Tải bản đầy đủ (.doc) (152 trang)

Luan van tư tưởng hồ chí minh về nông nghiệp và vận dụng vào phát triển nông nghiệp ở hà tĩnh trong quá trình đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.79 KB, 152 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp (NN) {cùng với nông dân (ND), nông thôn (NT)} có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Là một vị lãnh tụ có tầm nhìn sâu rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ rất
sớm đã khẳng định vị trí, vai trò hết sức to lớn của sản xuất NN đối với việc
phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân trong thời kỳ quá độ (TKQĐ)
đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu Cách
mạng tháng Tám mới thành công, trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam,
ngày 11-4-1946, Hồ Chí Minh viết: "Việt Nam là một nước sống về nông
nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng
nước nhà, chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp
một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì
nước ta thịnh" [42, tr. 215]. Từ đó, Người khẳng định: "Muốn phát triển công
nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm
gốc, làm chính" [48, tr. 180]. Chính vì vậy, Người rất quan tâm, dành nhiều
công sức để nghiên cứu và chỉ đạo phát triển sản xuất NN. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về NN là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng kinh tế của
Người. Những quan điểm chủ đạo về vị trí, vai trò của NN; về sản xuất NN
toàn diện; thực hiện CNH, HĐH; phát triển kinh tế tập thể, xã hội hóa NN;
xây dựng quan hệ sản xuất trong NN… của Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự
vận dụng, phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và những quy luật kinh tế khách quan vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
Việt Nam, không những có ý nghĩa thực tiễn to lớn, mà còn là cơ sở lý luận



2

vô cùng quan trọng đã và đang được Đảng và Nhà nước ta vận dụng để xây
dựng phát triển nền kinh tế NN nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN).
Sau gần 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Ðảng, NN nước ta đã đạt được thành tựu
khá toàn diện và to lớn. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được trong NN chưa
tương xứng với tiềm năng, lợi thế; NN phát triển còn kém bền vững; đời sống
vật chất và tinh thần của người dân NT còn thấp…
Hà Tĩnh là một tỉnh có nền kinh tế NN thuần nông, lạc hậu; có 85,1%
dân số sống ở NT và 64,19% lực lượng lao động xã hội làm NN [11, tr. 29].
Vì vậy, quan tâm phát triển NN ở Hà Tĩnh theo chủ trương chung của Đảng là
sự phát triển hợp quy luật, là yêu cầu khách quan để phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước.
Sau khi được tách ra từ tỉnh Nghệ Tĩnh (1991) đến nay, đặc biệt từ
năm 2001 trở lại đây, NN và kinh tế NT Hà Tĩnh đã có sự khởi sắc, đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Nền NN đã và đang từng bước chuyển từ sản xuất
nhỏ, tự cung, tự cấp sang nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. Tuy
vậy, sản xuất NN ở Hà Tĩnh trong những năm vừa qua cũng bộc lộ nhiều hạn
chế và yếu kém, hiệu quả đạt được chưa tương xứng với lợi thế và tiềm năng
vốn có của tỉnh. Nhìn chung, sự phát triển của NN chưa có được sự chuyển
biến về chất, chưa tạo ra được những tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương, thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Những hạn chế, yếu kém của sản xuất NN cả nước nói chung, Hà Tĩnh
nói riêng, có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân
do chưa nhận thức hết được những giá trị sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh
về NN và vận dụng chưa tốt những tư tưởng đó vào hoạt động thực tiễn. Vì
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ và vận dụng đúng đắn, sáng tạo



3

những tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế nói chung và NN nói riêng là vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng, đồng thời là yêu cầu hết sức
bức thiết.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về nông nghiệp và vận dụng vào phát triển nông nghiệp ở Hà Tĩnh
trong quá trình đổi mới" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ sau Đại hội VII của Đảng, đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh đã thu hút
được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tập thể và cá nhân các nhà khoa học,
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Riêng tư tưởng của Người về kinh tế nói
chung và NN nói riêng, chưa được nghiên cứu nhiều. Trên thực tế, nhiều quan
điểm và cách làm của Người chưa được biết đến; một số quan điểm được vận
dụng có hiệu quả nhưng chưa triệt để; một số quan điểm, cách làm bị hiểu sai,
vận dụng sai… Trong khi đó, các quan điểm, cách làm kinh tế của Hồ Chí Minh
nếu quán triệt, vận dụng tốt sẽ có tác dụng định hướng, thúc đẩy sự nghiệp CNH,
HĐH, giải quyết hàng loạt vấn đề kinh tế mới do công cuộc xây dựng CNXH
trong điều kiện một nước NN lạc hậu đặt ra. Tuy vậy, cũng có nhiều nhà khoa
học, nhà nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu của mình đã nhận thấy được vai
trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nói chung và tư tưởng về NN nói
riêng đã có những công trình nghiên cứu, bài viết ở nhiều mức độ sâu sắc khác
nhau. Liên quan đến nội dung của Luận văn này có một số công trình nghiên cứu
khoa học, các sách chuyên khảo và các bài báo quan trọng đã được công bố, như:
- Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, của TS. Phạm
Ngọc Anh (Chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân, của TS. Nguyễn Khánh
Bật (Chủ biên), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001;



4

- Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh tế định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, của TS. Nguyễn Huy Oánh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
- Đảng, Bác Hồ với vấn đề tam nông, của TS. Nguyễn Huy Tuấn (sưu
tầm, tuyển chọn), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009;
- Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển nông
nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ kinh tế, của Nguyễn Văn Thành,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006;
- Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Hà Tĩnh, Luận văn thạc sĩ kinh
tế, của Lê Hữu Thuận, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2007;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn và sự vận dụng của Đảng ta, của Lê Xuân Huy, Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 9, 2003;
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát triển hợp tác xã thời
kỳ hội nhập, của Đoàn Hùng Nam, Tạp chí Khoa học chính trị, số 5, 2008;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp, của Nguyễn Năng
Nam, Tạp chí Khoa học chính trị, số 1, 2009;
- Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
nông dân trong cách mạng Việt Nam, của Lê Văn Yên, Tạp chí Lịch sử Đảng,
số 10, 2009…
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết đăng trên các loại báo, tạp chí khác nhau.
Những công trình, bài viết kể trên, nhìn chung đã nghiên cứu, phân
tích tư tưởng Hồ Chí Minh về NN và việc vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn
ở những mức độ và phạm vi khác nhau, hoặc chỉ đi vào nghiên cứu một nội
dung hay một vấn đề nào đó, hoặc nghiên cứu có hệ thống các nội dung cơ
bản của tư tưởng. Điển hình là các công trình khoa học sau:



