Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Truyện ngắn hiện thực việt nam 1932 1945 nhìn từ lý thuyết tự sự tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.24 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ LƯƠNG

TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC VIỆT NAM
1932-1945 NHÌN TỪ LÝ THUYẾT TỰ SỰ

Ngành: Lý luận văn học
Mã số: 9.22.01.20

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hà Nội - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS PHÙNG QUÝ NHÂM

Phản biện 1: PGS.TS. Trương Đăng Dung
Phản biện 2: PGS.TS. Ngô Văn Giá
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện họp tại ………………………………….
vào hồi ……………………giờ.............…………phút
ngày…………tháng…………...năm……...………….



Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
-

Thư viện Học viện khoa học xã hội
Thư viện Quốc gia Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Khám phá văn xuôi từ lí thuyết tự sự
Lí thuyết tự sự hiện nay có nhiều biến đổi phức tạp so với sự
nghiên cứu truyền thống về truyện kể. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định
tên tuổi của mình trong lĩnh vực nghiên cứu tự sự học như: G. Genette
(Narative discourse: an essay in method, 1972), Tz. Todorov (The
poetics of prose, 1977); Seymour Chatman (Story and discourse:
narative structure in fiction and film, 1978); Miekal Bal (Naratology:
introduction to the theory of narrative, 1985); Gerald Prince (Dictionary
of narratology, 1987);...
Cũng như bối cảnh chung trong nghiên cứu văn học ở nhiều nước,
tự sự học được các nhà nghiên cứu giới thiệu ở Việt Nam như một lẽ tất
yếu. Từ khi được giới thiệu vào Việt Nam, tự sự học được các nhà
nghiên cứu, người đọc hưởng ứng và tiếp nhận.
1.2. Thành tựu nghiên cứu truyện ngắn hiện thực 1932-1945
Năm 1932 được xem là cột mốc cho sự đổi mới của nền văn học
nước nhà, gắn liền với những sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống văn học.
Cùng với Nguyễn Công Hoan, hàng loạt nhà văn xuất hiện trong
giai đoạn này như: Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân,
Thạch Lam, Nam Cao,... Họ đã làm nên diện mạo truyện ngắn nhiều

biến hóa phong phú và khẳng định đỉnh cao về nghệ thuật truyện ngắn
so với trước đây.
Luận án khai thác truyện ngắn hiện thực 1932-1945 từ một số
phương diện lí thuyết tự sự. Các khía cạnh về: người kể chuyện; các
dạng thức tổ chức tự sự; diễn ngôn tự sự là những khía cạnh chúng tôi
nhận thấy còn có thể tiếp cận khai thác.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Chúng tôi xác định mục đích nghiên cứu là: Tìm hiểu truyện ngắn hiện
thực Việt Nam trên các phương diện của lý thuyết tự sự như: các dạng thức
tổ chức tự sự (kết cấu, truyện kể, tình huống); người kể chuyện; diễn ngôn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Luận án khảo sát một số đặc điểm của truyện ngắn hiện thực 19321945, chỉ ra sự kế thừa và đổi mới của thành phần văn học này so với văn
xuôi tự sự truyền thống, và chỉ ra sự dịch chuyển trong nghệ thuật tự sự của
truyện ngắn hiện thực ở từng thời kỳ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các các truyện ngắn có nội dung
đậm tính chất hiện thực thuộc giai đoạn này. Thạch Lam là tác giả nằm
giữa “lằn ranh” của khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng lãng mạn. Vì
thế, chúng tôi xác định những tác giả truyện ngắn hiện thực 1932-1945 là:
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển,
Kim Lân, Nam Cao, Thạch Lam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tìm hiểu các phương diện về điểm nhìn tự sự (những đặc
điểm nhận diện người kể chuyện), về kết cấu, truyện kể, tình huống (những

khía cạnh của cấu trúc tự sự), về diễn ngôn tự sự trong truyện ngắn hiện
thực 1932-1945.
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý thuyết
Xuất hiện khá sớm ở phương Tây, lí thuyết tự sự học đã có lịch sử
phát triển lâu dài và trải qua nhiều chặng đường với sự thay đổi của các hệ
hình lí thuyết.

2


Ở Việt Nam, việc ứng dụng lí thuyết tự sự để nghiên cứu văn học
không còn là vấn đề xa lạ. Trong thập niên đầu của thế kỉ XXI, tự sự học
không ngừng được giới thiệu đến bạn đọc thông qua những bài dịch thuật,
những công trình giới thiệu lí thuyết tự sự và có cả những công trình mang
tính ứng dụng thực tiễn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến là: phương
pháp hệ thống, phương pháp loại hình, phương pháp cấu trúc, phương pháp
so sánh đồng đại và lịch đại.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, chúng tôi giới thuyết khái quát diễn trình vận động của lí
thuyết tự sự thông qua công trình tiêu biểu của các đại diện quan trọng ở
mỗi trường phái, mỗi hệ hình lí thuyết.
Thứ hai, luận án cho thấy sự chuyển dịch của truyện ngắn hiện thực
Việt Nam 1932-1945 từ góc nhìn tự sự học. Qua đó, luận án phần nào
khẳng định sự biến đổi, phát triển trong tư duy về thể loại của truyện ngắn
hiện thực so với truyện ngắn trước đây.
Thứ ba, chúng tôi vận dụng một số phương diện của lí thuyết tự sự để
làm rõ những đặc điểm trong thi pháp tự sự của truyện ngắn hiện thực Việt

Nam 1932-1945. Qua đó, luận án cho thấy quá trình biến đổi và tiếp nối
trong thi pháp tự sự của truyện ngắn giai đoạn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Thứ nhất, luận án góp phần chứng minh sự thay đổi trong quan niệm
mới về hiện thực thông qua thực tiễn sáng tác của các nhà văn tiêu biểu giai
đoạn này.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú
thêm diện mạo nghiên cứu về truyện ngắn trong dòng văn xuôi hiện thực
1932-1945.

