Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Bài 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.32 KB, 35 trang )

1

Bài 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. Thông tin về giảng viên
1. Giảng viên biên soạn và chỉnh sửa, bổ sung
a. Giảng viên biên soạn
Họ và tên: GS. TS Nguyễn Ngọc Long
GS. TS Nguyễn Hùng Hậu
GS. TS Trần Phúc Thăng
PGS. TS Trần Thành
Chức danh khoa học, học vị:
Nơi làm việc: Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Địa chỉ liên hệ: 135 Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại, email:
Các hướng nghiên cứu chính:
b. Giảng viên chỉnh sửa, bổ sung
Họ và tên: Trần Văn Phòng
Chức danh khoa học, học vị: Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Nơi làm việc: Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Địa chỉ liên hệ: 135 Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 091.214.8194
Email:
Các hướng nghiên cứu chính:
2. Dự kiến giảng viên tham gia giảng dạy
Họ và tên: Giảng viên trường chính trị
Chức danh khoa học, học vị:


2



Nơi làm việc:
Địa chỉ liên hệ:
Điện thoại, email:
Các hướng nghiên cứu chính:
II. Thông tin chung về bài
- Tên bài: Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Số tiết của bài: 12 tiết.
- Yêu cầu của bài: bắt buộc.
- Địa chỉ đơn vị phụ trách bài: Khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
III. Mục tiêu của bài
1. Về kiến thức
Trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
2. Về kỹ năng
Giúp học viên rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng trong việc
nhận thức các vấn đề xã hội, khắc phục tư duy siêu hình, bệnh giáo điều và
kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo, quản lý.
3. Về thái độ
Giúp học viên củng cố niềm tin vào chủ nghĩa duy vật biện chứng và sự
nghiệp cách mạng do đảng cộng sản lãnh đạo.
IV. Tóm tắt nội dung của bài
1. Khái lược về triết học
2. Chủ nghĩa duy vật mác xít - cơ sở khoa học cho nhận thức và cải tạo
hiện thực
3. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
4. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng



3

V. Nội dung chi tiết của bài
1. KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC
1.1. Vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII-VI Tr.CN. Theo tiếng Hy Lạp cổ,
triết học được ghép từ 2 từ “philos - tình yêu” và “sophia - sự thông thái”.
Theo nghĩa đen, triết học là tình yêu đối với sự thông thái. Khác với thần
thoại chủ yếu là những quan niệm tưởng tượng hoang đường về thế giới; khác
với tôn giáo là sự phản ánh thế giới một cách hư ảo, triết học phản ánh thế
giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật
chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dưới
dạng lý luận.
Ph.Ăngghen trong tác phẩm Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của
triết học cổ điển Đức đã nêu “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” 1. Vấn đề này
được coi là vấn đề cơ bản của triết học, vì nó ra đời cùng sự ra đời của triết
học và tồn tại cùng sự tồn tại của triết học suốt từ khi ra đời cho đến nay. Hơn
nữa, giải quyết vấn đề này như thế nào sẽ quy định việc giải quyết tất cả các
vấn đề triết học khác như thế.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi
giữa tồn tại (vật chất) và tư duy (ý thức) cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào?. Việc giải quyết mặt thứ nhất này đã phân chia các
nhà triết học thành hai trường phái lớn. Một là, chủ nghĩa duy vật cho rằng
tồn tại (vật chất) có trước tư duy (ý thức) và quyết định tư duy (ý thức). Hai
là, chủ nghĩa duy tâm, ngược lại cho rằng tư duy (ý thức) có trước tồn tại (vật
chất) và quyết định tồn tại (vật chất). Trong chủ nghĩa duy tâm lại chia thành
1


C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.21, tr.403.


4

hai nhánh là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm
chủ quan cho rằng ý thức chủ quan ở trong đầu óc con người là nguồn gốc của
mọi sự vật, hiện tượng. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng ý thức của
các lực lượng siêu nhiên như tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt đối, v.v. ở ngoài
đầu óc là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng. Mặt thứ hai trả lời câu hỏi tư
duy (ý thức) của con người có thể phản ánh được tồn tại (vật chất) hay
không? Nói cách khác là con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học phân chia các
nhà triết học thành những các học thuyết: khả tri (có thể biết) - khẳng định
con người có thể nhận thức được thế giới; bất khả tri (không thể biết) - phủ
định khả năng nhận thức thế giới của con người; hoài nghi - nghi ngờ khả
năng nhận thức thế giới của con người. Sự phát triển của khoa học và thực
tiễn của nhân loại đã bác bỏ chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết.
1.2. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học
Thế giới quan là hệ thống quan niệm về thế giới, về bản thân con người
và vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế
giới quan, nghĩa là triết học quan niệm về thế giới bằng hệ thống lý luận của
mình. Thế giới quan triết học có chức năng định hướng cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nghĩa là, trên cơ sở quan niệm
triết học về thế giới này mà con người sẽ định hướng hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của mình. Chẳng hạn, nếu một người có quan niệm duy
vật về thế giới thì trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, anh ta sẽ
hành động theo tinh thần duy vật. Ngược lại, nếu anh ta có thế giới quan duy
tâm thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh ta sẽ thực hiện theo tinh
thần duy tâm. Trong triết học có hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau là thế

giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.