5

+ Cuốn: Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, của
TS. Phạm Ngọc Anh (chủ biên) đã giúp người đọc bước đầu hiểu về tư tưởng
kinh tế Hồ Chí Minh nói chung qua các thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Trong
đó, các tác giả đã đi sâu tìm hiểu, phân tích ba nội dung quan trọng: Thứ nhất,
quá trình hình thành phát triển và đặc điểm bản chất của tư tưởng kinh tế Hồ
Chí Minh; thứ hai, những nội dung chủ yếu của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh;
thứ ba, vận dụng tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay. Nhìn chung, những vấn đề về vai trò, về xây dựng và phát
triển NN theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được bàn đến một cách xuyên suốt
trong các nội dung này. Tuy nhiên, những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về NN chủ yếu được trình bày sâu ở Mục IV của cuốn sách: Quan
điểm của Hồ Chí Minh về lựa chọn cơ cấu kinh tế. Khi bàn về quan điểm của
Hồ Chí Minh về lựa chọn cơ cấu kinh tế ngành trong chiến lược phát triển
kinh tế, các tác giả đã khẳng định: "Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nông
nghiệp có một vị trí hết sức đặc biệt đối với xã hội. Phát triển nông nghiệp là
nhân tố đầu tiên, là cội nguồn của mọi vấn đề xã hội" [1, tr. 89]. Vai trò, vị trí
của NN trong tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được các tác giả trình bày trên
nhiều phương diện khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, cả trong thời kỳ
chiến tranh và trong TKQĐ đi lên CNXH ở nước ta. Bên cạnh đó, những vấn
đề về CNH, HĐH NN, NT; vấn đề xây dựng hợp tác xã (HTX) NN; vấn đề
quản lý kinh tế NN…cũng đã được trình bày khá chi tiết trong cuốn sách.
Mặc dù như tình thần đầu đề cuốn sách: "Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế" nhưng đây là một công trình có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc, công trình đã "góp phần phê phán các luận điệu sai trái về nền tảng tư
tưởng của xã hội ta, về tính tất yếu kinh tế của con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam" [1, tr. 11].

+ Công trình: Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát
triển nông nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Văn
Thành. Đây là một trong những số ít những công trình nghiên cứu tư tưởng


6

Hồ Chí Minh về NN và vận dụng tư tưởng đó vào phát triển NN ở một địa
phương cụ thể, mà ở đây là tỉnh Quảng Ngãi. Trong luận văn này, tác giả cũng
đã cố gắng trình bày và "luận giải để làm sáng tỏ những tư tưởng chủ đạo của
Hồ Chí Minh về phát triển sản xuất nông nghiệp" [63, tr. 4]; phân tích đánh
giá quá trình vận dụng những tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về phát triển
sản xuất NN vào trong thực tiễn đổi mới ở nước ta nói chung và trong sản
xuất NN tỉnh Quảng Ngãi nói riêng từ đó đề xuất những phương hướng, giải
pháp chủ yếu để tiếp tục quán triệt sâu sắc và vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thúc đẩy sản xuất NN của tỉnh Quảng Ngãi phát triển, chuyển dịch
theo hướng CNH, HĐH. Nhìn chung, Luận văn về cơ bản đã đạt được những
mục tiêu nghiên cứu đề ra, và có những đóng góp về mặt khoa học nhất định,
đặc biệt là về mặt thực tiễn. Tuy vậy, trong khuôn khổ của một luận văn thạc
sĩ kinh tế, tác giả lại là người không chuyên về Hồ Chí Minh học, do vậy,
trong luận văn của mình, về phần lý luận, tác giả chỉ mới dừng lại ở việc trình
bày khái quát một số quan điểm của Hồ Chí Minh về NN, mà chưa đi sâu
phân tích, trình bày một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh về NN. Do vậy, khi vận dụng tư tưởng NN Hồ Chí Minh để đưa ra các
giải pháp pháp đẩy mạnh sản xuất NN ở tỉnh Quảng Ngãi, tác giả cũng chỉ
dừng lại ở những quan điểm mà mình đã nêu.
+ Công trình: Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Hà Tĩnh, Luận văn
thạc sĩ kinh tế của Lê Hữu Thuận. Mặc dù, đây không phải là một đề tài nghiên
cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng nội dung của nó có liên quan đến một
phần quan trọng trong luận văn thạc sĩ của tôi (ở "Chương 2: Phát triển nông

nghiệp ở Hà Tĩnh trong quá trình đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh"). Ở công trình này, tác giả trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý
luận chung về phát triển NN hàng hóa, phân tích thực tiễn của quá trình phát
triển NN hàng hóa ở Hà Tĩnh và từ đó đề xuất những mục tiêu, phương hướng
và các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển NN hàng hóa ở
Hà Tĩnh trong thời gian tới. Như vậy, mặc dù Luận văn này bàn đến vấn đề


7

NN ở Hà Tĩnh, nhưng không phải bàn đến một nền NN với tính chất toàn
diện, tổng thể của nó. Luận văn chỉ dừng lại trong phạm vi nghiên cứu quá
trình phát triển NN hàng hóa ở Hà Tĩnh…
Nhìn chung, những công trình, bài viết kể trên đã giúp cho tác giả luận
văn có thể chọn lọc được những quan điểm, những nhận thức chung về mặt lý
luận và thực tiễn, cũng như tham khảo được nhiều tài liệu cần thiết trong quá
trình thực hiện.
Hiện nay, chưa có một đề tài nào nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về nông nghiệp và vận dụng vào phát triển nông nghiệp ở Hà Tĩnh trong quá
trình đổi mới. Do đó, đề tài luận văn không trùng với những công trình khoa
học, luận văn, luận án đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
+ Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống những quan điểm cơ bản
của Hồ Chí Minh về NN;
+ Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển NN ở Hà Tĩnh từ sau năm
1991, nêu ra phương hướng và một số giải pháp cơ bản phát triển NN Hà
Tĩnh theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tiếp tục nâng cao đời sống
của nhân dân trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Trình bày, luận giải làm sáng tỏ những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí
Minh về vị trí, vai trò của NN; về xây dựng và phát triển nền NN toàn diện ở
nước ta; về các điều kiện xây dựng và phát triển NN;
+ Khẳng định những giá trị lý luận và giá trị thực tiễn của tư tưởng
của Hồ Chí Minh về NN;


