Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tư tưởng về đạo làm người của khổng tử với việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (33.87 MB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
  

LÊ THỊ THU HÀ

TƯ TƯỞNG VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI CỦA KHỔNG TỬ
VỚI VIỆC GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng – năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
  

LÊ THỊ THU HÀ

TƯ TƯỞNG VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI CỦA KHỔNG TỬ
VỚI VIỆC GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤN HÙNG



Đà Nẵng – năm 2014


L
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả


MỤC LỤC
.......................................................................................................... 1
1.

...................................................................... 1

2. Mục đích, nhiệm vụ củ

............................................................ 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu củ

...................................... 3
ứu ......................................... 4

5. Bố cục của luận văn ............................................................................ 4
............................................................................... 4
CHƯƠNG 1.


N
.......................... 9

...................................................................................................... 9
ổng Tử .......................................... 9
1.1.2. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội thời kỳ

-

................................................................................................................. 12
1.1.3. Tiền đề

của sự hình thành tư tưởng về đạo làm người của

Khổng Tử ........................................................................................................ 18

........................................................................................ 20
1.2.1. Khái niệm “đạo” và “đạo làm người” ......................................... 20
........................................... 21
................................................ 30
................................. 33

.......................................................................................... 35
- tôi .................................................................. 35
- con................................................................. 38


-

.............................................................. 43


- em ................................................................. 44
................................................................ 46
-

................................................................. 47

CHƯƠNG 2.
CHO

............ 49

................................................................................... 49

............................................................................................... 58
CHƯƠNG 3.

................................................................ 70
TRONG
....................................................... 70

...................................................................... 79
................ 79
ên ... 82

................................................................................................................... 86

....................................................................................... 89
....................... 94
.................................................................................................... 99


QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI


1

1.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tư tưởng của Khổng Tử có một v
đặc biệt

Tư tưởng về đạo làm người của Khổng Tử đã có mặt ở Việt Nam từ
hàng ngàn năm, song hành cùng lịch sử phong kiến Việt Nam. Trong quá tình
du nhập vào Việt Nam, tư tưởng của Khổng Tử và của Nho giáo từ chỗ lúc
đầu bị đối xử thiếu thiện cảm do đi theo gót chân của kẻ xâm lược dần dần nó
đã du nhập vào đời sống cộng đồng bởi những nét tương đồng và không
ngừng thay đổi, thích ứng với văn hóa bản địa. Người Việt Nam đã sớm tiếp
biến tư tưởng của Khổng Tử không chỉ bởi sự giao thoa văn hóa tự nhiên mà
còn bởi sự ủng hộ và tiếp sức của giai cấp phong kiến Việt Nam qua nhiều
triều đại.

ư tưởng của Nho giáo, trong đó có tư
tưởng và tấm gương về đạo làm người của Khổng Tử và nhiều danh nho khác
đã sớm chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong nền giáo dục và đời sống tinh
thần của người Việt Nam.
Ở Việt Nam, những giá trị về đạo đức đặc biệt là tư tưởng về đạo làm
người của Khổng T


2
phần xây dựng,

hoàn thiện đạo đức cho mỗi cá nhân và xã hội mà còn giúp cho mỗi người
nhận rõ trách nhiệm của mình với gia đình, với xã hội, góp phần vào việc xây
dựng, phát triển đất nước không c
hiện nay.
Tuy nhiên, trong

thiếu

-

theo

vì nó đi ngược lại với truyền thống nhân nghĩa, lễ giáo, tôn sư trọng đạo
v v.v..

-


3

2.1. Mục đích
của Khổng Tử và
để kế thừa những giá trị đó nhằm
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Trình bày cơ sở hình thành,
tưởng về đạo làm người của Khổng Tử.
hiện nay.
để kế thừa những giá trị


-

trong tư tưởng về đạo làm người của Khổng Tử nhằm
nay.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
đây
thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Triết học Nho giáo bao gồm rất nhiều vấn đề như chính trị xã hội, giáo
dục… nhưng ở đây luận văn chỉ nghiên cứu một số tác phẩm của Nho gi
vấn đề tư tưởng về đạo làm người của Khổng Tử với việc giáo dục thế hệ trẻ
ở nước ta hiện nay.


4

đ

-L

khoa học khác,

-

như phương pháp logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, quy nạp, phương pháp
đối chiếu, so sánh, …v.v.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương (7 tiết):
Chương 1:

.
Chương 2:

ho
.

Chương 3:
.
Học thuyết chính trị xã hội, tư tưởng đạo đức nói chung và tư tưởng về
đạo làm người nói riêng của Nho giáo cùng với với việc giáo dục cho thế hệ
trẻ ở nước ta hiện nay là hướng nghiên cứu của đã và đang thu hút sự quan
tâm của nhiều học giả trong nhiều ngành khoa học như: Triết học, văn hóa
học, sử học, tôn giáo học, giáo dục học, đạo đức học, vv.. Có thể khái quát
kết quả nghiên cứu đó theo các hướng sau:
Hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu về Khổng Tử trong tổng thể