5

Cùng với chức năng thế giới quan, triết học còn có chức năng phương
pháp luận. Phương pháp là những nguyên tắc, cách thức thực hiện hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục đích đã đặt ra. Phương pháp
luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống quan điểm, nguyên tắc xác định
phương pháp, phạm vi ứng dụng phương pháp, v.v. cho hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn. Chức năng phương pháp luận của triết học thể hiện ở
chỗ nó chỉ ra cho chủ thể phương pháp xem xét, nhận thức và cải tạo thế giới.
Trong triết học có hai phương pháp đối lập nhau là phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình. Phương pháp biện chứng là phương pháp
xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, vận động, biến đổi, phát triển.
Phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, tĩnh
tại, bất biến, đứng im. Trong chủ nghĩa duy vật mác xít có sự thống nhất giữa
thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Thế giới quan trong chủ
nghĩa duy vật mác xít là thế giới quan duy vật biện chứng, còn phương pháp
biện chứng là phương pháp biện chứng duy vật.
2. CHỦ NGHĨA DUY VẬT MÁC XÍT - CƠ SỞ KHOA HỌC CHO
NHẬN THỨC VÀ CẢI TẠO HIỆN THỰC
2.1. Quan điểm duy vật mác xít về vật chất
Vật chất là phạm trù cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa duy vật. Cũng như
các phạm trù khác của triết học duy vật, nội dung của phạm trù vật chất luôn
được bổ sung, phát triển cùng sự phát triển của khoa học, của thực tiễn và
nhận thức của con người. Kế thừa những thành tựu của các nhà duy vật trong
lịch sử, đặc biệt là quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất,
V.I.Lênin trên cơ sở khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên đương
thời đã đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết

học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm


6

giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác”1.
Vật chất trong định nghĩa của V.I.Lênin phải được hiểu theo nghĩa triết
học, nghĩa là nó mang tính khái quát hóa cao, phản ánh tất cả những dạng tồn
tại cụ thể của vật chất. Vật chất có nhiều thuộc tính nhưng thuộc tính cơ bản
nhất là “thực tại khách quan” - tức là tồn tại khách quan độc lập với ý thức
của con người và loài người. Thuộc tính này là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt
cái gì thuộc vật chất, cái gì không thuộc vật chất. Định nghĩa về vật chất của
V.I.Lênin cũng khẳng định tư duy của con người có thể nhận thức được vật
chất. Rõ ràng, định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin đã khắc phục được hạn
chế của những quan niệm siêu hình, máy móc về vật chất của các nhà duy vật
trước đó. Đồng thời bác bỏ được thuyết không thể biết cũng như mọi biểu
hiện của quan niệm duy tâm về vật chất.
2.2. Quan điểm duy vật mác xít về ý thức
Các nhà duy tâm cho rằng, ý thức “sinh” ra vật chất, quyết định vật
chất chứ không phải là sự phản ánh vật chất. Các nhà duy vật trước Mác nhìn
chung đều thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan và ý thức là sự phản
ánh thế giới khách quan đó vào đầu óc con người. Tuy nhiên, do mang tính
siêu hình nên họ không thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức cũng
như tính biện chứng trong quá trình phản ánh.
Chủ nghĩa duy vật mác xít khẳng định ý thức có nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội. Nguồn gốc tự nhiên thể hiện ở chỗ ý thức là thuộc tính
phản ánh của bộ óc người. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật
chất. Đó là năng lực giữ lại và tái hiện lại của hệ thống vật chất này những
đặc điểm của hệ thống vật chất khác, khi hai hệ thống vật chất đó tác động lẫn

nhau. Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó
1

V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, t.18, tr.151.


7

cũng phát triển từ thấp lên cao (phản ánh vật lý, phản ánh sinh vật với các
hình thức như kích thích, cảm ứng; phản ánh tâm lý động vật; phản ánh ý thức
của con người). Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao là bộ óc người (có tới 14 tỉ tế bào thần kinh). Chính bộ óc người và sự tác
động của thế giới khách quan lên bộ óc người là nguồn gốc tự nhiên của ý
thức. Như vậy, không có bộ óc người thì không thể có ý thức. Nguồn gốc xã
hội của ý thức thể hiện ở chỗ phải có lao động và cùng với lao động là ngôn
ngữ thì mới có ý thức được. Chính lao động đóng vai trò quyết định trong
việc chuyển biến vượn người thành người; giúp bộ óc phát triển, làm nảy sinh
ngôn ngữ. Trên cơ sở đó thúc đẩy tư duy trừu tượng, phản ánh ý thức phát
triển. Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai nguồn gốc xã hội trực tiếp quyết
định sự ra đời của ý thức con người.Về bản chất, ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Nghĩa là, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ óc con người. Ý thức là hình ảnh của sự vật được thực hiện ở trong
đầu óc người. Nhưng đây là sự phản ánh năng động, sáng tạo. Điều này thể
hiện ở chỗ: Phản ánh của ý thức là phản ánh có chọn lọc, phản ánh những cái
cơ bản nhất mà con người quan tâm; phản ánh của ý thức là phản ánh không
nguyên xi, mà còn được cải biến ở trong bộ óc người; phản ánh của ý thức có
thể là phản ánh vượt trước hiện thực, có thể dự báo được xu hướng biến đổi
của thực tiễn; ý thức là ý thức của con người, nhưng con người là con người
hiện thực của một xã hội lịch sử cụ thể. Do vậy, ý thức luôn mang bản chất xã
hội.