8

+ Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển NN ở Hà Tĩnh, khẳng định
những thành tựu đã đạt được, chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân của thành
tựu và hạn chế;
+ Nêu ra một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy
quá trình xây dựng và phát triển NN ở tỉnh Hà Tĩnh theo hướng bền vững trên
tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về NN được thể hiện qua
các bài nói, bài viết trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập - 12 tập và bộ Hồ Chí
Minh Biên niên tiểu sử - 10 tập; quá trình phát triển nền kinh tế NN ở Hà Tĩnh
thời kỳ đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về NN, chủ yếu từ sau năm
1945; khảo sát thực trạng phát triển NN tỉnh Hà Tĩnh từ 2001 lại nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước ta, của
Đảng bộ và chính quyền Hà Tĩnh về phát NN.
- Luận văn kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu của các

công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lôgíc kết hợp
với phương pháp lịch sử là phương pháp chủ yếu để nghiên cứu; các phương
pháp liên ngànhh và các phương pháp thống kê, khảo sát thực tế, phân tích


9

kinh tế, so sánh, tổng hợp, văn bản học v.v…được vận dụng để nghiên cứu;
Quán triệt quan điểm thực tiễn, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào nghiên cứu, lý giải làm sáng rõ những nội
dung cơ bản, đồng thời khẳng định các giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về NN.
- Luận văn góp phần tổng kết, đánh giá quá trình Đảng bộ và chính
quyền Hà Tĩnh trong lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng và phát triển NN trong
tiến trình đổi mới, nhất là từ 2001 đến nay.
- Luận văn đã nêu lên một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và thúc
đẩy NN Hà Tĩnh phát triển theo hướng bền vững dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 2 chương, 7 tiết.


10

Chương 1

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG NGHIỆP

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

Trong tư tưởng của mình, khi bàn về lĩnh vực NN, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường gắn liền với vấn đề ND và NT. Giữa NN, ND và NT có mối quan hệ
mật thiết với nhau, biện chứng, không thể tách rời nhau. Do vậy, kết hợp hài
hòa và giải quyết tốt các vấn đề NN, ND, NT (hay theo như khái niệm chung
hiện nay thường vẫn gọi là vấn đề "tam nông") trong quá trình CNH, HĐH
đất nước theo định hướng XHCN là vấn đề có ý nghĩa to lớn và là yêu cầu
bức thiết của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình đó, NN, ND và NT luôn
giữ vị trí, vai trò quan trọng: NN là cơ sở, NT là địa bàn, ND là lực lượng
đông đảo góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định chính trị xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng.
1.1.1. Khái niệm nông nghiệp
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa
thì: Nông nghiệp là nghề nông [67, tr. 717].
Hiểu một cách đầy đủ hơn, NN là ngành sản xuất vật chất cơ bản của
xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật
nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực
phẩm và một số nguyên liệu công nghiệp (CN). NN là một ngành sản xuất
lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản;
theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản.
Trong NN có hai loại chính:
NN thuần nông hay NN sinh nhai: Là lĩnh vực sản xuất NN có đầu vào
hạn chế, sản phẩm đầu ra chủ yếu phục vụ cho chính gia đình của mỗi người
ND. Không có sự cơ giới hóa trong NN sinh nhai.


11


NN chuyên sâu: Là lĩnh vực sản xuất NN được chuyên môn hóa trong
tất cả các khâu sản xuất NN, gồm cả việc sử dụng máy móc trong trồng trọt,
chăn nuôi, hoặc trong quá trình chế biến sản phẩm NN. NN chuyên sâu có
nguồn đầu vào sản xuất lớn, bao gồm cả việc sử dụng hóa chất diệt sâu, diệt
cỏ, phân bón, chọn lọc, lai tạo giống, nghiên cứu các giống mới và mức độ cơ
giới hóa cao. Sản phẩm đầu ra chủ yếu dùng vào mục đích thương mại, làm
hàng hóa bán ra trên thị trường hay xuất khẩu. Các hoạt động trên trong sản
xuất NN chuyên sâu là sự cố gắng tìm mọi cách để có nguồn thu nhập tài
chính cao nhất từ ngũ cốc, các sản phẩm được chế biến từ ngũ cốc hay vật
nuôi v.v…
NN nói chung có vai trò quan trọng và to lớn, NN cung cấp các yếu tố
đầu vào cho CN và khu vực thành thị. NN và NT còn được coi là thị trường
tiêu thụ lớn của CN, thúc đẩy CN phát triển; NN còn được coi là ngành đem lại
nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các loại nông, lâm, thủy sản có thể dễ dàng ra nhập
thị trường quốc tế lớn hơn so với các hàng hóa CN. Vì thế, ở các nước đang phát
triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các xuất khẩu các loại
nông, lâm, thủy sản; NN là cơ sở cho sự phát triển bền vững của môi trường.
Tuy nhiên, NN là ngành sử dụng nhiều hóa chất với các loại phân hóa học, thuốc
trừ sâu, các chất bảo quản…sẽ làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Trong quá trình
canh tác, dễ gây xói mòn ở các triền dốc ở vùng núi và khai hoang mở rộng
diện tích rừng…Vì thế trong quá trình phát triển sản xuất NN, cần tìm những
giải pháp thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường.
1.1.2. Khái niệm nông dân
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nông dân là dân làm ruộng [67, tr. 716].
ND là những người lao động cư trú ở NT, tham gia sản xuất NN. ND
sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản
xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người ND có