5
nền văn hóa Trung Quốc. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có thể kể đến
các tác phẩm như:“Sử ký”của Tư Mã Thiên (Nxb Văn học, Hà Nội,
1988);“Đạo đức Phương Đông cổ đại”của PGS Vũ Tình (Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998); “Đại cương triết học sử Trung Quốc”, của nhà triết học
Trung Quốc Phùng Hữu Lan (người dịch: Nguyễn Văn Dương, Nxb Thanh
niên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Hà Nội, 1999);“Lịch sử văn minh và
các triều đại Trung Quốc” của TS. Dương Ngọc Dũng và nhà nghiên cứu
Anh Minh (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2004);“Lịch sử văn minh
Trung Hoa” của nhà sử gia lớn thời hiện đại Will Durant (Nguyễn Hiến Lê
dịch, Nxb Văn hóa - Thông tin Hà Nội, 2004);“Nho giáo Trung Quốc” của
tác giả Tôn Nhan (Nxb Văn hóa - Thông tin, 2005);“Lịch sử triết học Phương
Đông” của GS. Nguyễn Đăng Thục (Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội,

2006)… Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã trình bày một
cách khái quát về tư tưởng triết học của Khổng Tử, trong đó có tư tưởng về
đạo làm người của ông tổ Nho giáo để khắc họa chân dung một con người,
một nhân cách, một đại biểu văn hóa.
Hướng thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử
trong dòng phát triển của lịch sử triết học Trung Quốc. Trong dòng nghiên
cứu này có thể kể đến những công trình tiêu biểu như: Nguyễn Hiến Lê đã có
một loạt các công trình nghiên cứu về Lịch sử triết học Trung Quốc, Nho giáo
và Khổng Tử, như “Nho giáo một triết lý chính trị” (1958), “Đại cương triết
học Trung Quốc” (viết chung với Giản Chi, 1965), “Nhà giáo họ Khổng”
(1972), “Khổng Tử” (1992). Khoa Triết học trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn TP Hồ Chí Minh có công trình “Đại cương triết học Trung
Quốc” do Doãn Chính chủ biên (Nxb chính trị quốc gia, 1999);“Lịch sử triết
học sử Trung Quốc” (2 tập) của TS. Phùng Hữu Lan (Lê Anh Minh dịch, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006)…


6
Các công trình nghiên cứu này đã trình bày, phân tích một cách sâu sắc
triết học Khổng Tử trong tiến trình lịch sử triết học. Hơn nữa các công trình
này tập trung phân tích các học thuyết về chính trị xã hội của Khổng Tử, ít
nhiều có đề cập đến tư tưởng đạo làm người trong mối tương quan đến những
chuẩn mực cơ bản trong tư tưởng của Nho giáo.
Hướng thứ ba, đó là các công trình biên dịch và chú giải về các kinh
điển của Nho gia. Đó là:“Luận ngữ” của Nguyễn Hiến Lê (1995);“Luận
ngữ” của Nguyễn Hiến Lê (1995);“Tứ Thư” của dịch giả Đoàn Trung Côn
(Nxb Thuận Hóa, Huế, 2006); “Tứ thư bình giải” của dịch giả Lý Minh Tuấn
(Nxb Tôn giáo, 2010), v.v.. Những công trình nghiên cứu này biên dịch từ
nguyên bản chữ Hán, đồng thời các nhà nghiên cứu dịch thuật cũng cố gắng
bằng kiến thức uyên thâm của mình để phân tích, thuyết minh một số nội

dung nhằm giúp độc giả hiểu được phần lớn tinh thần của tác phẩm.
Nhìn chung, mỗi công trình nghiên cứu tiếp cận theo một hướng khác
nhau, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào được coi là có cái nhìn toàn
diện về tư tưởng đạo làm người trong triết học của Khổng Tử, chưa có công
trình nào nghiên cứu riêng biệt hoặc trình bày một cách có hệ thống nội dung
của Đạo làm người, chưa có công trình nào đánh giá hết những giá trị và hạn
chế liên quan đến tư tưởng về Đạo làm người của Khổng Tử, cũng như đề ra
phương pháp vận dụng những bài học lịch sử đó vào việc hoạch định chính
sách, biện pháp giáo dục thế hệ trẻ hiện nay.
Liên quan đến vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở nước ta có các
công trình nghiên cứu khảo sát, thống kê về thanh niên, về đạo đức, lối sống
của thanh thiếu niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những công trình
này đã phản ánh thực trạng về tình hình đạo đức, lối sống của thanh niên Việt
Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường đang phát triển, có thể khẳng định đây
là những công trình nghiên cứu chuyên sâu của những nhà khoa học, những