2.3. Quan điểm duy vật mác xít về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức
Chủ nghĩa duy vật mác xít khẳng định vật chất có trước ý thức, quyết
định ý thức, ý thức là cái phản ánh cho nên là cái có sau, là cái bị quyết định.
Như trên chúng ta đã rõ, ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất sống


8

có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt. Đó là bộ óc người. Do vậy, không có bộ óc
người thì không thể có ý thức. Hơn nữa, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt
động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
Vật chất còn là cơ sở, nguồn gốc của những nội dung mà ý thức phản
ánh. Nghĩa là vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật mác xít cũng cho rằng, mặc dù vật chất quyết định ý
thức, nhưng ý thức có tính năng động sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động
thực tiễn của con người có thể tác động trở lại vật chất bằng cách thúc đẩy
hoặc kìm hãm ở một mức độ nào đó các điều kiện vật chất, góp phần cải biến
thế giới khách quan. Tuy nhiên, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
dù đến đâu chăng nữa vẫn phụ thuộc vào các điều kiện vật chất. Cho nên, xét
đến cùng, vật chất luôn quyết định ý thức.
2.4. Ý nghĩa của quan điểm duy vật mácxít về quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong nhận thức và cải tạo hiện thực
Từ quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, triết học mácxít rút ra
quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm
khách quan yêu cầu, trong nhận thức phải nhận thức sự vật vốn như nó có,
không “tô hồng, bôi đen”. “Tô hồng, bôi đen” trong nhận nhận thức đều là
phản ánh không đúng sự vật, từ phản ánh không đúng này sẽ dẫn tới sai lầm
trong hành động.
Trong hoạt động thực tiễn luôn luôn phải xuất phát từ thực tế khách

quan, tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan.
Chúng ta không thể lấy mong muốn chủ quan thay cho thực tế khách quan,
không thể hành động trước không đúng quy luật. Vì như vậy sẽ phải trả giá.
Quan điểm khách quan cũng yêu cầu trong hoạt động thực tiễn phải
biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần trong cải tạo thế
giới. Nghĩa là phải cố gắng, tích cực vươn lên, biết phát huy tối đa lực lượng


9

vật chất hiện có. Đồng thời cũng phải tránh không rơi vào chủ nghĩa khách
quan, tức là trông chờ, thụ động, ỷ lại điều kiện khách quan, không cố gắng,
tích cực vượt khó vươn lên.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta cùng với việc coi
trọng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân đã rất chú
trọng phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội.
Quan điểm khách quan cũng yêu cầu phải chống bệnh chủ quan, duy ý
chí, tuyệt đối hóa ý thức, tinh thần trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước đổi mới (1986) cho thấy, chúng ta đã
mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí trong xây dựng mục tiêu, bước đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Khắc phục những sai lầm
chủ quan này, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xuất phát từ
thực tiễn nước ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội phù hợp. Do vậy, mọi mặt đời
sống của nhân dân được nâng lên, vị thế của đất nước được nâng cao.
3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Ph.Ăngghen trong tác phẩm Chống Đuy-rinh đã khẳng định: “Nhưng
phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư
duy”1. Phép biện chứng duy vật của C.Mác, Ph.Ăngghen là kết quả C.Mác và

Ph.Ăngghen kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của các nhà biện chứng tiền
bối và khái quát những thành tựu của khao học đương thời. Trong phương
pháp biện chứng này có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng. Thế giới quan duy vật được làm giàu bằng phương pháp
biện chứng còn phương pháp biện chứng được đặt trên nền thế giới quan duy
vật. Cho nên, biện chứng duy vật của C.Mác và Ph.Ăngghen hơn hẳn về chất
1

CMác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.20, tr.201.


10

so với các hình thức biện chứng trong lịch sử. Phép biện chứng duy vật bao
gồm hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Đó là một hệ
thống lý luận phản ánh chân thực thế giới khách quan. Vì vậy, phép biện
chứng duy vật là cơ sở khoa học để xác định phương pháp nhận thức và cải
tạo hiện thực.
3.1. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
3.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Các nhà triết học siêu hình nhìn chung không thấy mối liên hệ giữa các
sự vật, hiện tượng, nếu có theo họ chỉ là mối liên hệ ngẫu nhiên, bề ngoài.
Các nhà triết học duy tâm có thấy được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng, nhưng lại cho rằng ý thức, tinh thần là cơ sở của mối liên hệ này.
Chủ nghĩa duy vật mác xít cho rằng giữa các sự vật, hiện tượng luôn có
sự tác động, ảnh hưởng, chi phối, v.v. lẫn nhau. Trên cơ sở đó, theo triết học
duy vật mác xít: Liên hệ là khái niệm chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh
hưởng, sự tương tác và chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong
thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của một sự vật, hiện
tượng, một quá trình. Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật,

hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong
phú, nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Cơ sở
của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là khách quan, bởi lẽ, nó là vốn
có của sự vật, không do ai gắn cho sự vật. Mối liên hệ đó còn là phổ biến,
nghĩa là nó tồn tại cả trong tự nhiên, cả trong xã hội, cả trong tư duy. Đồng
thời, mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, nghĩa là có mối liên hệ bên trong,
mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ bản chất - không bản chất; mối liên hệ tất
nhiên - ngẫu nhiên, v.v..