12


quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp ND, có vị
trí, vai trò nhất định trong xã hội.
Trong lịch sử, nhiều nền văn minh lấy NN làm nền tảng đã phát triển
giai cấp ND, được tổ chức chặt chẽ nhất là là trong nền văn minh Ai Cập. Đến
thời kỳ Hy Lạp, La Mã, hình thành dần tầng lớp tiểu nông từ những cơ sở
ruộng đất lớn của chủ đất, hay chúa đất. Tiếp đó, ở NT tầng lớp phú nông, địa
chủ, cùng với tư sản thành thị xuất hiện.
Ngày nay, ND có sinh hoạt tổ chức khác nhau trên từng địa phương,
quốc gia. Nhìn chung, ND vẫn là những người nghèo. Ở các quốc gia vùng
châu thổ các sông lớn ở Đông Nam Á, phần lớn là những hộ thuần nông,
người ND lao động nặng nhọc nhưng hiệu quả công việc và năng suất lao
động thấp. Tuy vậy, trong quá trình công nghiệp hóa (CNH), những hộ ND có
xu hướng sẽ chuyển sang sản xuất NN kết hợp với phi NN. Tỷ trọng thu nhập
từ NN trong tổng thu nhập của hộ ở NT sẽ giảm nhiều. Phần lớn sinh kế của
họ do hoạt động phi NN cung cấp dù vẫn sống ở NT.
Còn ở các nước phương Tây, trung nông là tầng lớp quan trọng, tầng
lớp tiểu nông ngày các ít đi. Ở nhiều nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ nông
dân chỉ còn mức dưới 5% dân số [76, tr. 76].
1.1.3. Khái niệm nông thôn
Theo tác giả Đặng Kim Sơn trong cuốn "Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau":
Định nghĩa về nông thôn có thể khác nhau ở các quốc gia khác
nhau. Vùng nông thôn có thể được định nghĩa bởi quy mô định cư,
mật độ dân số, khoảng cách đến vùng thành thị, phân chia hành chính
và tầm quan trọng của ngành công nghiệp.


13


Theo Tổ chức Nông lâm Liên hợp quốc (FAO), có hai phương
pháp chính định nghĩa nông thôn. Phương pháp thứ nhất là sử dụng
định nghĩa địa chính trị. Trước hết thành thị được xác định bởi luật
là tất cả những trung tâm của tỉnh, huyện và các vùng còn lại được
định nghĩa là nông thôn. Phương pháp phổ biến thứ hai là sử dụng
mức độ tập trung dân sống thành cụm quan sát được để xác định
vùng gần thành thị. Trong một vùng có các hộ gia đình sống gần
nhau tạo nên cộng đồng lớn hơn một số nhất định nào đó, ví dụ
2000 người, thì được coi là thành thị và khu vực còn lại được coi là
nông thôn. Phương pháp này có sự thuyết phục cao hơn, bởi nó đưa
ra một giới hạn xác định rõ ràng. Tuy nhiên, giới hạn này được xác
định theo từng nước. Bên cạnh đó, có một số quốc gia sử dụng cách
tính mức độ sẵn có của các loại hình dịch vụ để xác định vùng
thành thị, phần còn lại là nông thôn. Phương pháp này thích đáng ở
quan điểm phân tích nghèo đói, bởi sự thiếu vắng các dịch vụ cần
thiết thường đi kèm với nghèo đói.
Việt Nam theo phương pháp thứ nhất để phân định nông thônthành thị. Nông thôn, theo quy định về hành chính và thống kê của
Việt Nam là những địa bàn thuộc xã (những địa bàn thuộc phường
hoặc thị trấn được quy định là khu vực thành thị) [77, tr. 121-122].
Theo Từ điển Tiếng Việt, nông thôn: nói chung thôn làng, nơi làm ruộng.
Hay nói cách khác, nông thôn là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ
của các quốc gia, khu vực, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông
nghiệp [67, tr. 717].
1.1.4. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991, Đảng ta đã
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.


14


Tư tưởng Hồ Chí Minh "là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam", trong đó, có tư tưởng
của Người về phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về NN là một bộ phận hợp thành hệ thống
tư tưởng kinh tế của Người, bao gồm hệ thống những luận điểm lý luận toàn
diện và sâu sắc được rút ra từ thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và phát triển
những kinh nghiệm, truyền thống đặc sắc của dân tộc và trí tuệ của thời đại
mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng và phát triển nền NN
Việt Nam từ sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu tiến dần lên nền NN hiện đại,
khoa học - kỹ thuật tiên tiến, có khả năng cải thiện và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân lao động.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về NN không những có ý nghĩa thực tiễn
to lớn, mà còn là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng đã và đang được Đảng và
Nhà nước ta vận dụng để xây dựng phát triển nền kinh tế NN nước ta theo
định hướng CNXH.
1.2. CƠ SỞ CHỦ YẾU HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NÔNG NGHIỆP

1.2.1. Thực tiễn và truyền thống của Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, với khí hậu nhiệt
đới gió mùa, ấm, ẩm, mưa nhiều, đất đai rất thuận lợi cho phát triển NN. Trải
qua hàng nghìn năm, hàng vạn năm khai phá, lao động sản xuất, đấu tranh vật
lộn với thiên nhiên, nhân dân ta đã tạo nên "nền văn minh nông nghiệp Việt
Nam" với những kinh nghiệm hết sức phong phú trong sản xuất NN phù hợp
với đặc điểm tự nhiên và tâm lý, tập quán của người ND. Nền văn minh đó đã
tạo nên sức sống mãnh liệt, giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách gian lao,
chiến thắng mọi kẻ thù trong quá trình dựng nước và giữ nước trước đây,
cũng như trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc những thập kỷ gần đây.



