ca
thuộc phương thức trữ tình. Chức năng cơ bản của thơ ca trữ tình dân gian là
biểu đạt một cách trực tiếp những tư tưởng, tình cảm của con người. Đó là ưu
thế nổi bật nhất của thơ ca trữ tình dân gian. Nhân vật trữ tình trong các tác

Trần Thị Hồng

16

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

phẩm thơ ca dân gian thường là những người lao động, những con người gần
gũi, bình dị như người tiều phu, người nông dân, người tiểu thương… Qua
góc nhìn, những suy nghĩ và trái tim dung dị của họ, cuộc sống được phản ánh
trở nên chân thật và phong phú hơn đồng thời tạo nên nội dung cơ bản cho
thơ ca dân gian. Nội dung phản ánh của ca dao rất rộng như các bài ca gắn với
sinh hoạt gia đình, ca dao gắn với sinh hoạt cộng đồng lang xóm, ca dao nghi
lễ - phong tục. Có lẽ cũng bởi vậy mà các tác giả, các nhà nghiên cứu về văn

học nói chung và văn học dân gian nói riêng đã từng đánh giá rất cao giá trị
nhiều mặt của thơ ca dân gian. PGS.TS. Phạm Thu Yến, người có nhiều năm
nghiên cứu - giảng dạy văn học dân gian, trong cuốn “Phân tích tác phẩm văn
học dân gian theo đặc trưng thể loại” đã nhận định rằng “Thơ ca dân gian là
nơi biểu hiện tập trung nhất tâm hồn dân tộc”[21, 207]. Trong tác phẩm “Tục
ngữ ca dao dân ca Việt Nam” của nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1978,
Vũ Ngọc Phan đã cho rằng thơ ca dân gian “là tiếng tơ đàn muôn điệu của
tâm hồn quần chúng”. Nhà thơ Xuân Diệu từng có rất nhiều nhận xét rất hay
và chính xác về ca dao dân tộc: “Những câu ca dao từ Nam chí Bắc như có
đất, có nước; như có cát, có biển; như có mồ hôi người, chúng ta sẽ cảm thấy
dần dần tụ lại nơi khóe mắt một giọt ướt sáng ngời. Đó là một giọt tinh túy
chắt ra từ ruột già của non sông.” hay “Thơ ca cổ điển có cái hay của thơ ca
cổ điển nhưng trong thơ ca cổ điển dễ gì có được cái chất tâm hồn người mới
cày xới lên, con tươi rói, bốc hơi, chảy máu.” Hay như nhà thơ Chế Lan Viên
đã từng có nhận xét: “Ca dao cũng là thơ nhưng là một loại thơ đặc biệt”
Không chỉ các tac giả Việt Nam mà có cả những tác giả trên thế giới đã đưa ra
nhận định về thơ ca trữ tình dân gian như Puskin nhận thấy trong thơ ca trữ
tình dân gian “sự chia ly xa vời”, “nỗi buồn đau tự trái tim”. Ghécxen đã diễn
đạt một cách chính xác và hình tượng, sự diễn đạt sáng rõ nhất thường thấy
trong các bài hát dân gian là: “tất cả những khởi đầu thơ ca, cuộc du ngoạn

Trần Thị Hồng

17

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

trong tâm hồn nhân dân.” Đôbrôliubốp đã đưa ra nhận xét: “Thể loại tự sự có
ưu thế rất lớn trong việc kể về những điều xảy ra trong cuộc sống. Một
phương thức khác có khả năng đặc biệt trong việc biểu đạt những sự kiện và
truyền đạt tình cảm, cảm xúc mà những sự kiện này tác động vào tâm hồn con
người. Phương thức này gọi là thơ ca trữ tình.” Việc xác định bản chất trữ
tình của ca dao có tính chất đặc biệt quan trọng, định hướng cho việc tìm hiểu
ca dao. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý khi tìm hiểu chất trữ tình của ca dao là nội
dung trữ tình của ca dao mang tính phổ quát, tính cộng đồng, cộng cảm, ca
dao là điệu hồn của dân tộc. Vì thế, khi giảng dạy về thơ ca dân gian phải chú
ý đến chất trữ tình được biểu đạt thông qua những phương thức nghệ thuật cụ
thể để thấy được tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình cụ thể. Nhờ đó, người
đọc sẽ tìm thấy, nhận ra ở ca dao sự đồng điệu về cảm xúc đồng thời một
phần tâm hồn mình trong đó.
Ca dao là một thể loại văn học dân gian nên nó cũng mang đặc điểm
chung của văn học dân gian. Nhìn từ góc độ tác giả, ca dao là một sáng tác
của nhiều người, thuộc nhiều thế hệ qua những thời gian và không gian khác
nhau. Ban đầu ca dao có thể do một cá nhân nào đó sáng tác nên và được sử
dụng vào những cuộc đối đáp. Sau đó, muốn sáng tác trở thành một tác phẩm
văn học dân gian thì nó phải được tập thể chấp nhận, lưu truyền trong dân
gian qua nhiều lần diễn xướng và liên tục sáng tạo, sáng tạo lại tác phẩm. Do
vậy mà ca dao có tính tập thể, thể hiện suy nghĩ tâm tư của nhiều người ở
nhiều thời đại khác nhau. Tuy nhiên, trong qua trình lưu truyền từ người này
sang người khác, ca dao đã có nhiều dị bản với nhiều lối diễn đạt tinh tế khác
nhau về cùng đối tượng hoặc cùng diễn tả những nội dung giống nhau.
Ví dụ những câu ca dao sau đây đều nói về tình cảm đối với công lao
sinh thành của cha mẹ:

Trần Thị Hồng


18

K40E - GDTH


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”



“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.”

Do ca dao có tính nhiều dị bản nên khi nghiên cứu về ca dao cần tập hợp,
so sánh các dị bản của cùng một tác phẩm để tìm ra nét nghệ thuật độc đáo
riêng cua từng dị bản và điểm chung của các văn bản ấy.
1.2.2. Phân loại ca dao
Với nội dung truyền tải rất đa dạng và phong phú trong đời sống xã hội
nên ở mỗi chủ đề, mỗi một lĩnh vực chúng ta lại thấy vô vàn những câu nói,
lối nói rất mộc mạc, dễ hiểu. Mặt khác, Việt Nam là đất nước có bề dày

truyền thống lịch sử. Chính vì vậy, thể loại ca dao có số lượng tác phẩm rất
lớn, phong phú đa dạng về các loại hình ở các vùng miền khác nhau, các tộc
người… đã làm cho việc phân loại ca dao gặp không ít khó khăn. Có nhiều
cách phân loại ca dao tuy nhiên nhìn chung không đạt được sự tối ưu và
chúng ta có thể tham khảo một số cách phân loại như sau:
Thứ nhất, chúng ta phân loại theo đề tài và nội dung phản ánh dựa vào
các tài liệu và sách khảo cứu về ca dao như: Tục ngữ ca dao dân ca, Thi ca
bình dân, Kho tàng ca dao người Việt, Ca dao Việt Nam… Tuy nhiên, cách
phân loại này tương đối dài, phức tạp và dễ bị trùng lặp.
Thứ hai, phân loại ca dao dựa vào mối quan hệ giữa bài ca dao với các
nghi lễ (theo tiêu chí phương thức diễn xướng, lối hát của ca dao) thì ta có thể
chia làm hai nhóm lớn, đó là ca dao nghi lễ (ca dao nghi lễ sinh hoạt, ca dao

Trần Thị Hồng

19

K40E - GDTH


×