11

Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, triết học duy vật mác xít rút ra ý
nghĩa phương pháp luận để định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
của con người, đó là quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện yêu cầu khi
xem xét sự vật phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố của nó, tuy nhiên phải
có trọng tâm, trọng điểm; xem xét sự vật trong mối liên hệ với các sự vật,
hiện tượng khác. Trong hoạt động thực tiễn, muốn cải tạo sự vật phải thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp; phải xác định, đánh giá đúng vị trí, vai trò của
từng mối liên hệ đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
3.1.2. Nguyên lý về sự phát triển
Chủ nghĩa duy vật siêu hình coi phát triển chỉ là sự tăng lên về lượng
đơn thuần. Chủ nghĩa duy tâm công nhận sự phát triển, nhưng cho rằng ý
thức, tinh thần là động lực, nguyên nhân của sự phát triển. Chủ nghĩa duy vật
mác xít coi phát triển là quá trình vận động theo hướng đi lên từ thấp lên cao,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển không chỉ là sự tăng lên,
giảm đi về lượng mà còn là sự nhảy vọt về chất. Nguồn gốc của sự phát triển
chính là sự thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập bên trong sự vật
quy định. Phát triển là khách quan, phổ biến và có nhiều hình thức cụ thể khác

nhau. Chẳng hạn, ở thế giới hữu cơ, phát triển thể hiện ở sự tăng cường khả
năng thích nghi của cơ thể trước môi trường; ở khả năng tự sản sinh ra chính
mình với trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trong xã hội, phát triển thể hiện
ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ con người. Trong tư
duy, phát triển thể hiện ở việc nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn.
Từ nguyên lý về sự phát triển, triết học duy vật mác xít rút ra ý nghĩa
phương pháp luận là phải có quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Trong nhận thức, khi nhận thức sự vật không chỉ nhận thức nó
trong hiện tại như nó có mà còn phải thấy được khuynh hướng vận động, phát


12

triển của nó trong tương lai. Trên cơ sở đó dự báo những tình huống có thể
xảy ra để chủ động nhận thức, giải quyết.
Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi
lẽ mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn luôn vận động, biến đổi và phát
triển. Phát triển là khó khăn, bao gồm cả sự thụt lùi tam thời, do vậy trong
hoạt động thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào
tương lai.
3.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, rộng nhất phản ánh
những mặt, những mối liện hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Phạm trù triết học khác phạm trù của các khoa học cụ
thể khác ở chỗ, nó mang tính quy định về thế giới quan và phương pháp luận.
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật có tính khách quan. Mặc dù, phạm
trù là kết quả của tư duy, song nội dung mà nó phản ánh là khách quan, do
hiện thực khách quan mà nó phản ánh quy định. Nghĩa là phạm trù khách
quan về nguồn gốc, về cơ sở, nội dung. Các phạm trù của phép biện chứng
duy vật có tính biện chứng. Điều này thể hiện ở chỗ, nội dung mà phạm trù

phản ánh luôn vận động, phát triển. Các phạm trù có thể thâm nhập, chuyển
hoá lẫn nhau. Tính biện chứng của sự vật, hiện tượng mà phạm trù phản ánh
quy định biện chứng của phạm trù. Các phạm trù của phép biện chứng duy vật
là công cụ của nhận thức, đánh dấu trình độ nhận thức của con người.
3.2.1. Cái riêng và cái chung
3.2.1.1. Khái niệm
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình hay một hệ thống các sự vật tạo thành một chỉnh thể tồn tại độc
lập tương đối với những cái riêng khác. Ví dụ, một con người cụ thể. Cái
chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính


13

giống nhau được lặp lại trong nhiều cái riêng khác. Ví dụ, thuộc tính là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả một quốc gia, dân tộc của thủ đô. Cái
chung có thể là một đặc điểm, một thuộc tính hoặc một bộ phận của những cái
riêng. Tùy thuộc vào tính bao quát của nó mà người ta phân thành cái phổ
biến và cái đặc thù.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học chỉ những đặc điểm, những thuộc
tính vốn có chỉ của một sự vật, hiện tượng, quá trình và không được lặp lại ở
các cái riêng khác. Ví dụ, vân tay của mỗi người, v.v..
3.2.1.2. Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật mác xít, cái riêng và cái chung
không thể tách rời nhau. Không có cái chung tồn tại độc lập đứng ngoài cái
riêng, mà cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Ví dụ,
thuộc tính chung là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả một quốc gia
dân tộc của thủ đô chỉ tồn tại thông qua từng thủ đô cụ thể như: Hà Nội,
Phnôm-pênh, Viêng-chăn, v.v..
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liện hệ đưa đến cái chung, vì bất cứ cái

riêng nào cũng tồn tại trong mối liện hệ với những cái riêng khác. Giữa những
cái riêng ấy bao giờ cũng có những cái chung giống nhau. Ví dụ, trong một
lớp học, mỗi học viên như một “cái riêng” nhưng giữa các học viên có thể lại
có cái chung về quốc tịch, về quê hương, về đã có gia đình riêng, v.v..
Cái chung là những mặt, những thuộc tính giống nhau, hoặc có thể là
một đặc điểm, một thuộc tính của cái riêng, cho nên cái chung luôn là một bộ
phận của cái riêng, cái riêng là một chỉnh thể cho nên nó không gia nhập hết
vào cái chung. Cũng vì vậy, cái riêng phong phú hơn cái chung. Ví dụ, cái
chung của thủ đô là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của một quốc gia,
dân tộc. Nhưng từng thủ đô cụ thể còn có nhiều nét riêng khác về diện tích,
dân số, vị trí địa lý, v.v..


14

Trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành
cái chung, cái phổ biến và ngược lại. Chẳng hạn, hiện tượng xảy ra trong quá
trình nảy sinh, phát triển của những cái mới và sự mất dần của những cái đã
trở nên lỗi thời.
3.2.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, cho nên muốn nắm được cái
chung thì phải xem xét, phân tích các sự vật, hiện tượng cụ thể với tư cách là
những cái riêng. Muốn tìm cái chung thì không được xa rời những cái riêng
và suy luận một cách chủ quan, tuỳ tiện. Trong hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiễn, nắm được cái chung là chìa khóa để giải quyết cái riêng,
để tránh những vấp váp không cần thiết trong quá trình giải quyết các công
việc cụ thể. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hoá cái chung, vì như vậy dễ rơi
vào giáo điều. Đồng thời, cũng không được tuyệt đối hoa cái riêng, vì như vậy
dễ rơi vào cục bộ địa phương, xét lại.