15

Vào thời văn hóa Hòa Bình (cách đây 12.000 - 16.000 năm), Việt Nam
bây giờ đã thuộc một trong bốn trung tâm NN đầu tiên của loài người và trở
thành những chủ nhân đầu tiên có công lao lớn: Sáng tạo ra tiền NN đầu tiên
của loài người. Thời kỳ các vua Hùng dựng nước, NN nước ta phát triển hết
sức mạnh mẽ với đỉnh cao là nền "Văn minh nông nghiệp sông Hồng". Văn
minh NN sông Hồng thực chất là văn minh lúa nước, với cơ sở sản xuất là
ruộng nước trồng lúa, và cơ sở xã hội là những quần cư của ND trồng lúa
nước. Sau khi nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương được thành lập, với
bước phát triển mới của NN, người Âu Lạc đã làm thêm vụ lúa thứ hai trong
năm, ngoài vụ lúa chính mùa mưa, để trở thành nước tăng vụ lúa sớm nhất ở
Đông - Nam Á, ngay từ trước công nguyên [22, tr. 52]. Thời kỳ Bắc thuộc,
NN vẫn là ngành sản xuất chính ở nước ta. Ông cha ta với tinh thần độc lập tự
chủ, kiên trì đấu tranh và sáng tạo, trên cơ sở kỹ thuật bản địa, có tiếp thu,
chọn lọc thêm những kỹ thuật tiến bộ, có sự gắn bó hữu cơ giữa NN và ngành
nghề tiểu thủ CN đa dạng, tiến bộ, mang những đặc thù của vùng nhiệt đới và
sắc thái riêng của dân tộc Việt Nam.
Kế thừa, nâng cao và phát triển nền văn minh NN sông Hồng, từ thế
kỷ X đến thế kỷ XIX, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu mới trong lĩnh
vực NN. Đặc biệt, từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII - thời kỳ cực thịnh của chế
độ phong kiến Việt Nam, kỹ thuật NN Việt Nam đã đạt được những đỉnh cao,
không thua kém những nền NN tiên tiến đương thời của các nước trong khu
vực. Riêng về kỹ thuật NN, ông cha ta qua kinh nghiệm thực tế đã chọn lọc
được một hệ thống cây trồng, vật nuôi tốt, một hệ thống công cụ lao động thủ
công cổ truyền thích hợp, một hệ thống công nghệ sản xuất NN tổng hợp đúc
kết thành 4 chữ: Nước, phân, cần, giống, còn có giá trị ứng dụng đến ngày nay.
Trên nền tảng của thiết chế kinh tế lấy NN làm căn bản ấy, ở Việt Nam đã

sớm hình thành một đời sống văn hóa, tinh thần độc đáo và một triết lý phát
triển đặc trưng mà quan điểm chính thống chi phối toàn bộ chủ trương, chính


16

sách của các triều đại phong kiến Việt Nam là: "Dĩ nông vi bản", "Trọng nông
ức công thương", "Ngụ binh ư nông"…
Những đúc kết hết sức giản dị, những truyền thống và kinh nghiệm làm
NN từ lâu đã được lưu truyền qua những huyền thoại, thuyền thuyết, hay những
tập tục,... như: Truyện Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, sự tích Bánh
Chưng - bánh Dày, sự tích Trầu cau, hay tích dâng quýt cho vua Hùng đi săn
về ở Quất Thượng, tục thờ thần NN là Thần Nông - vị thần NN của người
Việt cổ. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại sự kiện năm Mậu Dần
(1038), vua Lý Thái Tông ngự ra Bố Hải khẩu đắp đàn tế Thần nông và cày
ruộng tịch điền. Khi có người trong quan lại can vua không nên làm việc của
nông phu, Lý Thái Tông trả lời: "Trẫm không tự mình cày ruộng thì lấy gì làm
xôi cúng, lấy gì để xướng xuất thiên hạ". Nói xong, vua đẩy ba đường cày…
Nhà bác học Lê Quý Đôn về sau cũng đã đưa ra một quan điểm rất nổi
tiếng: "Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất
hưng". Quan điểm này cho thấy: Đề cao và xác định vai trò nền tảng không
thể thay thế của NN trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội là tư tưởng chỉ đạo
trong tư duy kinh tế truyền thống Việt Nam.
Đáng tiếc là, trong thế kỷ XVIII, XIX, khoa học NN nước ta bị dừng
lại và sút kém trong khi nhiều nước vẫn phát triển nhanh, nên tạo ra khoảng
cách giữa trình độ kỹ thuật NN nước ta và nước ngoài. Tiến trình khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp cũng đồng nghĩa là biến Việt Nam thành một nước
thuần NN với một trình độ sản xuất lạc hậu nhằm phục vụ lợi ích của chúng.
Mặc dù vậy, thực tiễn và truyền thống cũng như những thành tựu to
lớn về nhiều mặt của NN nước ta do ông cha ta để lại vẫn là mầm mống vững

chắc, là bệ phóng cho sự phát triển NN của chế độ ta từ Cách mạng tháng
Tám về sau. Điều đặc biệt hơn là, chính trong quá trình phát triển lâu dài của
dân tộc, NN, NT Việt Nam đã trở nên rất gần gũi, ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi người dân Việt Nam. Dù xuất thân từ thành phần xã hội nào, ở cương vị


17

công tác nào thì đàng sau mỗi người đều có một miền quê yên tĩnh, êm ả với
những người ND cần cù, thông minh, tần tảo, thắm đượm tình người. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng là một con người như vậy.
Ngay từ thuở nhỏ, Người đã được tắm mình trong một môi trường NT
thuần khiết với nền văn hóa dân gian đặc sắc của quê hương xứ Nghệ. Với
những lời răn dạy của cha, những lời ru của mẹ, của ông bà về truyền thống
yêu lao động nghìn đời của ông cha, về lòng quý trọng những hạt lúa, củ
khoai mà người ND một nắng hai sương mới có được. Lớn lên trong cảnh
nước mất nhà tan, Người đã tận mắt chứng kiến nỗi thiếu thốn, cực khổ tận
cùng của người dân lao động. Dần dần Người hiểu được cội nguồn của mọi
nỗi khổ đau mà nhân dân ta phải chịu đựng là do sự áp bức, bóc lột mà bọn
thực dân, phong kiến gây ra. Với quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược giành
lại độc lập, tự do cho dân tộc và đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân, Người đã ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình ấy, cũng như về sau
trong quá trình lãnh đạo đất nước, với trí tuệ và năng lực tài giỏi, Người đã
tiếp thu, kế thừa và phát huy, phát triển những tinh hoa văn hóa nhân loại,
những quan niệm truyền thống Việt Nam trong đó có truyền thống và kinh
nghiệm làm NN. Với tư duy và phương pháp làm việc biện chứng, khoa học,
tư tưởng của Người về NN từng bước hình thành và phát triển, nhất là quan
điểm về xây dựng nền NN Việt Nam trong trong TKQĐ lên CNXH.
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nông nghiệp
Vấn đề NN (cùng với vấn đề ND, NT) là một bộ phận quan trọng trong

lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Và đây cũng chính là cơ sở lý luận quan
trọng, quyết định hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về NN
Trong quá trình tổ chức, động viên và tập hợp lực lượng, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đều nhận thức rõ vị trí, vai trò và khả năng
cách mạng to lớn của giai cấp ND trong sự nghiệp cách mạng do giai cấp CN
mà đội tiên phong là Đảng cộng sản lãnh đạo. Chính trong quá trình đó, cả