3


Thứ ba, luận án góp phần cung cấp một tư liệu nghiên cứu ứng dụng
vào bức tranh chung của lĩnh vực tự sự học, cung cấp cho người đọc cách
tiếp cận toàn diện hơn về truyện ngắn hiện thực 1932-1945 từ góc nhìn của
lí thuyết tự sự.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài các nội dung theo quy định, luận án gồm 3 phần chính là mở
đầu, nội dung kết luận, và được luận giải trong 4 chương.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát thành tựu nghiên cứu tự sự học trên thế giới
Chủ nghĩa cấu trúc đã góp phần hình thành bộ môn tự sự học (TSH) với
nhiều nhà nghiên cứu lỗi lạc, bao gồm các đại diện tiêu biểu: R. Barthes. C.
Bremond, G. Genette, Greimas, Tz. Todorov và nhiều người khác. Các tác
giả này nghiên cứu cấu trúc văn bản và họ lập nên một chuyên ngành riêng
gọi là TSH cấu trúc. Hệ hình TSH kinh điển chủ yếu nghiên cứu cấu trúc của
truyện, mối quan hệ của các sự kiện tạo nên truyện, nghiên cứu diễn ngôn tự
sự và các yếu tố tạo nên nó.

Sau TSH kinh điển, TSH hậu kinh điển xuất hiện thêm nhiều tên tuổi
tiêu biểu bên cạnh những đại diện chủ chốt như Tz. Todorov (hậu kì), R.
Barthes, G. Prince,... Theo qui luật phát triển nói chung, TSH hậu kinh điển
không tách khỏi hoàn toàn những thành tựu đã có của TSH kinh điển mà đã
có sự phát triển, kế thừa và mở rộng.
1.2. Tự sự học trong nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam
Trần Đình Sử là một trong những người đưa TSH giới thiệu vào Việt
Nam từ khá sớm. Theo báo cáo đề dẫn TSH không ngừng mở rộng và
phát triển của ông, TSH là ngành nghiên cứu còn non trẻ, xuất hiện và phát
triển vào khoảng những năm 60 của thế kỉ XX ở Pháp nhưng đã nhanh

4


chóng trở thành một trong những lĩnh vực học thuật được quan tâm phổ
biến trên thế giới.
Ở Việt Nam, từ sau cuộc hội thảo về TSH lần thứ nhất, năm 2003,
xuất hiện nhiều công trình dịch thuật, nghiên cứu về TSH có giá trị. Có thể
kể đến những công trình như: "Các khái niệm và thuật ngữ của các trường
phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX" của nhóm tác
giả I.P.Ilin và E.A.Tzurganova chủ biên (Lại Nguyên Ân, Đào Tuấn Ảnh
dịch); “Thi pháp văn xuôi" của Tz. Todorov (Đặng Anh Đào, Lê
Hồng Sâm dịch), "Cấu trúc văn bản nghệ thuật" của IU.M. Lotman
(Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch), Trong
cuộc hội thảo về TSH lần II năm 2008, Trần Đình Sử tiếp tục cho
thấy sự quan tâm và đánh giá sâu sắc về TSH qua bài tham luận
"TSH không ngừng mở rộng và phát triển". Mới đây nhất, công trình
“Tự sự học - Lý thuyết và ứng dụng” (Trần Đình Sử chủ biên) được xem là
có tính hệ thống khá cao về diễn trình của tự sự học, từ tự sự học kinh
điển, đến tự sự học hậu kinh điển.

1.3. Tình hình nghiên cứu tự sự học trong truyện ngắn hiện thực Việt Nam
1932-1945
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
Các nhà nghiên cứu, phê bình chủ yếu hướng đến cách tiếp cận
xã hội học, ít chú ý đến nghệ thuật tự sự
Công trình Nhà văn hiện đại (Nhà xuất bản Tân Dân - 1942) của Vũ
Ngọc Phan; Công trình Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm
(xuất bản lần đầu năm 1943) là hai công trình nghiên cứu tiêu biểu trong
giai đoạn này.
1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1986
Các nhà nghiên cứu phê bình chủ yếu hướng đến cách tiếp cận bản
chất hiện thực của văn học, bước đầu có những công trình hướng đến khai

5


thác những phương diện nghệ thuật tự sự.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: “Lược thảo
lịch sử văn học Việt Nam” của nhóm các tác giả Vũ Đình Liên, Đỗ Đức
Hiểu, Lê Trí Viễn, Huỳnh Lý, Trương Chính, Lê Thước, xuất bản lần đầu
năm 1957; Công trình “Văn học Việt Nam 1930-1945” (1961) của Bạch
Năng Thi, Phan Cự Đệ; Giáo trình “Lịch sử Văn học Việt Nam”, tập V, do
Nxb Giáo dục xuất bản năm 1962; Công trình “Sơ thảo lịch sử văn học
Việt Nam 1930-1945” do Vũ Đức Phúc và Nguyễn Đức Đàn viết, năm
1964; Công trình “Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam”
của Nguyễn Đức Đàn, xuất bản năm 1968. Ở Miền Nam có một số công
trình nghiên cứu bước đầu về dòng văn học này như: “Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên”, của Phạm Thế Ngũ (Sài Gòn, 1963); “Văn học sử Việt
Nam từ khởi thủy đến 1945” của Bùi Đức Tịnh (xuất bản lần đầu tại Sài
Gòn, 1967);

1.3.3. Giai đoạn từ 1986 đến 2000
Bên cạnh hướng tiếp cận xã hội học, các nhà nghiên cứu đã chú
ý nhiều đến hướng tiếp cận phong cách học, tiếp cận thi pháp học, và
tự sự học.
Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu được ghi nhận: Công trình
“Văn học Việt Nam 1900-1945” (1997) của Phan Cự Đệ - Trần Đình Hượu
- Nguyễn Trác - Nguyễn Hoành Khung - Lê Chí Dũng - Hà Văn Đức.
1.3.4. Giai đoạn từ 2000 cho đến nay
Đây là giai đoạn nở rộ với nhiều cách tiếp cận trong công tác
nghiên cứu phê bình văn học. Bên cạnh phong cách học, thi pháp
học, tiếp cận từ tự sự học đã được nhiều người nghiên cứu hướng tới.
Một công trình đề cập đến khá nhiều phương diện nghệ thuật của
TNHT phải kể đến "Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945"
(2000) do Mã Giang Lân chủ biên; Văn học Việt Nam thế kỉ XX (2004)