7
công dân đang trăn trở về những biến động trong lối sống, đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội. Có thể kể đến: “Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện
nay”, do Nguyễn Ngọc Phú chủ biên (Nxb Quân đội nhân dân, 2008). Nhóm
tác giả đã trình bày quan niệm chung về chuẩn mực đạo đức theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phân tích các giá trị chuẩn
mực đạo đức truyền thống con người Việt Nam, đồng thời phân tích các tác
động của nền kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa tác
động đến sự vận động biến đổi các chuẩn mực đạo đức của con người Việt
nam hiện nay.
Trong công trình nghiên cứu: Công trình “Điều tra quốc gia về vị
thành niên và thanh niên Việt Nam” công bố ngày 26 tháng 08 năm 2005, cho
đến nay đây là cuộc điều tra về vị thành niên và thanh niên lớn nhất, toàn diện

nhất ở Việt Nam, là nguồn thông tin bổ ích, đáng tin cậy về tình trạng sức
khỏe, đời sống xã hội, thái độ, hoài bão của thế hệ thanh niên Việt Nam ngày
nay. “Vận dung tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình giáo dục đạo đức cho
sinh viên ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” (Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2008), Ths. Phạm Tấn Xuân Phước, PGS.TS Huỳnh Thị Gấm đã trình
bày tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống mới cho
thanh niên, phân tích thực trạng đạo đức, lối sống cho sinh viên, đề ra các
nhóm giải pháp về giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đây là công trình rất công phu, mỗi tác giả lại có cái nhìn chuyên sâu
về từng khía cạnh của đời sống thanh niên hiện nay và từ đó đưa ra những giải
pháp góp phần nâng cao đạo đức xã hội. Song, các tác phẩm còn dừng lại ở
những giải pháp, ở tầm vĩ mô, chung chung mang tính định hướng mà chưa
thực sự cụ thể, phù hợp để xây dựng chuẩn mực đạo đức cho từng nhóm bộ
phận những người Việt Nam, chưa xây dựng được chương trình, biện pháp
giáo dục đạo đức hiệu quả cho đối tượng thanh thiếu niên.


8
Ngoài những công trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến đề tài luận
văn, còn có một số luận
đào tạo con người theo những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức của Nho giáo
như: “Tìm hiểu mẫu người quân tử qua hai tác phẩm ‘Luận ngữ’ và ‘Mạnh
tử’ của Nguyễn Xuân Lộc, “Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con
người qua các mối quan hệ thân - nhà - nước - thiên hạ” của Trần Đình Thảo,
“Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục” của Nguyễn Bá Cường, “Quan niệm
của Khổng Tử về con người và giáo dục đào tạo con người” của Nguyễn Thị
Tuyết Mai, “Tư tưởng của Khổng Tử trong sách Luận ngữ” của Vũ Thị Bích
Ngọc.
Liên quan đến vấn đề này còn có nhiều bài viết trên các tạp chí khoa
học, như: “Nho học và Nho học Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”

của Nguyễn Tài Thư (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997);“Tìm hiều tư
tưởng của Nho giáo” của Minh Anh, (Tạp chí Triết học, s

;“Về

quá trình Nho giáo du nhập vào Việt nam”(Từ đầu công nguyên đến thế kỷ
XIX của Doãn Chính, Nguyễn Sinh Kế (Tạp chí Triết học số 9, 2004);“Vấn đề
bản chất con người trong Nho giáo Trung Quốc cổ đại” của Nguyễn Văn Thọ
(Tạp chí triết học, số 1, 2005);“Tình hình nghiên cứu và hoạt động của giới
Nho học Trung Quốc mấy năm nay” của PGS.TS Nguyễn Tài Thư (Tạp chí
Triết học, số 8, 2007);“Phạm trù Đức trong học thuyết của Khổng Tử” của
Trần Nguyên Việt (Tạp chí Triết học, số 3, 2004).
Với thái độ trận trọng những thành tựu nghiên cứu của các học giả đi
trước đã cung cấp nhiều kiến thức có liên quan đến tư tưởng về đạo làm người
cũng như đạo đức, lối sống xã hội vô cùng bổ ích và có giá trị, tôi đã tham
khảo, kế thừa có chọn lọc và trung thực nguồn tài liệu quý báu đó trong quá
trình thực hiện luận văn của mình.


9

CHƯƠNG 1
N
TRONG
1.1.

1.1.1.
a.
Khổng Tử người làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ,
tỉnh Sơn Đông, phía Bắc Trung Quốc). Theo truyền thuyết, thủy tổ của ông là

Vi Tử, thuộc dòng dõi quý tộc. Khổng Tử sinh vào mùa đông tháng 10 năm
Canh Tuất là năm thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Chu, tức là năm 551 TCN,
tên thật là Khâu, tự là Trọng Ni. Ông sinh ra trong lúc xã hội Trung Hoa cổ
đại loạn lạc triền miên, các vua chúa chuyên tâm hưởng lạc, chém giết lẫn
nhau để xưng hùng, xưng bá. Đạo lý, nhân luân bị xáo trộn, vinh nhục không
rõ ràng, thiện ác khó phân biệt. Cha Khổng tử là Thúc Lương Ngột là quan võ
triều đình nước Lỗ. Mẹ ông là Nhan Trưng Tại hay còn gọi là Nhan Thị. Có
sách chép rằng trán ông cao và gồ lên nên mới đặt tên là Khâu; Khâu nghĩa là
cái gò.
Cha Khổng Tử mất khi ông lên ba tuổi, từ đó gia đình Khổng Tử sống
trong cảnh bần hàn. Từ nhỏ Khổng Tử đã nổi tiếng là người siêng năng hiếu
học, thích chơi trò cúng tế, ngay từ nhỏ đã theo mẹ nhận dạng mặt chữ, lúc
lên năm, sáu tuổi đã tụ tập trẻ con mô phỏng trò tế lễ. Năm 15 tuổi trở đi
Khổng Tử bắt đầu để chí vào việc tự học. Năm 17 tuổi, ông đã nổi danh và
được trọng vọng. Năm 19 tuổi ông lấy vợ, sinh đứa con đầu lòng đặt tên là
Lý, tự Bá Ngư. Đồng thời ông nhận chức Ủy lại, coi việc cân đong thóc ở kho
và làm tư chức lại coi việc nuôi bò, dê để dùng vào việc cúng lễ. Năm 22 tuổi


