Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

bài tập dân sự 2 Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.9 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại từ những hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm của bản thân mình là
một quyền cơ bản của công dân. Qua sự bồi thường thiệt hại sẽ bù đắp được
những mất mát, khắ phục hậu quả và giảm đi nỗi đau về tinh thần của người bị
thiệt hại. Đồng thời thấy được sự cần thiết của những quy định của pháp luật đối
với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Hiện nay, quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy đã được luật hóa tại Bộ luật
dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ Điều
604 đến 630 BLDS năm 2005)và một số văn bản pháp luật dưới BLDS khác.
Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ thể trong trách nhiệm BTTHNHĐ luôn
luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người thừa hành pháp luật cũng như các
nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan giả khi tiếp cận. Chính vì vậy, em
xin chọn đề tài: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do
thiệt hại ngoài hợp đồng. Một số vấn đề và thực tiễn. Đối với đề tài này, em xin
1


đi sâu vào vấn đề năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây
ra. Để có thể làm rõ vấn đề trên, ta cần có cơ sở để tiếp cận vấn đề.
NỘI DUNG
I. Khái quát về trách nhiệm và điều kiện phát sinh bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại quan hệ dân
sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài
hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi
thường thiệt hại do mình gây ra. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh
khi chủ thể luật dân sự có hành vi vi phạm nói chung như xâm phạm đến sức


khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Ngoài ra, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn phát
sinh ngay cả khi hai bên có quan hệ hợp đồng trong trường hợp gây thiệt hại về
sức khỏe, tính mạng hoặc các bên có quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại xảy ra
không liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Là một loại trách
nhiệm dân sự nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói chung,
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn có những đặc điểm riêng như:
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thỏa mãn những điều
kiện nhất định do pháp luật quy định, giữa các bên không có quan hệ hợp đồng,
thiệt hại xảy ra không liên quan đến hợp đồng.
- Thiệt hại xảy ra rất đa dạng.
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm tài sản, hậu quả pháp
lí mà người gây thiệt hại phải gánh chịu là hậu quả bất lợi về tài sản.
2


- Người gây thiệt hại phải bồi thường trong một số trường hợp không có
lỗi.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người được bồi
thường và mức độ bồi thường. Trong bộ luật dân sự không quy định cụ thể các
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường. Nhưng từ những quy định đó ta có
cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường phát sinh khi có các điều kiện sau:
Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại xảy ra là điều kiện bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Trong trách nhiệm dân sự dù thiệt hại không nghiêm trọng cũng phải
bồi thường. Nếu không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường thiệt hại.
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm hại đến tính

mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Từ điều 608 đến
điều 611 BLDS quy định về các loại thiệt hại. Trong đó: Thiệt hại về tài sản, đó
là việc tài sản bị mất, bị hủy hoại, hư hỏng, những chi phí để ngăn chặn, hạn
chế, sửa chữa, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của
tài sản. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao
gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu
nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn,
khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm hại. Tổn thất về tinh thần. Đời sống tinh thần là một phạm trù rất
rộng, đó là những tình cảm, cảm xúc của con người khi bị tổn hại sẽ dẫn đến
những tác động tiêu cực như đau thương, âu sầu, góa bụa…. Trong quy định của
3


pháp luật dân sự thì người nào làm người khác bị tổn hại tinh thần thì phải bồi
thường nhằm mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Đó là những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tinh thần của người khác mà được pháp luật bảo về. Hành vi trái
pháp luật là những hành vi không xử sự theo những quy định của pháp luật, trái
với đạo đức xã hội. Hành vi được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không
hành động. Trong luật hình sự thì hành động là hình thức của hành vi khách
quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm,
gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp
luật cấm. Không hành động là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi
tình trạng bình thường của đối tượng của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể
của tội phạm qua việc không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm dù có
điều kiện để làm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp có hành vi gây thiệt hại
nhưng không trái pháp luật. Đó là những trường hợp trong tình thế cấp thiết,

phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc có sự đồng ý của người bị thiệt hại.
Nếu vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thì phải bồi
thường thiệt hại.
Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả được biêu hiện. Về mặt
thời gian, hành vi chính là nguyên nhân gây ra hậu quả đó. Hành vi xảy ra trước,
kết quả xảy ra sau. Hậu quả xảy ra phải chứa đựng khả năng gây thiệt hại của
hành vi. Đồng thời hậu quả chính là sự hiện thực hóa khả năng gây hậu quả của
hành vi. Từ đó, mới xác định được chắc chắn giữa hành vi và hậu quả có có mối
liên hệ hay không.
4


Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biêu hiện dưới hình thức
cố ý hoặc vôý. Lỗi được biểu hiện dưới hai hình thức cố ý và vô ý. Trong đó lỗi
cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ được hành vi của mình
sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không
mong muốn nhưng vẫn để mặc cho thiệt hại xảy ra. Lỗi vô ý gây thiệt hại là một
người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù
phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước được hành vi của mình có khả
năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn
chặn được. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Trong trách
nhiệm dân sự có nhiều trường hợp được coi là lỗi suy đoán bởi hành vi gây thiệt
hại là hành vi trái pháp luật. Chính vì vậy hành vi đó được coi là có lỗi. Lỗi
trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng được xác định theo nguyên tắc
sau:
a. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho dù lỗi đó

là vô ý hay cố ý, mà người gây thiệt hại hoàn toàn không có lỗi thì người gây
thiệt hại không phải bồi thường. Trường hợp này phù hợp với việc gây thiệt hại
trong tình huống bất ngờ.
b. Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại cũng có lỗi vô ý
trong việc gây ra thiệt hại thì trách nhiệm này là trách nhiệm hỗn hợp.
c. Người gây thiệt hại có lỗi vô ý, người bị thiệt hại có lỗi cố ý thì người
gây thiệt hại không phải bồi thường. Như vậy ta có thể thấy nếu người gây ra
thiệt hại nếu không có lỗi thì sẽ không phải bồi thường.
5


3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
Việc BTTH ngoài hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc
thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý
mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thay đổi mức bồi thường.
II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân.
1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi.
Căn cứ Điều 17 tới Điều 21 BLDS năm 2005 quy định, mức độ năng lực
hành vi dân sự của cá nhân gồm hai đối tượng là “người thành niên và người
chưa thành niên” vì vậy năng lực hành vi của hai đối tượng này cũng được quy
định khác nhau, cụ thể: “người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên.
Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Pháp luật quy định
người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên, không bị bệnh tâm thần,

không mắc các bệnh khác dẫn đến không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình, họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, cũng đồng thời có đầy
đủ năng lực tố tụng dân sự trước Tòa án, vì vậy cá nhân này phải chịu “trách
nhiệm” về mọi hành vi của mình trước pháp luật .

6


Khoản 1 điều 606 BLDS quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt
hại thì phải tự bồi thường”. Theo đó, người từ đủ 18 tuổi có khả năng bằng hành
vi của mình tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ. Chính vì vậy, họ phải chịu trách
nhiệm do hành vi trái pháp luật bằng tài sản của chính mình.
2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
Năng lực bồi thường thiệt hại của người dưới 15 tuổi.
Khoản 2 điều 606 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người dưới
mười lăm tuổi như sau: “Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt
hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản
của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài
sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy
định tại Điều 621 của Bộ luật này”. Như vậy có thể thấy, người dưới mười lăm
tuổi tuy đã có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và nghĩa vụ nhưng chưa
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hơn nữa ở độ tuổi này, cá nhân không thể
nhận thức hết được những việc mình đã thực hiện. Chính vì vậy, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng được giao cho cha, mẹ hoặc người giám hộ của
người gây ra thiệt hại. Trong trường hợp cha mẹ đều không còn hoặc cha mẹ còn
sống nhưng không đủ điều kiện làm người giám hộ cho con thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được xác định trước hết là trách nhiệm của anh cả hoặc chị cả
đã thành niên có đủ điều kiện phải làm người giám hộ của em chưa thành niên.
Nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người tiếp
theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ. Nếu không có anh,