6


của Phan Cự Đệ; “Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam
những năm 1930-1945” (2004) của tác giả Trần Ngọc Dung; “Truyện
ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp - Chân dung” (2007) Phan Cự Đệ;
Sự vận động của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945 (2012) của
Nguyễn Duy Tờ. Bên cạnh những công trình trên, có nhiều công trình luận án
nghiên cứu về truyện ngắn hiện thực trên nhiều phương diện nội dung cũng
như hình thức.
1.4. Nhận định chung về tình hình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu trên đây, phần nhiều đề cập đến các vấn đề
về nội dung tác phẩm, nếu có nói về nghệ thuật thì chỉ điểm qua hoặc là đi
vào chi tiết ở một vài khía cạnh và dùng một số truyện tiêu biểu làm dẫn
chứng. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu đó là gợi mở quan trọng giúp tác

giả luận án đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tự sự học như:
Làm rõ đặc điểm của các dạng thức tổ chức tự sự trong truyện ngắn hiện
thực 1932-1945; Nghiên cứu các dạng thức người kể chuyện và các hình
thức diễn ngôn trong truyện ngắn hiện thực giai đoạn này.

7


Chương 2
CÁC DẠNG THỨC TỔ CHỨC TỰ SỰ TRONG
TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC VIỆT NAM 1932-1945
2.1. Kết cấu tự sự
2.1.1. Quan niệm về kết cấu trong tác phẩm tự sự
Luận án làm rõ một số quan niệm về kết cấu trong tác phẩm tự sự
qua quan niệm của một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước để làm cơ sở
cho việc triển khai nghiên cứu về kết cấu trong truyện ngắn hiện thực
(TNHT) giai đoạn này.
2.1.2. Nghệ thuật tổ chức kết cấu trong truyện ngắn hiện thực Việt
Nam 1932-1945
2.1.2.1. Kết cấu tuyến tính
Trong TNHT 1932-1945 không ít nhà văn sử dụng kiểu kết
cấu tự sự tuyến tính. Đáng lưu ý nhất phải nói đến truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Bùi Hiển, Tô Hoài, là những
nhà văn có số lượng truyện tương đối lớn hình thức kết cấu tự sự
tuyến tính so với truyện kể có các hình thức kết cấu tự sự khác.
2.1.2.2. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lý
TNHT 1932-1945 đã có nhiều thành công trong hình thức kết
cấu theo mạch phát triển tâm lý của nhân vật. Tuy có những truyện
mạch tâm lý nhân vật còn đơn giản, nhưng cũng có không ít truyện
mạch tâm lý nhân vật phức tạp, đan cài nhiều mức độ cảm xúc và

hình thức thể hiện. Điểm chung của mạch tâm lý nhân vật trong
những truyện giai đoạn này thường là những tâm trạng buồn, đau
khổ, chua xót, dằn vặt, băn khoăn trước cuộc đời, trước số phận của
mình hay của người khác.
2.1.2.3. Kết cấu phân đoạn, đảo trật tự thời gian
Khác với kết cấu tự sự tuyến tính, kiểu kết cấu đảo trật tự thời gian

8


trần thuật hay còn gọi là kiểu kết cấu tự sự phi tuyến tính (Nonlinear
narratives), kết cấu tự sự phân đoạn, gián đoạn là một kiểu kết cấu mà
những sự kiện được miêu tả trong đó không theo trật tự thời gian, hoặc
không theo mô hình quan hệ nhân quả trực tiếp.
2.1.2.4. Kết cấu truyện lồng truyện
Luận án phân tích về quan niệm kết cấu truyện lồng truyện và cho thấy
sự thể hiện kiểu kết cấu này đã mang lại hiệu quả nghệ thuật như thế nào trong
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao.
2.2. Truyện kể nghệ thuật
2.2.1. Lý thuyết về truyện kể trong loại hình tự sự
Cho đến nay, quan niệm về truyện kể đã có rất nhiều biến đổi phức
tạp, có lẽ một phần do sự phát triển đa dạng của thực tiễn đời sống văn học.
Mỗi nhà nghiên cứu đều có những quan niệm riêng về truyện kể. Luận án
tìm hiểu đặc điểm của truyện kể theo quan niệm của lý thuyết tự sự, sau đó
phân tích các dạng thức truyện kể chủ yếu trong TNHT.
2.2.2. Các dạng thức truyện kể trong truyện ngắn hiện thực Việt
Nam 1932-1945
2.2.2.1. Truyện kể sự kiện, hành động: Loại hình truyện kể sự kiện, hành
động là loại truyện kể mà trục vận động là các sự kiện, biến cố, thiên về
mô tả những xung đột, mâu thuẫn, tác động giữa các nhân vật. TNHT giai

đoạn này cũng thể hiện nét đặc trưng trong kiểu truyện kể sự kiện, hành
động.
2.2.2.2. Truyện kể tâm lý: Khác với kiểu truyện kể hành động, sự kiện, kiểu
truyện kể tâm lý chủ yếu là những xung đột trong thế giới nội tâm của nhân
vật, gắn liền với tâm lý của từng nhân vật. Xét TNHT Việt Nam 1932-1945,
kiểu truyện kể tâm lý có sự khác biệt rõ rệt ở các thời kỳ cả về số lượng lẫn
nghệ thuật thể hiện dòng tâm trạng.
2.2.2.3. Truyện kể đa tuyến: Với sự chi phối của đa tuyến nhân vật, điểm

9


nhìn trong tác phẩm không còn là điểm nhìn của NKC chi phối toàn bộ
mạch truyện, mà có sự di chuyển điểm nhìn từ NKC sang nhân vật, từ nhân
vật sang nhân vật. Ở bản thân nhân vật, đôi khi lại có sự di chuyển điểm
nhìn bên ngoài vào điểm nhìn bên trong tâm trạng của mình.
2.2.2.4. Truyện kể đơn tuyến: Kiểu truyện kể đơn tuyến nhân vật gần như
được các nhà văn thường xuyên sử dụng nhất là Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Tô Hoài, Kim Lân. Các truyện ngắn của các nhà văn này kết
cấu truyện kể tương đối đơn giản. Các sự kiện tập trung xoay quanh một
nhân vật chính.
2.2.2.5. Dấu hiệu thể nghiệm xây dựng truyện kể theo thủ pháp dòng ý thức
trong truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945
Có thể nói, ngay từ giai đoạn 1932-1945, một số truyện ngắn đã phá
vỡ tính nhân quả của chuỗi sự kiện để hướng đến một thủ pháp nghệ thuật
hiện đại đã từng trở thành trào lưu của nền văn học trên thế giới ở thế kỉ XX.
Các truyện ngắn giai đoạn này mới chỉ mang những dấu hiệu thể nghiệm
manh nha thủ pháp dòng ý thức trong xây dựng truyện kể chứ chưa trở
thành một kỹ thuật hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện theo
đúng như quan niệm của các nhà TSH.