10
ông bắt đầu dạy học sau đó học nhạc và học đạo. Tuy còn ít tuổi nhưng ông
đã nổi tiếng là một nhà nghiên cứu tài ba. Đến năm 28, 29 tuổi, ông đến học ở
Lạc ấp, là kinh sư của nhà Chu.
Vào khoảng 30 tuổi, Khổng Tử đã bắt đầu nhận đệ tử dể dạy học, song
Khổng Tử không bằng lòng ở đó mà lập trí để sửa trị thiên hạ. Từ năm 34 tuổi
đến năm 51 tuổi ông dẫn học trò đi khắp các nước để truyền bá và tìm người
sử dụng học thuyết của mình. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi
không. Mãi đến năm 51 tuổi, cơ hội thuận lợi mới đến với ông. Năm ấy Lỗ
Định Công cử Khổng Tử làm Trung Đô Tể, tức trưởng quan hành chính thủ
đô, bắt đầu một thời kỳ nắm chính sự của Khổng Tử, ngắn ngủi mà rực rỡ, lấy

Trung Đô làm mẫu mực cho bốn phương làm theo. Một năm sau ông được
tăng làm Tiểu Tư Không rồi thăng làm Đại Tư Khấu, tạm đảm đương chức vụ
tể tướng. Trong vòng mấy năm Khổng Tử đã thể hiện tài chính trị nổi trội của
mình trên các mặt nội chính, ngoại giao, giáo hóa lễ nhạc, chế độ hành chính,
có thể nói là “nước Lỗ đại trị, chư hầu nễ phục”. Song đáng tiếc là cơ hội
không thể kéo dài, vua nước Lỗ trúng kế ly gián của nước Tề, chìm đắm bởi
đoàn nữ nhạc mà nước Tề đem tặng, quên lo chính sự, Khổng Tử chán ngán,
phẫn uất xin từ chức, rời khỏi nước Lỗ chu du liệt quốc, với mong ước tìm
được vua chúa tài giỏi, thi triển được hoài bảo của mình.
Từ năm 55 tuổi đến năm 68 tuổi, Khổng Tử với lòng mong nuốn đi tìm
một mãnh đất thi triển tài năng hoài bảo của mình mà trôi dạt lênh đênh suốt
14 năm, tuy đạt được danh tiếng nhưng cũng nếm đủ mùi cay đắng. Ông
không tìm được chỗ nào để thi hành cái đạo của mình, không có cơ hội để thể
nghiệm với đời.
Cuối đời thấy thực sự bất lực về việc làm chính trị nên năm 68 tuổi
Khổng Tử trở về nước Lỗ. Ông tiếp tục dạy học, san định các sách vở đời
trước như Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của cổ nhân, viết sách Xuân Thu để bộc


11
lộ quan điểm của mình. Nhiều quan điểm của ông thể hiện qua các buổi tọa
đàm mà nội dung của nó sau này được trình bày trong “Luận ngữ” do học trò
của ông chép lại. Như vậy, Khổng Tử là người đầu tiên sáng lập ra trường
học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri
thức văn hóa truyền bá cho nhân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo
dục thời cổ đại.
Đến năm 479 (Chu Kính Vương 41 – Lỗ Ai Công năm 17), ông qua đời
thọ 73 tuổi. Sau khi Khổng Tử mất, nhất là qua giải pháp tàn khốc “đốt sách
chôn nho” của Tần Thủy Hoàng thì sách của Khổng Tử không còn giữ được
là bao. Khi đạo Nho được phục hưng (đời Hán Vũ Đế), sách Nhạc chỉ còn

một thiên được đem chép vào bộ “Lễ ký” gọi là thiên “Nhạc ký”. Những sách
khác được người đương thời sưu tầm, bổ sung tạo thành năm kinh là: Kinh
Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Như vậy, có thể thấy Khổng Tử được sinh ra trong cảnh cơ hàn nhưng
thuộc dòng dõi quyền quý
mà “Bá
đạo” đang lấn át “Vương đạo”, trật tự lễ pháp nhà Chu bị đạo lộn. Khổng Tử
than rằng: “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi” [26, tr. 323].
Cuộc đời Khổng Tử là cuộc đời truy tìm miệt mài. Trong các văn tuyển
của mình, ông viết “Lúc mười lăm tuổi tôi đã đam mê học tập. Khi ba mươi
tuổi, tôi đã trở nên vững vàng. Được bốn mươi tuổi, tôi không còn những ngờ
vực gì hơn. Và khi đã năm mươi tuổi, tôi đã
tôi hòa chung với ý gió. Để khi được bảy mươi tôi có thể đi theo các ước vọng
của lòng mình, và giờ tôi biết chúng đúng” [26, tr. 435].
Cả cuộc đời ông tỏa sáng lên một nhân cách con người toàn vẹn Nhân,
Lễ, Nghĩa, Tín, Dũng. Một con người chìm nổi
vẫn một lòng kiên định thực hiện hoài bão của mình, sống khiêm nhường,