chị, em ruột hoặc anh, chị, em ruột không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại có đủ điều kiện phải là người giám hộ Điều 62 BLDS 2005. Vậy theo khoản 3 Điều 606 BLDS 2005 thì anh cả hoặc
chị cả hoặc ông bà nội, ngoại là người giám hộ thì họ người được quyền dùng tài
7


sản riêng của người được giám hộ để bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp
người được giám hộ gây thiệt hại mà không có tài sản hoặc không đủ tài sản để
bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường thiệt hại bổ sung bằng tài sản của
mình nếu người giám hộ có lỗi khi thực hiện việc giám hộ. Khi đó nếu người
giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì họ không
phải lấy tài sản của mình để bồi thường khi người được giám hộ gây thiệt
hại.Trong trường hợp, cha, me, người giám hộ đã mang hết tài sản ra để bồi
thương thiệt hại mà không đủ thì nếu người dưới mười lăm tuổi mà có tài sản
riêng thì phải mang ra bồi thường phần còn thếu do việc làm trái pháp luật của
mình gây nên. Khoản 1 điều 621 BLDS quy định: “Người dưới mười lăm tuổi
trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường
thiệt hại xảy ra”. Trong trường hợp này, người dưới mười lăm tuổi mà đang chịu
sự quản lý của nhà trường mà gây thiệt hại thì nhà trường sẽ phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu nhà trường chứng minh được mình không có lỗi
thì cha, mẹ hoặc người giám hộ phải bồi thường thiệt hại do hành vi của người
dưới mười lăm tuổi gây ra. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà
trường trong việc quản lý học sinh đang học trong trường phổ thông cơ sở. Nhà
trường có nghĩa vụ quản lý học sinh trong thời gian học tại trường theo thời
khóa biểu học văn hóa chính khóa, ngoại khóa hoặc lao động, vui chơi, giải trí
do nhà trường tổ chức mà học sinh gây thiệt hại cho người khác thì nhà trường
phải bồi thường .
Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Cũng trong khoản 2 điều 606 BLDS quy định“…Người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình;

nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu
bằng tài sản của mình.” Quy định này căn cứ vào khoản 2 điều 20 BLDS “Trong
trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản
8


riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.’’. Như vậy ta nhận thấy sự khác biệt
giữa người dưới mười lăm tuổi và người từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi
về cách thức dùng tài sản để bồi thường thiệt hại. Đối với người dưới mười lăm
tuổi thì khi người đó gây ra thiệt hại thì cha, me, hoặc người giám hộ phải dùng
tài sản của mình để bồi thường. Còn đối với người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới
mười tám tuổi thì khi gây ra thiệt hại thì phải dùng tài sản riêng của chính mình
để bồi thường thiệt hại. Chỉ trừ trong trường hợp người đủ mười lăm đến dưới
mười tám tuổi mà không có hoặc tài sản riêng không đủ để bồi thường thiệt hại
thì lúc đó mới lấy tài sản của cha, mẹ ra để bồi thường thiệt hại. Các nhà làm
luật quy định như vậy vì người ta nhận thấy bắt đầu đủ mười lăm tuổi thì có khả
năng lao động. Có nghĩa là sẽ tạo ra được tài sản. Như vậy, với quy định này đã
buộc những người dưới mười tám tuổi phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Qua đó làm giảm gánh nặng bồi thường cho cha, mẹ người gây ra thiệt hại.
3. Năng lực bồi thường thiệt hại của người được giám hộ
Theo quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS 2005: “Người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì
người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu
người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì
người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng
minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của
mình để bồi thường”. Vấn đề này đặt ra trong trường hợp người dưới 15 tuổi và
người mất năng lực hành vi dân sự không còn cha mẹ, không xác định được cha

mẹ hoặc còn cha mẹ nhưng cha mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự thì ai sẽ chịu trách nhiệm bồi thường? Theo Điều 58
BLDS 2005, “giám hộ là việc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định hoặc
9