2.3. Tình huống truyện
2.3.1. Quan niệm về tình huống truyện trong lý thuyết tự sự học
2.3.2. Tình huống trong truyện ngắn ngắn hiện thực Việt Nam 19321945
2.3.2.1. Tình huống kịch: Các nhà lý luận có sự lý giải thấu đáo về tình huống
kịch. Họ cho rằng đôi khi một tình huống kịch được giới thiệu một cách chậm
rãi như hành động bắt đầu mở ra. Điều này thường được thể hiện ở trong
các tác phẩm có sử dụng các yếu tố tạo ra sự hồi hộp để thu hút sự chú ý
của người đọc trong khi họ làm quen với những đối tượng khác có liên
quan.

10


2.3.2.2. Tình huống tâm trạng: Giai đoạn này tình huống tâm trạng xuất
hiện nhiều trong truyện ngắn của Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nam
Cao. Sự biểu hiện của tình huống tâm trạng trong truyện ngắn của
các nhà văn này cũng có nét khác nhau.
2.3.2.3. Tình huống tự nhận thức: Trong truyện ngắn giai đoạn này tình
huống tự nhận thức xuất hiện rải rác và không thực sự tập trung nhiều ở nhà
văn nào hay thời kỳ nào. Đối với truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, tình
huống tự nhận thức tập trung nhiều vào những truyện ngắn đề cập tới những
số phận của một thằng ăn cắp, đứa ăn xin, kẻ đi ở. Ở truyện ngắn của Thạch
Lam, tình huống tự nhận thức lại được đặt vào nhiều hoàn cảnh, số phận đa
dạng hơn.
2.3.2.4. Tình huống trớ trêu: Tình huống trớ trêu (situation irony) - Đây
là một kiểu tình huống tạo ra sự hấp dẫn, đa dạng cho truyện ngắn.
Là một kiểu tình huống được các nhà văn hiện thực xây dựng khá
thành công. Có những truyện ngắn đã tạo ra được sự thu hút người
đọc nhờ kiểu tình huống này.
Tiểu kết chương 2

TNHT Việt Nam 1932-1945 có cấu trúc trần thuật khá đa dạng và
phong phú. Truyện ngắn hiện thực giai đoạn này đã có bước chuyển dịch
đáng kể so với truyện ngắn ở giai đoạn trước đó cả về kết cấu, truyện kể lẫn
các dạng thức tình huống tự sự.

11


Chương 3
NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
HIỆN THỰC VIỆT NAM 1932-1945
3.1. Người kể chuyện và nhận diện người kể chuyện trong tác phẩm tự
sự
3.1.1. Giới thuyết đôi nét về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự
NKC giữ vai trò trung tâm trong tất cả các yếu tố cấu trúc của văn
bản nghệ thuật tự sự, là người giữ vai trò trần thuật, miêu tả hành động, sự
kiện, tâm trạng, tính cách của nhân vật. Tuy nhiên, có những tác phẩm
không chỉ có NKC tham gia kể lại câu chuyện mà có thể có những nhân vật
cùng tham gia vào việc kể chuyện, khi đó điểm nhìn trong tác phẩm có sự
dịch chuyển và mở rộng, nhưng điểm nhìn chi phối, giọng kể chi phối vẫn là
của NKC. Có khá nhiều nhà nghiên cứu bàn về vấn đề điểm nhìn tự sự như:
G. Genette, W. Booth, M. Bal, R. Barthes, Tz. Todorov, IU.M. Lotman,...
3.1.2. Các yếu tố cơ bản nhận diện người kể chuyện trong tác phẩm tự
sự
3.1.2.1. Nhận diện người kể chuyện từ ngôi kể: Ngôi kể (person) không phải
là yếu tố sớm được quan tâm đích đáng. Không ít người nghiên cứu TSH coi
nhẹ vai trò của yếu tố này trong truyện kể. Mãi sau này, cùng với sự nhìn nhận
một cách đúng mực các yếu tố thuộc cấu trúc nghệ thuật tự sự, ngôi kể bắt đầu
được người ta chú ý như là một trong những biểu hiện quan trọng của NKC
trong tác phẩm tự sự.

3.1.2.2. Nhận diện người kể chuyện từ điểm nhìn tự sự:
Điểm nhìn kể chuyện vốn là xuất phát điểm của cấu trúc nghệ thuật
trong văn bản tự sự. Việc tổ chức kết cấu tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào
yếu tố điểm nhìn kể chuyện. Khi miêu tả, trần thuật, nhà văn buộc phải xác
định, lựa chọn cho tác phẩm điểm nhìn hợp lý.
3.2. Các dạng thức người kể chuyện trong truyện ngắn hiện thực Việt