3.2.2. Nguyên nhân và kết quả
3.2.2.1. Khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa
các mặt, các bộ phận, các thuộc tính, các yếu tố trong một sự vật hoặc giữa
các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định. Kết quả là phạm trù triết
học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do nguyên nhân tạo ra. Nguyên cớ
là những sự vật, hiện tượng xuất hiện đồng thời cùng nguyên nhân nhưng chỉ
có quan hệ bề ngoài ngẫu nhiên với kết quả chứ không sinh ra kết quả.
3.2.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết
quả về mặt thời gian. Tuy nhiên, không phải mọi sự nối tiếp nhau về thời gian
đều là quan hệ nhân quả. Ví dụ, ngày và đêm không phải là nguyên nhân của


15

nhau. Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả khác nhau, tuỳ thuộc vào
điều kiện cụ thể. Ví dụ, gạo và nước được đun sôi có thể thành cơm, thành
cháo, v.v.. Điều này phụ thuộc vào việc điều chỉnh nhiệt độ, mức nước, v.v.
bởi người nấu. Ngược lại, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Ví
dụ, sức khoẻ của chúng ta tốt do nhiều nguyên nhân như luyện tập thể dục đều
đặn, do ăn uống điều độ, do chăm sóc y tế tốt, v.v.. Các nguyên nhân này có
vai trò không như nhau, nhưng cùng nhau làm cho sức khỏe con người tốt lên.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết
quả, triết học duy vật mácxít phân chia thành: nguyên nhân chủ yếu (là
nguyên nhân quyết định sự ra đời của kết quả) và nguyên nhân thứ yếu
(nguyên nhân chỉ ảnh hưởng tới kết quả hoặc quyết định những mặt, những
bộ phận không cơ bản của kết quả); nguyên nhân bên trong (sự tác động qua
lại giữa các bộ phận, các yếu tố bên trong tạo thành sự vật) và nguyên nhân
bên ngoài (sự tác động qua lại giữa sự vật ấy với sự vật khác); nguyên nhân

khách quan (là những sự tác động độc lập với chủ thể hành động) và nguyên
nhân chủ quan (là những sự tác động phụ thuộc vào một chủ thể nhất định),
v.v.. Lưu ý rằng, sự phân chia này cũng chỉ là tương đối. Chẳng hạn, một
nguyên nhân trong mối liên hệ này được coi là nguyên nhân bên trong, nhưng
trong mối liên hệ khác lại có thể được coi là nguyên nhân bên ngoài.
Trong những điều kiện nhất định, nguyên nhân và kết quả có thể
chuyển hoá lẫn nhau. Nghĩa là cái trong quan hệ này được coi là nguyên nhân
thì trong quan hệ khác lại có thể là kết quả. Ví dụ, chăm chỉ làm việc là
nguyên nhân của thu nhập cao. Thu nhập cao lại là nguyên nhân để nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân, v.v..
3.2.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ
nguyên nhân và kết quả


16

Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính
khách quan của mối liên hệ nhân quả. Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên
nhân ra đời của nó, cho nên muốn hiểu rõ sự vật hay muốn cải tạo nó phải tìm
hiểu rõ nguyên nhân của chúng. Khi xem xét nguyên nhân thì nguyên nhân cơ
bản, nguyên nhân bên trong là quan trọng nhưng không được xem nhẹ các
nguyên nhân khác, nhất là những nguyên nhân bên ngoài. Trong hoạt động
thực tiễn, muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng
những điều kiện cho nguyên nhân đó phát huy tác dụng và ngược lại. Đồng
thời, phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các
nguyên nhân có vai trò không như nhau.
3.2.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
3.2.3.1. Khái niệm
Tất nhiên là phạm trù triết học chỉ cái do nguyên nhân chủ yếu bên
trong sự vật quy định và trong những điều kiện nhất định, nó nhất định phải

xảy ra như thế chư không thể khác. Ngẫu nhiên là phạm trù triết học chỉ cái
không phải do bản chất kết cấu bên trong sự vật, mà do những nguyên nhân
bên ngoài, do sự ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Vì vậy,
nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra, có thể xảy ra dưới hình thức này hoặc
dưới hình thức khác. Ví dụ, trồng hạt ngô (tất nhiên) phải mọc lên cây ngô,
chứ không thể lên cây lạc hoặc cây khác. Nhưng cây ngô tốt, hay cây ngô
không tốt là do chất đất, thời tiết, độ ẩm, ánh sáng, v.v. quy định. Đó là ngẫu
nhiên. Cả cái tất nhiên, cả cái ngẫu nhiên đều có quy luật của nó. Quy luật của
cái ngẫu nhiên là những quy luật xác xuất, thống kê được ứng dụng rộng rãi
trong khoa học hiện đại.
3.2.3.2. Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên


17

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn
tại khách quan, chúng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống
nhất này thể hiện ở chỗ:
Một là, cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua
vô số những cái ngẫu nhiên.
Hai là, cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho
tất nhiên.
Ba là, không có tất nhiên thuần tuý tách rời cái ngẫu nhiên, cũng như
không có cái ngẫu nhiên thuần tuý tách rời cái tất nhiên.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng khẳng định tất nhiên và ngẫu nhiên
trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá cho nhau. Ranh giới giữa
cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên cũng chỉ là tương đối. Bởi lẽ, thông qua mối
liên hệ này, cái được coi là cái tất nhiên, nhưng thông qua mối liên hệ khác nó
lại được coi là cái ngẫu nhiên và ngược lại. Ví dụ, một máy vô tuyến sử dụng
lâu ngày, mãi “tất nhiên” sẽ hỏng, nhưng hỏng vào khi nào, vào giờ nào lại, ở