18

C.Mác, Ph.Ăngghen và VI.Lênin đều có những nghiên cứu rất có giá trị về
NN. Đặc biệt là về chỉ đạo tổ chức và phát triển kinh tế hợp tác trong NN.
Trong giai đoạn của mình, cả C.Mác, Ph.Ăngghen đều khẳng định rõ
vai trò của NN trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua việc khảo
sát sâu sắc thực trạng kinh tế NN và xu hướng vận động các lĩnh vực kinh tế
trong giai đoạn chuyển đổi từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa
và từ chế độ tư bản chủ nghĩa lên CNXH, C.Mác đã khẳng định khi năng suất
lao động chưa nuôi đủ con người thì người ta chưa thể lo đến CN, thương
nghiệp. Trong học thuyết về địa tô, C.Mác chỉ ra tính chất nhiều vẻ của NN
trong những điều kiện khác nhau, đồng thời chỉ dẫn về một nền NN phát triển
không chỉ tăng quy mô diện tích mà bằng thâm canh cao. Đặc biệt trong tác
phẩm "Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức", lần đầu tiên Ph.Ăngghen đã phác
thảo một chương trình phát triển NN, NT toàn diện. Ông đã đề cập đến những
vấn đề có giá trị lớn như chính sách NN của Nhà nước, các hình thức khoán
thuế trong NN… Ông viết: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn bao giờ cũng
vẫn là vấn đề cơ bản của chính quyền nhà nước, một nội dung trọng yếu
trong cương lĩnh hoạt động của các Đảng cộng sản. Ph.Ăngghen còn đặt ra:
"Xã phải mua máy nước nông nghiệp rồi cho nông dân thuê theo giá vốn, lập
hợp tác xã nông nghiệp…phục vụ cho sản xuất nông dân…lập những trạm thí
nghiệm nông nghiệp…" [28, tr. 722].

Về kinh tế hợp tác trong NN, C.Mác và Ph.Ăngghen đều thấy được triển
vọng của hình thức kinh tế này và xem đó là bước quá độ trung gian từ CNTB
lên CNXH. Các ông đánh giá cao hình thức hợp tác theo kiểu "nông trại gia
đình" không dùng lao động làm thuê và coi hình thức này là ưu việt hơn hẳn
so với "đại điền trang" NN tư bản chủ nghĩa, sử dụng lao động làm thuê.
C.Mác và Ph.Ăng ghen đặc biệt chú trọng đến cách thức đưa ND, các
hộ tiểu nông vào làm ăn hợp tác. Mác nhấn mạnh: Giai cấp vô sản cần phải
với tư cách là Chính phủ áp dụng những biện pháp thực tiễn cải thiện tình


19

cảnh người ND để tiếp tục lôi cuốn người ND về phía cách mạng, áp dụng
những biện pháp nhằm giảm bớt khó khăn của giai đoạn quá độ từ sở hữu tư
nhân sang sở hữu tập thể về ruộng đất, vào lúc đó mới chỉ bắt đầu để người ND
tự đi đến phương thức đó, không được làm họ kinh sợ bằng những tuyên bố
như tước bỏ quyền thừa kế, loại bỏ sở hữu của họ. Đặc biệt trong tác phẩm
"Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức" (1894), Ph.Ăngghen đề cập: "Nhiệm vụ
của chúng ta đối với tiểu nông trước hết phải hướng quyền sở hữu cá thể và
nền kinh doanh cá thể của họ vào con đường kinh doanh hợp tác, không phải
bằng bạo lực mà bằng những tấm gương và sự giúp đỡ của xã hội" [28, tr. 736].
Để chăm lo lợi ích cho người tiểu nông, Ph.Ăngghen còn đưa ra luận
điểm: "Chúng ta cương quyết đứng về phía người tiểu nông; chúng ta phải tìm
mọi cách để làm cho số phận của họ được dễ chịu hơn; để cho sự chuyển sang
hợp tác dễ dàng hơn; nếu họ quyết chuyển như thế" [28, tr. 738].
Còn ngược lại, người tiểu nông chưa quyết định được thì theo ông
nên: "Để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất
của họ" [28, tr. 738]. Đây chính là những nguyên tắc hết sức quan trọng để
xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác trong NN: Tự nguyện, dân chủ, bình
đẳng…mà về sau VI.Lênin tiếp tục kế thừa vận dụng và phát triển.

Kế tục sự nghiệp và phát triển tư tưởng của Mác - Ăngghen trong giai
đoạn lịch sử mới, V.I. Lênin đã góp phần làm sáng tỏ quy luật vận động của
nền kinh tế tiểu nông lên sản xuất lớn XHCN. Chỉ rõ vai trò của NN trong quá
trình xây dựng CNXH, đặc biệt là ở những nước NN lạc hậu quá độ lên
CNXH, không qua tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Mười (1917) thành công, sau ba năm thực hiện "Chính
sách cộng sản thời chiến", nền kinh tế nước Nga không mang lại hiệu quả.
Năm 1921, V.I.Lênin quyết định thực hiện "Chính sách kinh tế mới" (NEP).
Bằng phương pháp phân tích khoa học về nguyên nhân khách quan và
chủ quan của cuộc khủng hoảng chính trị sau nội chiến, V.I. Lênin đưa ra quan