12


Nam 1932-1945
3.2.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba mang điểm nhìn bên ngoài, điểm
nhìn bên trong và điểm nhìn phức hợp
3.2.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba mang điểm nhìn bên ngoài
Ở TNHT Việt Nam 1932-1945, hình thức NKC ngôi thứ ba mang
điểm nhìn bên ngoài chiếm số lượng đáng kể, và có tần số sử dụng khá
chênh lệch giữa các nhà văn. Trong TNHT giai đoạn này, hình thức NKC
ngôi thứ ba mang điểm nhìn bên ngoài chiếm ưu thế đáng kể. Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, có số lượng truyện được kể bởi dạng thức NKC
ngôi thứ ba mang điểm nhìn bên ngoài nhiều hơn cả; tiếp đến là Tô Hoài và
Nam Cao.
3.2.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba mang điểm nhìn bên trong
Luận án phân tích dạng thức điểm nhìn này chủ yếu qua truyện ngắn
của Thạch Lam, Nguyên Hồng và Nam Cao. Trong số các nhà văn giai đoạn
này, Thạch Lam được xem là người có quan điểm sáng tác gần với các nhà
văn hiện thực. Một vài truyện ngắn của Thạch Lam thể hiện kiểu phản ánh
hiện thực khác với các nhà văn trước đó và sau đó, đó là sự nghiền ngẫm về
hiện thực chứ không phản ánh hiện thực.
3.2.1.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba mang điểm nhìn phức hợp
Một đặc điểm thú vị của hình thức trần thuật ngôi thứ ba mang điểm

nhìn phức hợp là có sự phối hợp giữa nhiều điểm nhìn tự sự. Ở đó luôn luôn có
sự di chuyển điểm nhìn từ NKC đến nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài vào điểm
nhìn bên trong. Các nhà văn hiện thực đã lựa chọn hình thức kể chuyện ngôi thứ
ba là chủ yếu, qua đó thấy rõ sự linh hoạt, đa dạng trong cách kể. TNHT có
nhiều nhất vẫn là hình thức kể chuyện bởi NKC ngôi thứ ba mang điểm nhìn
bên ngoài.
3.2.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất mang điểm nhìn đơn tuyến, điểm
nhìn đa tuyến

13


3.2.2.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất mang điểm nhìn đơn tuyến
Ở dạng thức NKC này cũng có thể có sự di chuyển điểm nhìn từ
ngoài vào trong để soi tỏ những ngóc ngách tâm lý phức tạp của nhân vật,
hoặc có hiện tượng nhiều điểm nhìn của nhiều nhân vật cùng chiếu vào một
sự việc, vấn đề nào đó. Trong số các nhà văn hiện thực 1932-1945, Nguyễn
Công Hoan có số lượng truyện nhiều nhất được kể bởi hình thức NKC ngôi
thứ nhất mang điểm nhìn đơn tuyến.
3.2.2.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất mang điểm nhìn đa tuyến
NKC ngôi thứ nhất mang điểm nhìn đa tuyến có thể hiểu là hình thức
tự sự mà ở đó điểm nhìn không còn bị giới hạn trong phạm vi ý thức của một
NKC xưng “tôi” nữa mà có sự dịch chuyển trên hai hay nhiều NKC khác
nhau. TNHT giai đoạn này có một số truyện được kể theo ngôi thứ nhất
mang điểm nhìn đa tuyến.
3.2.3. Người kể chuyện ngôi thứ nhất kết hợp ngôi thứ ba mang
điểm nhìn dịch chuyển
TNHT Việt Nam 1932-1945 có số lượng nhiều truyện nhất phải kể
đến là Nguyễn Công Hoan, sau đó là Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nam Cao.
Hình thức NKC này tuy xuất hiện không nhiều, nhưng cũng cho thấy sự thể

nghiệm đáng ghi nhận của các nhà văn hiện thực trong nghệ thuật kể
chuyện.
Tiểu kết chương 3
TNHT Việt Nam 1932-1945 xuất hiện ở nhiều dạng thức trần thuật
phong phú, đa dạng. Truyện ngắn giai đoạn này phần lớn được kể bởi dạng
trần thuật ngôi thứ ba mang điểm nhìn bên ngoài. Mỗi nhà văn đều thể hiện
rõ sự linh hoạt trong cách kể, cách dựng truyện. Đây là hình thức người kể
chuyện có khả năng khái quát hiện thực từ điểm nhìn khách quan.

14


Chương 4
DIỄN NGÔN TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN
HIỆN THỰC VIỆT NAM 1932-1945
4.1. Quan niệm về diễn ngôn và tiếp cận diễn ngôn từ lý thuyết tự
sự
4.1.1. Khái niệm diễn ngôn
4.1.2. Tiếp cận diễn ngôn từ lý thuyết tự sự
Theo hướng nghiên cứu của các nhà TSH diễn ngôn tự sự của một
tác phẩm thường bao gồm hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của NKC
và diễn ngôn của nhân vật. Trong luận án này, chúng tôi thống nhất
hiểu thuật ngữ diễn ngôn đó là những lời, “chuỗi liên tục những phát
ngôn”, các chuỗi phát ngôn này gắn kết với nhau để tạo nghĩa.
4.2. Diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn hiện thực Việt
Nam 1932-1945
4.2.1. Vai trò chi phối của diễn ngôn người kể chuyện đến toàn bộ cấu trúc
tác phẩm
Diễn ngôn tự sự là yếu tố hình thức của tác phẩm được tạo nên bởi
các yếu tố ngôn từ để phản ánh hiện thực cuộc sống, khai thác chiều sâu nội

tâm bí ẩn của con người. Trong TNHT 1932-1945, NKC đã được xây dựng
tương đối đa dạng, phong phú từ điểm nhìn, ngôi kể. Điểm nhìn và ngôi kể
qui định cách thức, vị trí, hay “tiêu điểm” mà NKC tiến hành thuật kể. Việc
kể lại câu chuyện với những lời miêu tả, bình luận, đánh giá tạo thành lớp
diễn ngôn NKC.
4.2.2. Thành phần trần thuật của người kể chuyện
Trong TNHT giai đoạn 1932-1945, nét nổi bật là diễn ngôn
NKC thường đậm chất ngôn ngữ của người bình dân, và có khả năng
phản ánh mọi vấn đề của hiện thực.
Luận án phân tích thành phần này trong các truyện ngắn của

15


Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi
Hiển, Nam Cao để làm rõ đặc điểm cũng như nghệ thuật xây dựng
diễn ngôn trần thuật trong truyện của các nhà văn này.
4.2.3. Thành phần miêu tả của người kể chuyện
Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng chưa
xuất hiện nhiều thành phần miêu tả thiên nhiên. Truyện của các nhà
văn Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nam Cao đã chú trọng miêu tả thiên
nhiên nhiều hơn, xuất hiện nhiều trường đoạn miêu tả hơn. TNHT
giai đoạn này còn có thành phần diễn ngôn miêu tả hoàn cảnh sống,
miêu tả ngoại hình và miêu tả tâm trạng nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng
nhân vật và thế giới hiện thực.
4.3. Diễn ngôn của nhân vật trong truyện ngắn hiện thực Việt
Nam 1932-1945
4.3.1. Diễn ngôn đối thoại của nhân vật
4.3.1.1 Đối thoại có đủ vai tham thoại, luân phiên lượt lời, nhưng giữa các
lượt lời không có lời dẫn của người kể chuyện