đâu lại là “ngẫu nhiên”.
3.2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Từ quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, chúng ta nhận thấy
muốn nhận thức được cái tất nhiên phải bắt đầu nhận thức từ cái ngẫu nhiên.
Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào cái tất nhiên, không nên dựa vào
cái ngẫu nhiên. Tuy nhiên, cần phải dự báo được những cái ngẫu nhiên để có
thể chủ động trong mọi tình huống. Đồng thời với việc dự báo cái ngẫu nhiên
thì phải chuẩn bị các phương án, phương tiện đối phó với cái ngẫu nhiên, nhất
là những ngẫu nhiên không có lợi cho con người.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều
kiện thích hợp nhất định. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, cần tạo ra những


18

điều kiện thích hợp để ngăn cản hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa sao cho có lợi
cho con người. Chẳng hạn, nhiều người nông dân từ những ngẫu nhiên trong
sản xuất đã tìm ra cách thức để tạo ra những cây cảnh bonsai theo ý mình, tạo
ra những loại dưa hấu hình thỏi vàng, những trái bưởi hình hồ lô, v.v..
3.2.4. Nội dung và hình thức
3.2.4.1. Khái niệm
Nội dung là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các yếu tố,
các quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là phạm trù triết học chỉ phương thức,
cách thức tồn tại và phát triển của sự vật; là cách thức sắp xếp của nội dung,
là hệ thống các mối liện hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật. Ví
dụ, chữ “ANH” có nội dung là các chữ cái “A; N; H”, còn hình thức là các
chữ cái phải xếp theo thứ tự: A; N; H; giữa 3 chữ cái này có mối liên hệ tương
đối bền vững, nếu ta đảo “phương thức” sắp xếp thì sẽ không còn là chữ
“ANH” nữa mà có thể là chữ “HAN”, hoặc “NHA”, v.v..

3.2.4.2. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
Theo triết học duy vật mácxít, nội dung và hình thức có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Sự gắn bó này thể hiện trước hết ở sự thống nhất hữu cơ
giữa chúng. Bởi lẽ, bất kỳ sự vật nào cũng có cả nội dung lẫn hình thức của
nó. Sự thống nhất này thể hiện ở chỗ:
Một là, không có hình thức không chứa nội dung, cũng như không có
nội dung nào mà lại không tồn tại trong một hình thức nhát định.
Hai là, các yếu tố tạo thành sự vật vừa vừa góp phần tạo nên nội dung,
vừa tham gia tạo nên hình thức. Vì vậy, nội dung, hình thức không tách rời mà
gắn bó chặt chẽ với nhau.
Nội dung quy dịnh hình thức. Cụ thể là, nội dung quyết định cả phương
thức thể hiện cả cách thức sắp xếp các yếu tố của hình thức. Nội dung luôn
vận động biến đổi còn hình thức có tính ổn định tương đối. Sự biến đổi của


19

nội dung là cơ sở cho sự biến đổi của hình thức. Khi nội dung thay đổi thì các
hình thức thể hiện nội dung sớm hay muộn muộn cũng biến đổi theo.
Nội dung và hình thức có tính dộc lập tương đối với nhau. Điều này thể
hiện ở chỗ, một nội dung có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chẳng hạn, một cái bánh chưng (bao gồm gạo nếp, thịt lơn, đỗ xanh, muối, lá
dong, lạt) có thể thể hiện ở hình thức bánh có hình vuông, gói bằng lá dong ở
ngoài được buộc chặt bằng lạt; hoặc dưới hình thức bánh tét, tròn dài cũng
được gói bằng lá dong ở ngoài và buộc bằng lạt, v.v.. Cùng một hình thức có
thể thể hiện những nội dung khác nhau. Chẳng hạn, một hình thức bánh
vuông nhưng bên trong có thể có những thành phần, yếu tố (cấu thành nội
dung) khác nhau. Hơn nữa, hình thức cũng có tác động đối với nội dung, nhất
là khi hình thức mới ra đời.
3.2.4.3. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ

giữa nội dung và hình thức.
Vì nội dung và hình thức nhìn chung thống nhất với nhau. Cho nên,
trong hoạt động thực tiễn cần chống khuynh hướng tách rời nội dung khỏi
hình thức cũng như tách rời hình thức khỏi nội dung. Phải biết sử dụng sáng
tạo nhiều hình thức khác nhau trong hoạt động thực tiễn. Nhận thức sự vật
phải bắt đầu từ nhận thức nội dung, nhưng không coi nhẹ nhận thức hình
thức. Khi hình thức đã lạc hậu thì phải đổi mới hình thức sao cho phù hợp nội
dung mới.
3.2.5. Bản chất và hiện tượng
3.2.5.1. Khái niệm
Bản chất là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên
hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và
phát triển của sự vật đó. Bản chất gắn bó với cái chung, nhưng không phải cái
chung nào cũng là bản chất. Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng bậc,