12
giản dị. Một con người luôn vui vẻ và tốt bụng, không hẹp hòi, cố chấp, yêu
người, thương người. Ông xứng đáng là một “tấm gương nhân luân” cho cả
thế hệ sau noi theo.
b. Sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng tử là một nhà tư tưởng lớn của nhân loại, ông đã sáng lập ra
trường phái Nho gia. Học thuyết của ông - Nho giáo hay còn gọi là Nho học
được sử dụng làm cơ sở lý luận của trường phái Nho gia và về sau được phát
triển thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến Trung Quốc và nhiều nước
lân cận trong đó có Việt Nam, Hàn Quốc. Ông đã thấu sách thánh hiền để dạy
bảo người đời ăn ở cho hợp luân thường đạo lý. Trước thời Xuân Thu, nhà

nho được gọi là “sĩ”, chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị vì đất
nước. Đến thời mình, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng và tri thức
trước đây thành học thuyết, học thuyết này được người đời sau gắn với tên
tuổi người sáng lập ra nó gọi là Khổng học hay Khổng giáo hay Nho giáo.
Hồ Chí Minh trong khi trả lời một nhà báo Liên Xô đã nói: “Tôi sinh ra
trong một gia đình nhà Nho An Nam… Thanh niên trong những gia đình ấy
thường học Khổng giáo, đồng chí biết chắc Khổng giáo không phải là tôn
giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử” [39, tr.
477]
Khổng giáo đã tiếp thu nhiều niềm tin tinh thần trong Lão giáo, Phật
giáo và tục lệ dân gian cổ xưa. Nó thiên về thực hành hơn lý thuyết, hầu như
nó sợ những gì là trừu tượng, mà cố đưa ra những quy chuẩn thực tế để sống
giữa cuộc đời này, hơn bất cứ điều gì khác. Giống như Khổng Tử đã viết:
“Luật đạo lý không là điều gì xa lạ với thực tế đời người” [26, tr. 308].
1.1.2. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội thời kỳ Xuân Thu Sự xuất hiện của mỗi học thuyết, tư tưởng, không phải một cách ngẫu


13
nhiên hay từ hư vô, mà luôn có cơ sở khách quan của nó. Một trong những cơ
sở khách quan quan trọng mà trên đó nó ra đời, tồn tại và phát triển là những
điều kiện kinh tế - xã hội. Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, giữa
tư tưởng và những điều kiên kinh tế - xã hội có mối quan hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Mỗi học thuyết luôn nảy sinh trên những điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định. Các Mác từng viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái
đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế
nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”
[12, tr. 156].
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng đạo làm người của Khổng
Tử cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ, nằm ngoài quy luật trên. Do
đó, muốn nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử chúng ta không thể không

đi vào nghiên cứu, tìm hiểu điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, chính trị của
thời đại mà tư tưởng Khổng Tử nói chung cũng như tư tưởng của ông về đạo
làm người nói riêng nảy sinh, hình thành và phát triển.
Khổng Tử sống trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (770 - 221
TCN). Đây là thời kỳ xã hội Trung Quốc đang có những chuyển biến hết sức
căn bản và lớn lao. Chế độ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh
cao là chế độ “Tông Pháp” nhà Chu đang suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ
đang hình thành. Trong xã hội Trung Quốc thời kỳ này diễn ra những biến đổi
hết sức sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, tạo điều kiện cho sự
giải phóng tư tưởng của con người thoát khỏi thế giới quan mang tính chất
thần bí, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của tư tưởng triết học.
Thời kỳ Xuân Thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương dời
đô về phía Đông đến Lạc Ấp (771 TCN). Về mặt kinh tế, thời kỳ này nền kinh
tế Trung Quốc đang chuyển từ thời kỳ đồ đồng sang thời kỳ đồ sắt. Sự ra đời
của đồ sắt đã tạo ra một cuộc cách mạng trong công cụ sản xuất. Nó thúc đẩy


14
nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực, trong đó
nông nghiệp là một nền kinh tế có truyền thống lâu đời và giữ vai trò hết sức
quan trọng ở Trung Quốc.
Với sự ra đời của đồ sắt và những cải tiến mạnh mẽ trong cộng cụ sản
xuất nông nghiệp tất yếu dẫn đến những thay đổi trong quan hệ sản xuất cổ
truyền. Người ta thấy không cần thiết phải chia lại ruộng đất công theo định
kỳ vào đất tốt hay xấu như trước nữa. Giờ đây công xã giao hẳn đất công cho
từng gia đình nông nô cày cấy trong thời gian lâu dài. Vì vậy, nông nô có thể
dùng phương pháp lưu canh hay luân canh để tăng năng xuất cây trồng. Mặt
khác, một số người bình dân do có chút công trạng trong chiến trận mà có
quyền lực đã ỷ vào đó để chiếm ruộng đất công thành ruộng đất tư, một số
khác là nhà buôn giàu có đã giành tiền để mua ruộng đất, một số khác nữa là