Mỗi nhà văn hiện thực đều luôn chú ý đến việc kiến tạo lời đối thoại
cho nhân vật, tùy vào mục đích, vào phong cách của mỗi nhà văn mà diễn
ngôn tự sự thể hiện ở những chiều kích khác nhau. Dạng thức diễn ngôn đối
thoại trực tiếp thể hiện được dụng ý nghệ thuật của nhà văn ở mức độ nào
còn tùy thuộc vào ngôn ngữ, vào cách trình bày hình thức của cuộc thoại đó.
4.3.1.2 Đối thoại có đủ vai tham thoại, luân phiên lượt lời, giữa các lượt lời
có lời dẫn, hay miêu tả, chú thích của người kể chuyện
Đây dường như là dạng thức diễn ngôn của nhân vật phổ biến
nhất trong TNHT 1932-1945. Gần như nhà văn hiện thực nào cũng
xây dựng lời thoại của các nhân vật theo dạng thức diễn ngôn này.
Rất nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Nam Cao
xây dựng những đoạn đối thoại để làm bật lên một tính cách, một nét

16


tâm trạng, suy nghĩ thể hiện rõ vị trí giai cấp của mỗi nhân vật thông
qua lời thoại của họ.
4.3.1.3. Đối thoại mang tính chất độc thoại
TNHT Việt Nam 1932-1945 xuất hiện những cuộc thoại tuy có đủ các
vai giao tiếp, nhưng các vai này không tuân thủ theo nguyên tắc “quyền được
nói”. Trong TNHT, xuất hiện những cuộc thoại mà người nói dường như
“tranh lượt lời” của người nghe, hoặc sao nhãng người nghe, hoặc đẩy người
nghe vào thế thụ động dẫn đến những “chỗ ngừng” trong hội thoại. Những
đoạn đối thoại trực tiếp trong TNHT Việt Nam 1932-1945 đều có tác dụng
làm nổi bật nên bản chất, tâm trạng, tính cách, địa vị, giai cấp, nghề nghiệp
của nhân vật. Đặc điểm diễn ngôn này thể hiện rõ nhất trong truyện của các
nhà văn: Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao.
4.3.2. Diễn ngôn độc thoại của nhân vật
4.3.2.1 Hình thức độc thoại nội tâm ở dạng thông thường

Tần suất xuất hiện cao nhất hình thức độc thoại nội tâm ở dạng
thông thường là ở trong truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Tô Hoài. Truyện ngắn của Nam Cao cũng có nhiều phân đoạn
diễn ngôn độc thoại nội tâm của nhân vật. Trong TNHT Việt Nam
1932-1945, diễn ngôn độc thoại của nhân vật được chú ý nhiều hơn
so với trước đây.
4.3.2.2 Hình thức độc thoại mang tính chất đối thoại: Ở TNHT 1932-1945,
hình thức phát ngôn này thường được biểu hiện dưới dạng những câu
hỏi. Nhân vật có khi tự hỏi, tự trả lời, hoặc hỏi để biểu thị một sự trăn
trở, dằn vặt, day dứt. Gần như hình thức diễn ngôn này được thể hiện
dưới dạng những phân đoạn tập trung các câu hỏi trong nội tâm của
nhân vật. Nguyên Hồng đã kiến tạo lớp diễn ngôn độc thoại có tính chất
đối thoại khá thành công để thể hiện nhân vật.
4.3.2.3 Hình thức độc thoại ở dạng nửa trực tiếp: Các diễn ngôn độc thoại

17


dưới dạng nửa trực tiếp trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Tô
Hoài thường ngắn, đôi khi chỉ là một câu văn xen kẽ trong diễn ngôn kể,
miêu tả của NKC. Nam Cao được xem là nhà văn xây dựng nhiều nhất lớp
diễn ngôn độc thoại trong truyện so với các nhà văn hiện thực khác. Ở
truyện ngắn của ông, các hình thức diễn ngôn có sự đan cài rất linh hoạt,
sinh động.
4.4. Nghệ thuật tổ chức diễn ngôn tự sự trong truyện ngắn hiện
thực Việt Nam 1932-1945
4.4.1. Đan cài, lồng ghép lời người kể chuyện với lời của nhân vật
Thông thường, những cuộc thoại trong TNHT có kèm theo lời dẫn,
lời miêu tả của NKC, hoặc lời kể, lời bình luận sau mỗi phát ngôn đối thoại
của nhân vật. Dạng lời dẫn đan xen thường có chức năng dự báo lượt lời để

chuyển đối tượng phát ngôn. Dạng lời có chức năng miêu tả thường nhằm
bổ sung làm rõ tâm trạng, tính cách của nhân vật trong cuộc đối thoại. Đặc
điểm này được luận án phân tích làm rõ trong truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Thạch Lam.
4.4.2. Gia tăng kết hợp lời người kể chuyện và lời độc thoại dưới
dạng nửa trực tiếp của nhân vật
Cấu trúc diễn ngôn kết hợp xen kẽ trong truyện của các nhà văn giai
đoạn này cũng có điểm khác nhau. Phần nhiều diễn ngôn trong truyện của
Nguyên Hồng thường có cấu trúc câu tương đối dài. Diễn ngôn NKC và diễn
ngôn của nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường có sự dịch
chuyển qua lại rất linh hoạt, đôi khi hòa lẫn giọng điệu không dễ để phân biệt.
Tiểu kết chương 4
TNHT 1932-1945 đã khẳng định sự phong phú, đa dạng các
hình thức diễn ngôn. Một số nhà văn đã tạo được sự thành công trong
việc kiến tạo các lớp diễn ngôn, bắt đầu từ Nguyễn Công Hoan và
đỉnh cao trong việc tạo dựng các lớp diễn ngôn linh hoạt là Nam Cao.