20

tuy nhiên bản chất rộng hơn, phong phú hơn quy luật. Hiện tượng là phạm trù
triết học chỉ cái là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
3.2.5.2. Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng
Theo triết học duy vật mác xít, bản chất và hiện tượng thống nhất trong
sự vật. Điều này thể hiện ở chỗ:
Một là, bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng
bao giờ cũng là sự thể hiện của bản chất.
Hai là, không có bản chất thuần tuý tách rời hiện tượng và ngược lại,
không có hiện tượng không thể hiện bản chất.
Ba là, bản chất khác nhau bộc lộ ra qua các hiện tượng khác nhau.
Tuy nhiên, triết học duy vật mác xít cũng thừa nhận, thống nhất giữa
bản chất và hiện tượng là thống nhất bao gồm mâu thuẫn. Điều này thể hiện ở

chỗ:
Một là, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, còn hiện tượng phong phú hơn
bản chất.
Hai là, hiện tượng biểu hiện bản chất, nhưng dưới dạng cải biến.
Ba là, bản chất tương đối ổn định còn hiện tượng biến đổi nhanh hơn
bản chất.
Bốn là, bản chất ẩn giấu bên trong, còn hiện tượng bộc lộ ra bên ngoài.
3.2.5.3. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất là cái chi phối sự vận động và biến đổi của sự vật, nên nhận
thức phải đi đến nắm được bản chất của sự vật, không dừng ở hiện tượng,
phải đi từ bản chất cấp một đến bản chất sâu hơn, v.v.. Nắm được bản chất của
sự vật mới có thể cải tạo nó. Muốn hiểu được bản chất của sự vật, phải phân
tích các hiện tượng một cách có hệ thống. Các hiện tượng hết sức đa dạng và
thường không phản ánh bản chất của sự vật một cách giản đơn, nên việc phân


21

tích các hiện tượng để tìm bản chất phải hết sức khoa học, khách quan, kiên
trì. Trong hoạt động thực tiễn, muốn cải tạo sự vật phải thay đổi bản chất của
nó.
3.2.6. Khả năng và hiện thực
3.2.6.1. Khái niệm
Hiện thực là phạm trù triết học chỉ mọi cái đang tồn tại thực sự trong tự
nhiên, xã hội, tư duy. Khả năng là phạm trù triết học được sử dụng để chỉ
những cái có thể xảy ra trong tương lai khi có điều kiện tương ứng và trên cơ
sở những mầm mống tiền đề đã có. Ví dụ, cây ngô đã mọc lên từ hạt ngô là
hiện thực. Hạt ngô chứa khả năng nảy mầm thành cây ngô.
3.2.6.2. Phân loại các khả năng

Căn cứ vào vai trò, vị trí, triết học duy vật mác xít phân khả năng làm
nhiều loại khác nhau. Chẳng hạn, khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên.
Những khả năng do nguyên nhân bên trong sự vật tạo ra gọi là khả năng tất
nhiên. Những khả năng do nguyên nhân bên ngoài sự vật tạo sự tạo ra gọi là
khả năng ngẫu nhiên. Khả năng gần là những khả năng có đủ điều kiện để
chuyển thành hiện thực trong thời gian gần. Khả năng xa là khả năng chưa có
đủ điều kiện để trở thành hiện thực trong thời gian gần. Ví dụ, khả năng gần là
vào 2020, nước ta có thể trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Khả năng xa là khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội với tám đặc
trưng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011)
được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
3.2.6.2. Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực
Theo triết học duy vật mácxít, khả năng và hiện thực tồn tại trong mối
quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau và có thể chuyển hoá lẫn nhau.


22

Trong cùng một điều kiện, mỗi sự vật có thể có một số khả năng khác
nhau (phụ thuộc vào điều kiện). Trong tự nhiên, khả năng trở thành hiện thực
là tự phát. Trong xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, muốn khả năng
trở thành hiện thực phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Do vậy,
nhân tố chủ quan có vai trò hết sức to lớn. Con người có thể thúc đẩy quá
trình này, cũng có thể kìm hãm hoặc triệt tiêu quá trình này.
3.2.6.3. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa khả năng và hiện thực
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tìm khả năng của sự vật ở
chính sự vật. Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực là chủ yếu,
không nên chỉ dựa vào khả năng. Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn cần

tính đến mọi khả năng có thể để có phương án giải quyết phù hợp. Để thực
hiện khả năng phải tạo cho nó các điều kiện cần và đủ. Do vậy, trong đời sống
xã hội vai trò của con người rất quan trọng trong việc xác định các khả năng,
cũng như tạo ra điều kiện cho khả năng có thể trở thành hiện thực.
3.3. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại
giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các thuộc tính của các sự vật cũng như giữa
các thuộc tính của cùng một sự vật. Căn cứ vào mức độ tính phổ biến, người
ta phân chia thành quy luật riêng, quy luật chung, quy luật phổ biến. Căn cứ
vào lĩnh vực tác động, người ta phân chia thành quy luật tự nhiên, quy luật xã
hội, quy luật tư duy. Phép biện chứng duy vật gồm ba quy luật cơ bản mang
tính phổ biến sau:
3.3.1. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại
3.3.1.1. Khái niệm chất và lượng