được cử đẻ thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự”. Việc đặt ra quy chế người
giám hộ nhằm mục đích bảo vệ pháp lý cho người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự.
Địa vị pháp lý của người giám hộ hoàn toàn khác biệt so với địa vị pháp
lý người là cha, mẹ của người chưa thành niên khác. Người giám hộ thực hiện
các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người được giám hộ, do đó họ cũng phải chịu những trách nhiệm
pháp lý trong khi thực hiện việc giám hộ của mình, trong đó có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ gây ra. Họ sẽ
có tư cách bị đơn dân sự thay cho người được giám hộ trước Tòa án.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS 2005 thì khi người được giám
hộ gây thiệt hại cho người khác, người giám hộ có trách nhiệm dùng tài sản của
người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác. Trong trường hợp người được
giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của
người giám hộ mà để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác. Nếu
người giám hộ hoàn toàn không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài
sản của mình để bồi thường. Đặc biệt trong trường hợp người chưa thành niên
không còn cha mẹ hoặc không có xác định được cha mẹ hoặc cha mẹ mất năng
lực hành vi dân sự mà cũng không có người giám hộ hoặc có người giám hộ
nhưng người giám hộ hoàn toàn không có lỗi trong việc giám hộ, nếu người
chưa thành niên gây thiệt hại thì người bị thiệt hại không được bồi thường và
trong trường hợp này được xem là trường hợp người bị thiệt hại chịu rủi ro vì

yêu cầu bồi thường thiệt hại không thể thực hiện được.

10


Khoản 2 điều 621 BLDS quy định : ‘‘Người mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp
quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.’’. Quy định
này có ý nghĩa không những về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa trên thực tế của
đời sống xã hội. Nó ràng buộc trách nhiệm của bệnh viện, tổ chức xã hội phải
tăng cường công tác quản lý người bị mất năng lực hành vi dân sự. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của chủ thể quản lý người bị mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại là một trách nhiệm pháp lý phụ thuộc vào yếu tố lỗi của chủ thể
quản lý. Nếu bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong
quản lý thì cha mẹ, người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại. Ngược lại với trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
cha mẹ, người giám hộ cũng là trách nhiệm pháp lý nhưng không phụ thuộc điều
kiện lỗi của cha mẹ trong việc quản lý, giám sát hành vi của con mình khi chúng
bị mất năng lực hành vi dân sự. Họ luôn có trách nhiệm bồi thường ngay cả khi
không có lỗi trong việc quản lý, giám sát con bị mất năng lực hành vi dân sự gây
thiệt hại.
4. Một số trường hợp riêng biệt về năng lực bồi thường thiệt hại.
a. Năng lực bồi thường của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Người bị hạn chế năng lực là những người thuộc khoản 1 điều 23 BLDS,
đó là những người: ‘‘ Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác’’.
Khi có đơn yêu cầu thì tòa án ra quyết định những người này là những người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đối với những người bị hạn chế năng lực hành
vi thì khi gây ra thiệt hại cho người khác cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Khi có quyết định của Tòa án thì những người này từ người có đủ năng
lực hành vi dân sự sẽ trở thành người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người

bị hạn chế năng lực hành vi vẫn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
11