18


Một số nhà văn thực sự tỏ ra tinh tế trong việc đi sâu miêu tả những
diễn biến tâm trạng.
KẾT LUẬN
Truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945 thực sự đã đạt được
thành tựu đáng ghi nhận trong hành trình đổi mới tư duy nghệ thuật văn
xuôi nửa đầu thế kỷ XX. Bên cạnh sự thể hiện đa dạng, chân thực về nội
dung phản ánh, truyện ngắn hiện thực giai đoạn này còn bộc lộ sự nỗ lực
sáng tạo nghệ thuật không ngừng của các nhà văn như: Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển,
Kim Lân, Nam Cao. Truyện ngắn giai đoạn này đã có sự kế thừa ở

phương thức tự sự truyền thống, cũng như kế thừa nghệ thuật kể chuyện
trong văn xuôi 30 năm đầu thế kỷ XX. Song, đáng ghi nhận là sự nỗ lực
của các nhà văn hiện thực để đưa truyện ngắn “vượt thoát” khỏi tư duy
tự sự truyền thống bằng sự đổi mới và thể nghiệm trên một số phương
diện nghệ thuật.
1. Truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945 thực sự khẳng
định sự thành công trong các dạng thức tổ chức tự sự như: kết cấu,
truyện kể, tình huống. Ở mỗi dạng thức có sự kế thừa nghệ thuật dựng
truyện truyền thống, nhưng truyện ngắn giai đoạn này lại xuất hiện thêm
những dạng thức tự sự mới, mang lại cho truyện kể tính chất hiện đại rõ
rệt.
Ở kết cấu tự sự, truyện ngắn hiện thực ghi nhận sự xuất hiện kiểu
kết cấu tuyến tính, kết cấu theo mạch phát triển tâm lý, kết cấu phân
đoạn, đảo trật tự thời gian, kết cấu truyện lồng truyện. Sự xuất hiện kiểu
kết cấu theo mạch phát triển tâm lý nhân vật trong các truyện ngắn của
Thạch Lam, Nguyên Hồng và Nam Cao đã đánh dấu sự cách tân trong
việc xây dựng kết cấu so với truyện ngắn trước đây. Sự xuất hiện của

19


kiểu kết cấu phân đoạn, đảo trật tự thời gian với sự thay đổi linh hoạt
điểm nhìn tự sự đã phá vỡ trật tự tuyến tính của các sự kiện, mang lại
cho truyện ngắn khả năng bao quát hiện thực rộng lớn, không chỉ là hiện
thực đời sống mà còn là hiện thực tâm trạng của nhân vật.
Truyện ngắn hiện thực 1932-1945 có sự đa dạng về truyện kể
nghệ thuật. Truyện ngắn giai đoạn này có sự kế thừa mạnh mẽ dạng
truyện kể hành động, sự kiện trong tự sự truyền thống. Tuy nhiên, các
nhà văn hiện thực đã không kế thừa một cách rập khuôn cứng nhắc mà
họ luôn có ý thức sáng tạo, cách tân theo hướng hiện đại. Nhờ thế, dạng

truyện kể hành động, sự kiện góp phần phản ánh chân thực những mâu
thuẫn, xung đột xã hội phức tạp diễn ra hàng ngày. Một sự đóng góp rất
đáng ghi nhận đó là truyện ngắn hiện thực giai đoạn này đã có dấu hiệu
thể nghiệm xây dựng truyện kể theo thủ pháp dòng ý thức.
2. So với truyện ngắn ở các giai đoạn trước, truyện ngắn hiện thực
1932-1945 đã xuất hiện đa dạng các hình thức người kể chuyện. Các nhà
văn hướng đến xây dựng thế giới hiện thực nhức nhối xoay quanh cuộc
đời của nhân vật bằng cái nhìn khách quan. Từ đó làm bật nổi giá trị và
sức tố cáo đối với hiện thực. Về sau, quan niệm về hiện thực đã có sự
thay đổi trong truyện của các nhà văn. Hiện thực không chỉ là những vấn
đề nhức nhối tồn tại bên ngoài đời sống của con người, mà hiện thực còn
là sự mâu thuẫn, là những giằng xé nội tâm, là sự băn khoăn, day dứt của
của nhân vật do tác động của hoàn cảnh, của đời sống, của “tổng hòa
những mối quan hệ xã hội”. Các nhà văn đã đi vào khám phá hiện thực
từ góc độ đời tư cá nhân, từ những mâu thuẫn bên trong nhân vật, nên
cần phải có một hình thức nghệ thuật phù hợp. Sự thay đổi tư duy phản
ánh hiện thực kéo theo sự thay đổi trong nghệ thuật kể chuyện. Truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan thường khai thác những mâu thuẫn giai
cấp, khai thác sự đối lập giữa những kẻ giàu - người nghèo, giữa chủ -

20


tớ, khai thác những vấn đề tha hóa trong lối sống, nhân cách của nhiều
hạng người. Truyện ngắn của Nguyên Hồng, Thạch Lam, Nam Cao tuy
không đi vào mô tả những mâu thuẫn giai cấp đối kháng, nhưng vấn đề
hiện thực được các nhà văn này thể hiện vẫn đầy sức ám ảnh người đọc.
Thạch Lam xây dựng truyện kể từ cảm thức của nhân vật về hiện thực
hơn là về bản thân hiện thực. Nam Cao lại xoáy ngòi bút vào những ngõ
ngách tâm lý phức tạp của nhân vật, vào những va chạm trong cuộc sống