23

Chất là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của các
sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là
nó mà không phải sự vật khác.
Thuộc tính về chất là một khía cạnh nào đó về chất của sự vật được bộc
lộ ra khi tác động qua lại với các sự vật khác. Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính.
Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự vật. Như vậy,
chất là chất của sự vật, là khách quan, không do ai tạo ra cho sự vật. Chất nói
lên sự vật là cái gì.
Lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, biểu thị đại lượng con số
các thuộc tính, các yếu tố, v.v. cấu thành sự vật. Lượng được thể hiện thành số

lượng, đại lượng về trình độ, quy mô, nhịp điệu, tốc độ, v.v. của sự vận động
và phát triển của sự vật. Chẳng hạn, chỉ kích thước dài hay ngắn, quy mô to
hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh hay chậm, v.v.. Như vậy, lượng
là khách quan, vốn có của sự vật. Đối với những sự vật liên quan tới tình cảm,
ý thức, v.v. khi nhận thức lượng không thể xác định bằng các đại lượng con số
mà phải trừu tượng hoá bằng định tính. Ví dụ, lòng tốt, tình yêu, v.v..
3.3.1.2. Nội dung quy luật
Theo triết học duy vật biện chứng, mỗi sự vật đều có sự thống nhất
giữa chất và lượng. Sự thay đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi
về lượng, nhưng không phải mọi thay đổi về lượng đều dẫn đến thay đổi về
chất. Khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa
làm cho chất của sự vật thay đổi được gọi là độ. Nói khác đi, độ là phạm trù
triết học chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất; là khoảng giới hạn, mà trong
đó, sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm cho sự thay đổi căn
bản về chất của sự vật diễn ra. Ví dụ, độ của học viên lớp Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính là từ khi nhập học đến trước khi thi đỗ tốt nghiệp. Trong


24

khoảng thời gian đó, học viên có học và thi thêm được các môn học khác
nhưng “chất học viên Trung cấp lý luận chính trị - hành chính” chưa đổi.
Sự thay đổi về lượng của sự vật (tăng lên hoặc giảm đi) đến giới hạn
nhất định sẽ làm cho chất của sự vật thay đổi. Điểm tới hạn đó được gọi là
điểm nút. Ví dụ, khi học viên Trung cấp lý luận chính trị - hành chính thi đỗ
tốt nghiệp, thì sẽ có sự thay đổi về chất diễn ra. Chất học viên Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính đã chuyển sang chất “Người có bằng Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính”. Nghĩa là thời điểm thi đỗ tốt nghiệp của học viên
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính được gọi là điểm nút của bước
chuyển sang “Người có bằng Trung cấp lý luận chính trị - hành chính”.

Khi có sự thay đổi về chất diễn ra do sự thay đổi về lượng trước đó gây
ra được gọi là bước nhảy. Có nhiều loại bước nhảy khác nhau. Chẳng hạn,
bước nhảy đột biến (chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở tất cả
các bộ phận cơ bản, cấu thành sự vật) và bước nhảy dần dần (là quá trình thay
đổi về chất diễn ra bằng con đường tích lũy dần dần những nhân tố của chất
mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ); bước nhảy toàn bộ (là
bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu
thành sự vật) và bước nhảy cục bộ (là bước nhảy làm thay đổi một số mặt,
một số yếu tố, bộ phận của sự vật đó). Trong lĩnh vực xã hội, thay đổi về
lượng được gọi là “tiến hoá”, thay đổi về chất được gọi là” cách mạng”.
Sau khi ra đời, chất mới lại tác động trở lại tới lượng mới. Sự tác động
của chất mới đến lượng mới thể hiện ở chỗ nó tác động tới quy mô, nhịp
điệu, tốc độ, v.v. của lượng mới. Tóm lại, sự thống nhất giữa lượng và chất
trong sự vật tạo thành độ. Những thay đổi về lượng dần dần đến giới hạn
nhất định thì xảy ra bước nhảy, chất cũ bị phá vỡ, chất mới ra đời cùng với
độ mới. Như vậy, sự vật phát triển theo cách thức: đứt đoạn trong liên tục.
3.3.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận


25

Nhận thức sự vật phải nhận thức cả chất và lượng của nó. Muốn thay
đổi chất của sự vật phải có sự thay đổi về lượng, cho nên không được chủ
quan, nóng vội. Khi tích luỹ về lượng đã đủ cần thực hiện bước nhảy, tránh
bảo thù, trì trệ, ngại khó. Trong hoạt động thực tiễn cần chống “tả khuynh”,
tức là tuyệt đối hóa bước nhảy về chất khi chưa tích lũy đủ về lượng. Đồng
thời cũng cần tránh xu hướng “hữu khuynh”, tức là tuyệt đối hóa sự tích lũy
về lượng, không dám thực hiện bước nhảy về chất khi tích lũy về lượng đã đủ.
Muốn giữ cho sự vật còn là nó thì phải nhận thức được giới hạn độ của nó và
giữ cho sự thay đổi về lượng không vượt quá giới hạn độ cho phép.

3.3.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (Quy luật
mâu thuẫn)
3.3.2.1. Khái niệm
Mâu thuẫn biện chứng là sự tác động lẫn nhau của các mặt đối lập.
Những mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng, thuộc tính biến đổi, phát
triển trái ngược nhau trong cùng sự vật, hiện tượng hay hệ thống sự vật, hiện
tượng. Thống nhất của các mặt đối lập được hiểu theo ba nghĩa: Các mặt đối
lập làm điều kiện, tiền đề tồn tại cho nhau, không có mặt này thì không có
mặt kia và ngược lại; các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau;
giữa hai mặt đối lập có điểm chung nhau, tương đồng nhau. Đấu tranh của
các mặt đối lập là sự phủ định nhau, bài trừ nhau hay sự triển khai của các
mặt đối lập.
3.3.2.2. Nội dung quy luật
Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có vai trò là nguồn gốc
của quá trình vận động, phát triển của sự vật. Khi hai mặt đối lập thống nhất
với nhau thì sự vật vận động từ từ, chậm chạp, mâu thuẫn chưa gay gắt.
Nhưng xu hướng của hai mặt đối lập là đấu tranh với nhau, đi ngược nhau. Do
vậy, đến một thời điểm nhất định thì cả hai mặt đối lập đều biến đổi, mâu


×