những người nghèo khổ đã tập hợp nhau lại để tiến hành khai khẩn ruộng
hoang và trở thành chủ sở hữu lớn về ruộng đất. Tình hình trên, một mặt đã
làm cho cho chế độ “tỉnh điền” dần tan rã, chế độ tư hữu ruộng đất từng bước
được hình thành và được nhà nước thừa nhận. Mặt khác, đã hình thành trong
xã hội một giai cấp mới - giai cấp địa chủ. Giai cấp này vừa giàu có về kinh
tế, vừa đòi hỏi quyền lực về chính trị. Họ tham gia vào giai cấp thống trị xã
hội, sánh vai cùng giai cấp chủ nô.
Cùng với việc thay đổi quan hệ sản xuất, phương thức thu thuế cũng
được thay đổi. Trước đây, theo chế độ “tĩnh điền”, ruộng đất của công xã
được chia đều cho nông nô, nông nô phải nộp một phần sản lượng nông phẩm
thu hoạch được cho công xã để nộp lên triều đình. Khi chế độ tư hữu ruộng
đất phát triển, số lượng ruộng đất của nông dân sở hữu không bằng nhau, nhà
nước đã bãi bỏ hình thức thu thuế cũ và thi hành chế độ thu thuế mới, đánh
thuế vào từng mẫu ruộng (gọi là thuế sơ mẫu). Nước đầu tiên thi hành chế độ
thuế mới này là nước Lỗ vào năm 594 (TCN).


15
Về kinh tế, sự phát triển đa dạng của nhiều ngành nghề thủ công nghiệp
đã có ý nghĩa tích cực trong việc giải phóng sức lao động, góp phần phá vỡ
nền kinh tế thuần nông, nâng cao đời sống của nhân dân Trung Quốc thời cổ
đại. Nhưng về mặt chính trị, mặc dù số thợ thủ công nghiệp đông nhưng do
trình độ còn thấp nên họ chưa có ảnh hưởng lớn trong xã hội.
Cùng với nông nghiệp và thủ công nghiệp, đồ sắt ra đời và trở nên phổ
biến, đồng thời tạo cơ sở cho thương nghiệp phát triển hơn trước, hoạt động
giao lưu buôn bán diễn ra sôi động. Tiền tệ đã xuất hiện. Do nhờ buôn bán mà
giàu có, trong xã hội hình thành một lớp thương nhân ngày càng có thế lực
như Huyền Cao nước Trịnh, Tử Cống (vốn là học trò của Khổng Tử)… Tầng
lớp này thường kết giao với các bậc chư hầu, công khanh đại phu tìm cách leo
lên giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ, gây nhiều ảnh hưởng đối với

chính trị đương thời. Tuy nhiên, do tình trạng xã hội rối ren, lãnh thổ chia
năm xẻ bảy do nạn chư hầu cát cứ, phương tiện giao thông thô sơ, đường sá đi
lại khó khăn, do đó việc kinh doanh không phải ai cũng làm được mà chỉ
những người nào đó có quen biết kết giao với quan lại, người có đầu óc tháo
vát và lòng quả cảm thì mới làm được. Hơn nữa trong quan niệm của người
Trung Quốc luôn xem thường, khinh rẻ người buôn bán, coi đó là nghề rẻ mạt
nhất với tư duy “nông bản, thương mạt”, “Trọng nông, ức thương”. Chính vì
thế, nghề buôn bán ở Trung Q

c sự phát triển. Nhưng

sự hình thành của thương nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã
hội một tầng lớp mới - tiền thân của một bộ phận giai cấp xã hội một tầng lớp
mới - tiền thân của một bộ phận giai cấp địa chủ sau này.
Về chính trị, những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biến
đổi về mặt chính trị trong thời Xuân Thu. Nếu như trong thời Tây Chu chế độ
tông pháp, “phong hầu, kiến địa” vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý
nghĩa về mặt chính trị, ràng buộc về huyết thống có tác dụng tích cực làm cho


16
nhà Chu giữ được sự hưng thịnh trong một thời gian dài, thì đến thời Xuân
Thu, chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn trọng, đầu mối các quan
hệ kinh tế, chính trị, quân sự, giữa Thiên tử và các nước chư hầu trở nên lỏng
lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn được duy
trì như trước. Thiên tử nhà Chu hầu như không còn quyền uy gì đối với các
nước chư hầu. Thiên tử không còn xét xử được những cuộc tranh chấp giữa
các nước chư hầu. Các lãnh chúa nhỏ và vừa xưa nay vẫn dựa vào quyền uy
của Thiên tử thì giờ đây đã trở nên thất vọng, không còn muốn phụ thuộc vào
Thiên tử nữa. Nhiều nước chư hầu mượn tiếng muốn khôi phục lại địa vị tông