vụn vặt đời thường để nhân vật tự nhận cảm về hiện thực.
3. Sự thay đổi tư duy nghệ thuật theo hướng hiện đại của các nhà
văn hiện thực còn thể hiện ở các hình thức diễn ngôn tự sự. Sự xuất hiện
đa dạng các hình thức diễn ngôn so với văn xuôi trung đại đã khẳng định
sự nỗ lực vượt thoát tư duy tự sự truyền thống của các nhà văn. Những
hình thức diễn ngôn phong phú, đa dạng giúp cho các nhà văn hiện thực
có điều kiện tổ chức sinh động các khía cạnh phức tạp của đời sống
trong tác phẩm.
Các thành phần diễn ngôn trong truyện ngắn hiện thực đa dạng về
phân loại, và linh hoạt trong cấu trúc. Diễn ngôn người kể chuyện đa
dạng với các lớp diễn ngôn thuật kể, miêu tả. Diễn ngôn của nhân vật
cũng được tổ chức sinh động ở các lớp diễn ngôn đối thoại, diễn ngôn
độc thoại. Nhiều truyện còn có sự kết hợp đan xen các thành phần diễn
ngôn. Cấu trúc diễn ngôn trong truyện ngắn hiện thực thời kỳ này thực
sự đã có sự dịch chuyển rõ rệt theo mô hình cấu trúc diễn ngôn tự sự
hiện đại. Sự kiến tạo các lớp diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn
của nhân vật đã góp phần định hướng tiếp cận tác phẩm ở chiều sâu
nhận thức và phản ánh hiện thực của các nhà văn.
Bên cạnh việc kiến tạo thành công các thành phần diễn ngôn
người kể chuyện, diễn ngôn của nhân vật, các nhà văn còn thể hiện được
sự lồng ghép, đan xen kiểu hình thức diễn ngôn thuật kể, miêu tả của

21


người kể chuyện và diễn ngôn đối thoại của nhân vật. Sự đan xen, hòa
phối diễn ngôn người kể chuyện với diễn ngôn độc thoại của nhân vật
dưới dạng diễn ngôn nửa trực tiếp cho thấy cấu trúc diễn ngôn trong
truyện ngắn hiện thực đã có sự chuyển dịch rất nhiều so với trong văn
xuôi tự sự truyền thống.

4. Từ những vấn đề chúng tôi đã phân tích trong luận án, câu
hỏi đặt ra là: điều gì chi phối đến nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
hiện thực Việt Nam 1932-1945?
Chúng tôi cho rằng, có sự chi phối này do các nhà văn theo
khuynh hướng hiện thực đã có cái nhìn mới về nhân sinh quan và thế
giới quan, do họ có sự thay đổi trong quan niệm mới về hiện thực và do
sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử. Giai đoạn này, các nhà văn hiện thực
vừa thể hiện cái nhìn trực diện đối với xã hội, vừa thể hiện quan niệm
con người ở khía cạnh nội tâm, lại vừa xây dựng con người ở góc độ đời
sống riêng tư của họ. Những cái nhìn này một mặt chi phối đến nghệ
thuật tự sự, một mặt tạo ra sự chuyển dịch trong các đặc điểm của nghệ
thuật tự sự giai đoạn này. Sự chi phối này được thể hiện cụ thể qua việc
tạo dựng hình thức người kể chuyện, diễn ngôn và các dạng thức tổ chức
tự sự như: kết cấu, truyện kể, tình huống nghệ thuật. Chính sự quan tâm
riết róng đến các mảng màu tối xám của xã hội mà các nhà văn đã lựa
chọn phương thức tự sự khách quan hóa, sử dụng các lớp diễn ngôn
miêu tả của người kể chuyện, cũng như diễn ngôn đối thoại của nhân vật
phù hợp để làm bật nổi hiện thực. Rõ ràng, diễn ngôn tự sự trong truyện
ngắn giai đoạn này phần nào thể hiện sự chi phối của quyền lực đối với
diễn ngôn. Các nhà văn thời kỳ đầu của giai đoạn này cũng lựa chọn
hình thức cốt truyện hành động, sự kiện và kiểu tình huống kịch và tình
huống trớ trêu để làm nổi bật giá trị tư tưởng, chủ đề.
Hướng ngòi bút vào đời sống nội tâm của con người, các nhà văn

22


đã thể hiện sự chi phối của tư duy thẩm mĩ này đến việc lựa chọn các
phương diện nghệ thuật tự sự như: hình thức người kể chuyện ngôi thứ
ba mang điểm nhìn bên trong, điểm nhìn phức hợp, hình thức người kể

chuyện ngôi thứ nhất với tư cách là nhân vật trong tác phẩm có nhu cầu
bày tỏ thế giới nội tâm, cảm xúc. Diễn ngôn người kể chuyện cũng xoáy
vào lớp diễn ngôn miêu tả tâm trạng. Kết cấu và truyện kể tâm lý cũng
được lựa chọn để xây dựng quá trình vận động nội tâm phong phú, phức
tạp của nhân vật. Quan tâm đến đời sống riêng tư, cá nhân với những
chuyện vặt vãnh đời thường, các nhà văn đã xây dựng những cảnh đời
vô cùng gần gũi và chân thực như chính bản thân hiện thực vốn có. Do
vậy, diễn ngôn miêu tả, diễn ngôn của nhân vật tiến sát vào đời sống,
sinh động và đời thường hơn bao giờ hết. Người ta nghe thấy sự vang
vọng tiếng nói của đủ mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Đó là điểm
khác biệt so với truyện ngắn truyền thống và so với cả các truyện ngắn
đậm chất trữ tình, lãng mạn. Có thể nói, chính thế giới quan, nhân sinh
quan của nhà văn đã chi phối không nhỏ đến việc lựa chọn các phương
diện nghệ thuật tự sự giai đoạn này.
5. Qua sự phân tích, khảo sát truyện ngắn hiện thực 1932 - 1945
trên phương diện nghệ thuật tự sự, chúng tôi có thể rút ra một vài nhận
xét, đánh giá chung về những đóng góp của truyện ngắn hiện thực trong
hành trình tiếp nối và chuyển dịch, mang lại diện mạo mới cho văn học
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Các nhà văn đã từng bước khẳng định sự
đóng góp trong việc thay đổi quan niệm về hiện thực bằng chính thực
tiễn sáng tác của họ. Thời kỳ đầu, các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng tiếp tục thể hiện cái nhìn hiện thực tiếp nối quan niệm
trong sáng tác giai đoạn trước đó. Các nhà văn nhìn thẳng vào những
vấn đề hiện thực nhức nhối trong đời sống hàng ngày. Với Nguyên
Hồng, Thạch Lam, Nam Cao, bên cạnh việc thể hiện trực tiếp các vấn đề

23



×