của mình trong những trường hợp nhất định. Hơn nữa, theo như đã phân tích thì
người mất năng lực hành vi dân sự khi gây ra thiệt hại thì vẫn phải chịu trách
nhiệm bồi thường băng tài sản của chính mình. Từ đó, có thể thấy người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi gây ra
thiệt hại.
b . Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân là người của pháp nhân
gây ra.
Điều 618 BLDS quy định : ‘‘Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người
của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp
nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây
thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật’’. Pháp nhân
không thể tự mình thực hiện công việc được. Chính vì vây, pháp nhân phải có
những người nhân danh pháp nhân và thực hiện công việc cho pháp nhân. Trong
nhiều trường hợp những người nhân danh pháp nhân gây thiệt hại khi đang thực
hiện công việc cho pháp nhân. Trong trường hợp này, pháp nhân phải đứng ra
bồi thường cho người bị thiệt hại.Nếu chứng minh được người thực hiện công
việc cho pháp nhân mà có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì pháp nhân có quyền
yêu cầu người đó hoàn trả một khoản tiền cho pháp nhân. Qua đó, đối với người
của tổ chức mà gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ thì pháp nhân phải
trực tiếp đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường.
III. Ý nghĩa của vấn đề xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, pháp luật có quy định về
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân. Quy định về năng
lực chịu trách nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là rất cần
thiết. Vì cá nhân gây thiệt hại và việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại

12


thuộc về ai có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa về mặt thực
tế quan trọng. Việc xác định ai là người phải bồi thường thiệt hại do cá nhân là
người đã thành niên, người chưa thành niên hoặc là người mất năng lực hành vi
dân sự khi họ gây thiệt hại là mục đích điều chỉnh của pháp luật, vừa để xác định
rõ chủ thể có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại để quy trách nhiệm cho
người đó, đồng thời là căn cứ xác định tư cách chủ thể trong tố tụng dân sự; ai là
bị đơn dân sự phải bồi thường trách nhiệm dân sự trước Tòa án trong trường hợp
cá nhân gây thiệt hại cho người khác. Hơn nữa, nó có ý nghĩa bảo vệ lợi ích của
người bị thiệt hại hoặc nhân thân của người bị thiệt hại đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật. Người gây thiệt hại có thể là bất cứ ai: cá nhân, pháp nhân,
cơ quan nhà nước… nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có khả năng
bồi thường, mặc dù hành vi gây thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện.
BLDS chỉ quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá
nhân mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác. Bởi vì
các chủ thể khác đương nhiên được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
theo quy định của pháp luậ hiện hành được quy định tại Điều 606 BLDS và
hướng dẫn chi tiết tại tiểu mục 3 mục I nghị quyết 03/2006/HĐTP – TANDTC
ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao dựa mức độ
năng lực hành vi, tình trạng tài sản, khả năng bồi thường thiệt hại của cá nhân và
xác định cá nhân gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người bị thiệt hại theo các mức độ năng lực hành vi dân sự khác nhau. Pháp luật
căn cứ vào những điều kiện về độ tuổi và sự phát triển của trí tuệ, nhận thức, căn
cứ khả năng tạo lập tài sản cảu cá nhân để có cơ sở xác định trong trường hợp cá
nhân khi gây thiệt hại cho người khác thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
thực hiện với mức độ nào.


13


IV. Những điểm bất cập của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật hiện hành .
Thứ nhất ,theo quy định tại khoản 2 Điều 621: “Người mất năng lực
hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức
khác trực tiếp quản lí thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy
ra”. Theo quy định của pháp luật, một người chỉ được coi là mất năng lực hành
vi dân sự khi có đủ ba điều kiện:
- Do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình.
- Người có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu tòa án tuyên bố người bị
mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác đó mất năng lực hành vi dân sự .
- Tòa án tuyên bố người bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác đó mất
năng lực hành vi dân sự.
Tuy nhiên, trên thực tế, những bệnh nhân mắc bênh tâm thần hoặc bệnh
khác khiến không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình đang được điều
trị tại bệnh viện hoặc được quản lí tại các tổ chức khác hầu như chưa được Tòa
án tuyên bố là mấtnăng lực hành vi dân sự. Vậy trong trường hợp những người
này gây thiệt hại trong thời gian bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lí thì
ai là người có trách nhiệm bồi thường
Thứ hai , việc quy định nhà trường , bệnh viên… phải chịu trách nhiệm
ngoài hợp đồng người chưa thành niên dưới 15 tuổi khi gây thiệt hại ngoài hợp
đồng quy định này là chưa hợp lí đối với trường hợp người gây thiệt hại là
người chưa thành niên dưới 15 tuổi. Bởi lẽ, hầu hết các hành vi gây thiệt hại của
các trẻ em trong thời gian học tập tại trường không đơn thuần là kết quả của quá
trình giáo dục riêng của nhà trường, mà là sản phẩm của quá trình giáo dục của
14