chủ của nhà Chu đã đưa ra khẩu hiệu “Tôn vương bài di”, nhưng thực chất là
mưu cầu lợi ích cá nhân, mở rộng thế lực và đất đai, thôn tính các nước nhỏ,
tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ đã đua nhau xuất binh đánh nhau suốt mấy
trăm năm.
Trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc, đã xảy ra tới 483 cuộc chiến tranh
lớn nhỏ giữa các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau. Đầu thời Tây Chu Trung
Quốc có hàng ngàn nước (chư hầu), đến cuối thời Xuân Thu (Đông Chu) chỉ
còn hơn một trăm nước. Trong đó, có những nước hùng mạnh nhất thời bấy
giờ thay nhau làm bá chủ thiên hạ như nước Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt,
Tần. Để tập trung tất cả tài lực và vật lực cho các cuộc chiến tranh, các quốc
gia này đều thi hành chính sách “bá đạo” (cai trị bằng bạo lực, cưỡng bức)
dựa trên sức mạnh và ra sức bóc lột nhân dân và các nước khác, điều này
hoàn toàn khác với chính sách nhân nghĩa “vương đạo” (cai trị bằng đạo đức)
của thánh nhân xưa. Chính sách “bá đạo” đã làm
khổ. Người dân phải tham gia vào quân đội thực hiện các cuộc chinh
phạt của các “tập đoàn” quý tộc, đồng thời phải chịu sưu cao thuế nặng, lao
dịch nặng nề. Thiên tai thường xuyên xảy ra, nạn cướp bóc lại hoành hành
khắp nơi. Đồng ruộng bỏ hoang, cuộc sống nhân dân trăm bề khốn khổ.


17
Cùng với các cuộc thôn tính lẫn nhau của các quốc gia, thì ngay bên
trong mỗi quốc gia cũng nổ ra không ít các cuộc tranh giành quyền lực và đất
đai giữa quý tộc với nhau. Hậu quả của những cuộc tranh giành, thôn tính,
chinh phạt lẫn nhau của tầng lớp quý tộc đã dẫn đến sự diệt vong của hàng
loạt các nước chư hầu nhỏ, đạo đức xã hội bị suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày
càng gia tăng, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên sâu sắc, kể cả mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân cũng như giữa giai cấp thống trị với
nhau, làm cho xã hội ngày càng thêm rối loạn. Lễ nghĩa nhà Chu bị phá hoại,
đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ, tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo

vệ và làm hưng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, thì đến nay cũng bị xem
thường. Hậu quả tất yếu là một vài nơi đã nổi lên các cuộc khởi nghĩa nông
dân và nô lệ, đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân Thu lên đến đỉnh cao, đưa chế
độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi nhanh đến suy tàn và cáo chung.
Chính trong thời đại lịch sử đầy biến động của thời kỳ Xuân Thu đã đặt
ra cho các nhà tư tưởng những dấu hỏi lớn về mặt triết học, chinh trị, luân lý
đạo đức, pháp luật, quân sự,
nghiên cứu để đưa ra những câu trả lời, đưa ra những giải pháp giải quyết
những vấn đề thực tiễn của xã hội lúc bấy giờ. Vì vậy, trong thời kỳ này đã
xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và học thuyết lớn. Có thể nói, đây là
thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Trun
đây là thời kỳ “bách hoa đề phóng” (trăm hoa đua nở), “bách gia tranh minh”
(trăm nhà đua tiếng). Giáo sư Nguyễn Tài Thư đã nhận xét: “Có một thời kỳ
lịch sử Trung Quốc mà ngày nay nhớ đến có người còn xốn xang bở
i nhiều sự kiện l

đã xuất hiện dồn dập, nhiều học thuyết

triết học và chính trị - xã hội ra đời, nhiều khối óc tài ba làm nên sắc thái văn
hóa và tư tưởng của Trung Quốc sau này” [45, tr. 13]. Một học thuyết lớn
nhất trong các học thuyết thời bấy giờ mà người đứng đầu là Khổng Tử cho


18
rằng: Xã hội rối loạn là do con người vô đạo, không theo đạo lý, không có
nhân nghĩa, nên xã hội ổn định thì phải làm cho xã hội có đạo, dẫn dắt con
người về với đạo lý, với đức nhân, với chính danh của mình. Với lý do đó,
Khổng Tử đã đưa ra những tư tưởng về Đạo làm người để điều chỉnh hành vi
của con người trong xã hội, đồng thời đề cao đức trị, lấy đức trị làm phương
tiện nhằm thay đổi xã hội từ “loạn” thành “trị”.

của sự hình thành tư tưởng về đạo làm người
của Khổng Tử
Nho giáo nói chung và tư tưởng về Đạo làm người của Khổng Tử nói
riêng được kế thừa và phát triển từ đời sống tư tưởng của Trung Quốc từ
trước đến bấy giờ, đặc biệt là dưới thời nhà Chu.

nhà Chu.
Từ thời cổ đại, người Trung Quốc đã có tục thờ cúng tổ tiên và linh hồn
người chết, được gọi là thờ quỷ thần. Khổng Tử tôn trọng phong tục đó,
nhưng loại bỏ yếu tố mê tín dị đoan vốn có của nó. Khổng Tử nói “tế thần
như thần tại” (khi cúng tế thần phải coi như thần đang có mặt), nhưng ông
khuyên “thờ quỷ thần” nhưng “kinh nhi viễn chi” (tôn kính nhưng xa lánh), vì
Khổng Tử cho rằng thờ quỷ thần chỉ là biểu hiện lòng tôn kính đối với người
quá cố, nhưng ông không tin quỷ thần có thể giúp gì cho con người.
Quan niệm về “Mệnh Trời” được nhà Chu sử dụng với nghĩa là “sự ủy
nhiệm của Thượng đế”. Vua nhà Chu được gọi là Thiên tử (con Trời), được
Trời giao sứ mệnh cai trị đất nước Trung Quốc. Khổng Tử tuy kế thừa quan
niệm về mệnh Trời của nhà Chu nhưng ông không quan niệm Trời như là một
vị thần, bởi vì ông không hề chủ trương cúng Trời (Trong
không có chỗ nào nói về cúng Trời).