20

điểm là: Phải bắt đầu từ nông dân; phải chấn hưng NN. Người chỉ ra giải
pháp phải bắt đầu từ khôi phục NN, từ cải thiện đời sống ND mà cải thiện đời
sống công nhân và các tầng lớp khác. V.I.Lênin nói:
Vì muốn cải thiện đời sống công nhân phải có bánh mì và
nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của
chúng ta mà nói, thì hiện nay "trở ngại" lớn nhất là ở chỗ đó, chúng
ta muốn tăng thêm sản xuất, thu hoạch lúa mì và tăng dự trữ... bằng
cách cải thiện đời sống nông dân - nâng cao năng lực sản xuất của
họ. Phải bắt đầu từ nông dân [27, tr. 169].
Để khôi phục NN, cải thiện đời sống ND, V.I.Lênin đề ra chính sách
thuế lương thực, khôi phục kinh tế hàng hóa trong NN, mở rộng trao đổi hàng
hóa giữa CN với NN. Đồng thời, V.I.Lênin cũng hết sức chú trọng đến phát
triển kinh tế hợp tác trong NN. Trong tác phẩm Bàn về chế độ hợp tác,
V.I.Lênin viết: "Ở nước ta về chính sách Nhà nước do giai cấp công nhân
nắm, mọi tư liệu sản xuất đều do Nhà nước nắm nên trên thực tế chúng ta chỉ
có việc đưa nhân dân vào các hợp tác xã. Khi nhân dân vào các hợp tác xã tới

mức đông nhất, thì chủ nghĩa xã hội tự nó được thực hiện" [27, tr. 238].
Người còn coi hợp tác xã (HTX) là: "Con đường đơn giản nhất, dễ
dàng nhất và dễ tiếp thu nhất đối với nông dân" [27, tr. 239].
Đưa ND vào con đường làm ăn HTX là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và
lâu dài. Chính vì vậy, từ cuối năm 1918, V.I.Lênin đã kịch liệt lên án khuynh
hướng mệnh lệnh để cưỡng bức ND, ép buộc họ thực hiện chế độ canh tác tập thể.
Trong Đại hội VIII Đảng Cộng sản Nga, ông đã gay gắt phê phán: "Ở đây mà
dùng bạo lực thì có nghĩa là làm nguy hại đến toàn bộ sự việc; ở đây điều cần thiết
phải làm là công tác giáo dục lâu dài... công xã phải tổ chức làm sao để chiếm
được lòng tin của nông dân... và không bao giờ được dùng mệnh lệnh" [27, tr. 243].
V.I. Lênin còn chỉ ra cho Nhà nước phải có chính sách giúp đỡ các tổ
chức hợp tác hưởng một số những đặc quyền về kinh tế, tài chính, ngân


21

hàng... và phía Nhà nước: "Qui định tỷ mỷ một thực tiễn nữa, nghĩa là chúng
ta còn phải xác định hình thức "tiền thưởng" (và những điều kiện cấp tiền
thưởng) cấp cho hợp tác xã, hình thức làm cho chúng ta có thể giúp đỡ có
hiệu quả các hợp tác xã và đào tạo những xã viên văn minh" [27, tr. 243].
Để lôi kéo ND vào kinh tế hợp tác, cải thiện đời sống. V.I.Lênin chủ
trương: "Việc thu thuế phải đặc biệt được giảm nhẹ trong mọi trường hợp, không
được do dự và ngay cả trong việc giảm tổng số thuế", "Nhà nước xã hội chủ
nghĩa phải hết sức mở rộng việc giúp đỡ nông dân... cung cấp cho họ những sản
phẩm công nghiệp (phục vụ sản xuất và đời sống)... để bảo đảm lao động và đời
sống của nông dân" [27, tr. 252].
Theo V.I.Lênin, xây dựng HTX là một việc làm khó khăn, phải trải
qua một quá trình lâu dài, "hợp tác xã là bước quá độ sang chế độ mới", cho
nên muốn thành công cần phải có "cả một thời kỳ lịch sử". Đặc biệt trong xây
dựng phải tuân thủ các nguyên tắc trong phát triển kinh tế hợp tác trên cơ sở:

"Tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi".
Đồng thời do tính chất phức tạp trong sản xuất NN, V.I.Lênin cũng
cho rằng các hình thức tổ chức HTX phải đa dạng, phong phú và có bước đi
thích hợp. Nếu như trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế "cộng sản thời
chiến", V.I.Lênin chủ trương trong lĩnh vực lưu thông thành lập các HTX tiêu
dùng để trưng thu, trưng mua lương thực và phân phối sản phẩm, còn trong
lĩnh vực sản xuất, tổ chức các nông trường quốc doanh, các công xã NN, các
hiệp hội canh tác tập thể... thì đến khi thực hiện Chính sách kinh tế mới,
V.I.Lênin chủ trương phát triển kinh tế hợp tác trên cơ sở sản xuất hàng hóa
và trao đổi hàng hóa. Theo V.I.Lênin, thì hợp tác phải bắt đầu từ khâu lưu
thông vì ông cho rằng thương nghiệp bán buôn có thể liên kết hàng triệu
người ND lại với nhau, từ đó dẫn họ đến hợp tác trong các lĩnh vực sản xuất
và hình thành các HTX trong lĩnh vực sản xuất.


22

Như vậy, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về NN thể hiện
giá trị hết sức sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn, mà chính trong quá trình
vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung vào thực tiễn Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp biến cả những quan điểm này. Điều đặc biệt hơn
nữa là chính Hồ Chí Minh còn được trực tiếp chứng kiến về những chủ
trương và thực tế của nước Nga trong thời gian Chính sách NEP được thực
hiện khi Người có mặt tại nước này (1923 - 1924). Tất cả điều đó cho thấy, tư
tưởng Hồ Chí Minh về NN có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc.
1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HÔ CHÍ MINH VỀ NÔNG NGHIỆP

1.3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông nghiệp
Mục tiêu hàng đầu trong xây dựng CNXH ở Việt Nam, theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh là nhằm "không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" [48, tr. 271]. Người từng khẳng
định rằng: Nếu được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc
lập cũng chẳng làm được gì. Dân chúng số đông chỉ thực sự thấy được giá trị và
ý nghĩa của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc đủ, được đảm bảo những
quyền lợi và lợi ích của con người, của người công dân trong một nước độc lập,
tự do. Chính vì vậy, ngay sau ngày đất nước giành được độc lập, trong phiên
họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người đã yêu cầu:
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành
Cái mục đích ta đi đến là 4 điều đó… [42, tr. 152].
Đây cũng chính là mục đích mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
ngay từ những ngày đầu làm cách mạng và đã phấn đấu, hiến dâng suốt cả