cả nhà trường và cha mẹ, trong đó, vai trò của cha mẹ rất quan trọng. Vì vậy, để
tránh tình trạng phó thác việc giáo dục học sinh cho một bên, nên quy định
nghĩa vụ liên đới của cha mẹ và nhà trường .
Thứ ba ,thực tiễn áp dụng trách nhiệm BTTH trong trường hợp này vẫn
có những tình huống xảy ra mà luật không dự liệu trước, khiến cho các thẩm
phán tại các tòa án gặpnhiều khó khăn trong công tác xét xử.

V. Giải pháp, kiến nghi hoàn thiện quy định của pháp luật về năng
lực chịu tráchnhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
- Các cơ quan chức năng cần tiến hành kiểm tra lại toàn bộ các quy định
vềtrách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân trong các lĩnh
vực khác nhau để có thể sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành những quy định mới
nhằm bảo đảm sự thống nhất với các nguyên tắc trong bộ luật dân sự. ?
- Nên sửa quy định Điều 621 BLDS thành: “Người do bị bệnh tâm thần
hoặc mắcbệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp
quản lí thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra”.
- nên quy định việc gia đình cũng liên đới chịu trách nhiệm của cha mẹ và
nhà trường khi trẻ dưới 15 tuổi gây thiệt hại ngoài hợp đồng .
- Cần đẩy mạnh, gia tăng trách nhiệm quản lý của gia đình, bệnh viện, tổ
chức xã hội…trong việc quản lý trẻ em dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi
dân sự. Đồng thời gia đình có trách nhiệm giáo dục con trẻ ý thức được hành vi
của mình, cần có trách nhiệm đối với các quyền dân sự gắn với bản thân cũng
như các quyềndân sự của người khác và đối với lợi ích chung của xã hội.
15


- Tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của nhân dân hiểu
thêm vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng qua các phương tiện thông tin

đại chúng, giảng dạy trong nhà trường, cũng như trên các sách báo, internet…

KẾT LUẬN
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một vấn đề mang tính khoa học
pháp lý và thực tiễn; nó có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các quy
phạm pháp luật dân sự. Tuy nhiên việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong tình hình hiện tại là một vấn đề khá phức tạp và nan giải; đòi hỏi các nhà
làm luật phải giải quyết như thế nào cho hợp tình hợp lý. Trong đó, việc giải
quyết tốt vấn đề xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng đóng vai trò không nhỏ. Vì vậy, hi vọng rằng trong thời gian không xa
các nhà nghiên cứu luật pháp sẽ có thêm nhiều kiến nghị mới nhằm giải quyết
vấn đề này nhằm đảm bảo hơn nữa lợi ích của người bị thiệt hại hoặc nhân thân
của người bị thiệt hại, cũng như đảm bảo được tính ổn định, nghiêm minh của
pháp luật và sự tin tưởng vào hệ thống pháp luật của người dân Việt Nam.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009.
2. Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 2
3. Bộ luật lao động Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2006
4. Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004
5. Nghị quyết số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 hướngdẫn áp
dụng một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
6. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vè tài sản, sức khỏe và tính mạng, NXB
Hà Nội, TS. Phùng Trung Tập.
7. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra / Nguyễn
Đức Mai / Toà án nhân dân, 1998,

8. Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong Bộ luật dân sự : Luận án thạc sĩ luật học / Lê Mai Anh, NXB Trường đại
học Luật Hà Nội, 1997
9. Pháp luật, áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ở Việt
Nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện / Đinh Thị Mai Phương/Tạp chí
Luật học Số 3/2002.
10. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Khoá luận tốt nghiệp
Chu Nam Sơn , NXB Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997.
17



×