Luận ngữ


19
Quan niệm về “lễ” của Khổng Tử với tính cách là một yếu tố quan
trọng của đạo làm người và đường lối đức trị có nguồn gốc từ các triều đại
trước. Từ mấy nghìn năm về trước cho đến nhà Chu, các triều đại Trung Quốc
đã lấy lễ để trị quốc, đảm bảo được sự thịnh trị của Trung Quốc. Thời bấy giờ,
xã hội còn đơn giản nên vai trò của pháp luật chưa được phát huy. Theo

truyền thuyết, Nghiêu và Thuấn là hai vị vua mẫu mực nhất, cai trị thiên hạ
bằng đạo đức, lễ nghĩa cho nên đất nước thái bình thịnh trị.
Khổng Tử nói: “Không làm gì cực nhọc mà trị được thiên hạ, đó là vua
Thuấn. Ngài đã làm gì? Ngài đã cung kính ngôi trên ngôi và quay mặt về
hướng nam” [26, tr. 4].
Nhà Hạ (2205 - 1767 TCN) và nhà Thương (Ân) (1766 - 1122 TCN) đã
dùng lễ cai trị gần hơn một nghìn năm. Nhà Chu (1122 - 256 TCN) kế thừa lễ
của hai triều đại trước đó cai trị Trung Quốc được gần 870 năm, là triều đại
lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc, chia thành hai giai đoạn : Tây Chu (1122 771 TCN) và Đông Chu (771 - 256 TCN).
Khổng Tử nói: “Lễ nhà Chu kế thừa hai triều đại đã qua (nhà Hạ và nhà
Thương), vì thế lễ

nhà Chu phong phú rực rỡ thay! Cho nên ta theo lễ nhà

Chu.” [26, tr.14].
Vũ trụ quan và nhân sinh quan của Khổng Tử còn là sự kế thừa tư
tưởng trong sách Hồng Phạm, sách dựa trên quan điểm “ngũ hành” để xét mối
quan hệ giữa vua và dân, trong đó nêu lên vai trò quan trọng của nhà vua, của
đạo làm vua. Những tư tưởng chứa đựng trong sách Hồng Phạm tuy sơ lược
nhưng đó là gốc rễ để các nhà Nho nói chung và Khổng Tử nói riêng xây
dựng nên những mối quan hệ chồng chéo, đan xen, phức tạp giữa con người
với con người.
Như vây, có thể nhận thấy rằng, xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu bấy
giờ là xã hội hỗn loạn về đẳng cấp và danh phận, các chư Hầu xâm lấn lẫn


20
nhau. Trước thực trạng xã hội và bằng nhãn quan giai cấp của mình, Khổng
Tử đã sáng lập Nho giáo, xây dựng nên hệ thống chuẫn mực về đạo làm người
để đưa xã hội từ loạn lạc đến thái bình, thịnh trị.

1.2.
1.2.1. Khái niệm “đạo” và “đạo làm người”
“Đạo” là một trong những khái niệm cơ bản nhất của triết học Trung
Quốc cổ - trung đại. Tất cả các trường phái đều nói về “đạo”, nhưng có những
cách hiểu khác nhau. Phái Đạo gia do Lão Tử sáng lập coi “đạo” là bản
nguyên và quy luật vận hành của vũ trụ (Thiên đạo – đạo Trời). Con người
không có đạo riêng của mình mà chỉ làm theo đạo Trời. Đạo gia hướng con
người sống theo lẽ tự nhiên, “vô vi”. “Vô vi” có nghĩa là không làm gì trái với
đạo Trời. Còn Pháp gia thì trái lại không tin ở đạo Trời, mà chú trọng tới nhân
đạo, tức đạo pháp trị để giúp cho các nước trở thành nước mạnh, binh cường.
Với lập trường và mục đích chính trị riêng của mình, học thuyết chính
trị - xã hội, đạo đức Khổng Tử chú trọng đến mối quan hệ giữa con người với
con người nhằm phát triển mặt nhân đạo và trên cơ sở đó mà hình thành nên
tư tưởng về đạo làm người.
nhưng ngày nay
luận bàn về nó không phải là điều đã cũ, cổ hủ. Bởi lẽ, từ khi có con người và
xã hội loài người thì những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con
người với con người, con người với chính bản thân mình luôn nảy sinh và do
vậy, đạo làm người luôn vận hành. Ngày nay khi xã hội càng phát triển, trình
độ nhân thức của con người ngày càng được nâng cao, mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình nảy sinh nhiều vấn đề phức
tạp thì đạo làm người lại càng chú ý hơn bao giờ hết.
Khi bàn đến đạo làm người, các nhà Nho và những nhà nghiên cứu Nho


×