23

cuộc đời mình: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [42, tr. 161]. Và khi sắp sửa
đi vào thế giới vĩnh hằng, Người vẫn không quên dặn lại trong Di chúc:
"Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân" [50, tr. 511].
Là một nhà lãnh đạo chiến lược giàu kinh nghiệm, Hồ Chí Minh sớm
thấy được rằng: Muốn nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết phải không
ngừng ra sức phát triển nền kinh tế quốc gia. Mà vấn đề cơ bản hàng đầu để
phát triển, Hồ Chí Minh xác định đó chính là bắt đầu từ NN.
NN với Hồ Chí Minh luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng

đối với sự phát triển nền kinh tế, xã hội cũng như trong việc nâng cao đời
sống của nhân dân. Với Người: NN là gốc, NN là chính, NN là mặt trận
chính, NN là mặt trận hàng đầu, NN là mặt trận cơ bản, NN là việc quan
trọng nhất… Người cho rằng: Việt Nam là một nước sống về NN, nền kinh tế
lấy canh nông làm gốc, do vậy "Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông
nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh". Từ đó, Người coi việc tập trung phát triển
NN là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và yêu cầu các ngành
khác phải lấy việc phục vụ NN làm trung tâm.
Hồ Chí Minh coi phát triển NN là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn giải
quyết mọi vấn đề xã hội. NN giải quyết nhu cầu quan trọng nhất, cơ bản nhất,
cấp thiết nhất của con người là nhu cầu ăn, mặc, ở. Trong đó, ăn là nhu cầu
đầu tiên. Chỉ khi nào thỏa mãn được các nhu cầu ăn (và mặc, ở) trên một mức
độ nhất định thì người ta mới nghĩ đến những nhu cầu cao hơn. Hồ Chí Minh
viết "Sản xuất nông nghiệp trước hết là sản xuất lương thực, là việc cần thiết
nhất cho đời sống nhân dân, là bộ phận cực kỳ quan trọng trong kế hoạch kinh
tế của Nhà nước" [47, tr. 5]. Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng,
ngày 7/12/1945, Hồ Chí Minh đã viết trên báo "Tấc đất" số đầu tiên:


24

Loài người ai cũng "dĩ thực vi tiên" (nghĩa là trước cần phải
ăn); nước ta thì "dĩ nông vi bản" (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân
muốn ăn no, phải trồng trọt cho nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải
phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất
nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng [42, tr. 114].
Và Người đã chính thức sử dụng thuật ngữ "Khuyến nông" [42, tr.102] sau
ngày Cách mạng tháng Tám thành công, và coi khuyến nông là một nội dung
hợp thành trong chính sách NN của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, vị trí, vai trò của NN càng

được Hồ Chí Minh nhận thức rõ ràng và nhất quán hơn. Ngày 13/6/1955, tại Hội
nghị sản xuất cứu đói, Người nhấn mạnh "Tục ngữ có câu: "Dân dĩ thực vi
thiên" nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn thì không có trời" [45, tr.
572]. Ăn là một nhu cầu thiết yếu. Rõ ràng, không có ăn con người không thể
duy trì được ngay cả sự sinh tồn chứ chưa nói đến hoạt động sản xuất, hoạt
động nghiên cứu sáng tạo, hoặc hoạt động chính trị. Trong Hội nghị này,
Người nói rất giản dị ý đó "Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng
và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì
chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được" [45, tr. 572].
Trong cách nói rất dung dị của Hồ Chí Minh chứa một triết lý vô cùng đơn
giản, vô cùng cụ thể. Không có ăn, không sống được do đó không xây dựng
CNXH được! Người dạy cán bộ rằng: "Phải rất chú ý đến tăng gia sản xuất.
Các cô, các chú có khi công tác, vì trình độ một phần nên chưa nghiên cứu
được về chủ nghĩa Mác - Lênin. Bác chỉ nói một điểm rất giản đơn "Có thực
mới vực được đạo" đó là duy vật, đó là gốc của chủ nghĩa Mác - Lênin" [46,
tr. 420]. Người căn dặn: "Nhân dân ta phải bám lấy đồng ruộng. Ruộng là
chính. Nông nghiệp là chính. Phải thấy xa, đừng chỉ nhìn lợi trước mắt mà
quên lợi sau. Đừng có thấy cây mà chẳng thấy rừng" [47, tr. 12], "có gì sung


25

sướng bằng góp phần đắc lực vào công cuộc phát triển nông nghiệp - nền tảng
để phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa [49, tr. 612].
Trong sự nghiệp cách mạng, theo Hồ Chí Minh, phát triển NN để sản
xuất ra nhiều lương thực thực phẩm là một mặt trận quan trọng, liên quan
đến sự thành bại của chiến tranh. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở đến câu
châm ngôn Hán Việt "thực túc binh cường". Là một chiến lược gia và nhà
quân sự tài ba, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò to lớn của hậu phương.
Hậu phương là chỗ dựa của tiền phương, là nơi quyết định sự thành bại của

của mọi cuộc chiến tranh. Trong chiến tranh, nhân tố quyết định là vấn đề quân
lương. Khi quân đội được cung cấp đủ lương thực, thực phẩm thì sức mạnh
được nhân lên rất nhiều. Đó là nhân tố quyết định sự thành bại nơi chiến
trường. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, năm 1949, trong bài
Việt Bắc quyết thắng, Người viết:
… Lúc này, quan trọng nhất là nông nghiệp, vì "có thực mới
vực được đạo". Có đủ cơm ăn áo mặc cho bộ đội và nhân dân, thì
kháng chiến mới mau thắng lợi, thống nhất và độc lập mau thành
công…Chiến sĩ trước mặt trận thì xung phong giết giặc bằng súng
đạn. Chiến sĩ nhà nông thì xung phong giết giặc bằng cày cuốc,
nghĩa là phải xung phong tăng gia sản xuất, để giúp bộ đội đủ ăn
đủ mặc để đánh giặc [43, tr. 687-688].
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vai trò của NN càng
được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng, năm 1967, Người lại viết: "Quân và dân
ta phải ăn no để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Vì vậy sản xuất lương thực và
thực phẩm là rất quan trọng" [50, tr. 217]. Người xác định: "Sản xuất và chiến
đấu là hai mặt trận quan hệ mật thiết với nhau. Các hợp tác xã nông nghiệp là
đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận… Các xã viên hợp tác
xã phải sản xuất tốt để bộ đội và nhân dân ta ăn no đánh thắng" [50, tr. 193].


×