Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Vai trò của viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thái bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.12 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ LONG KHÁNH

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VỚI VIỆC
TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO TỐ GIÁC TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ LONG KHÁNH

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VỚI VIỆC
TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO TỐ GIÁC TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THU HẠNH



Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Ngô Long Khánh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VỚI VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ

GIÁC, TIN BÁO TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ ................... 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố.. .8
1.2. Khái niệm và các phƣơng diện thể hiện vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân ..................................................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân ................................. 14
1.2.2. Các phương diện thể hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân .......... 16
1.3. Nội dung, đặc điểm và cơ sở vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố .......... 22
1.3.1. Nội dung vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố ...................................... 22
1.3.2. Đặc điểm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố...................... 28
1.3.3. Cơ sở vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố ............................... 29
1.4. Pháp luật tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới về vai trò của
Viện kiểm sát, Viện Công tố trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm ................................................................................ 30
1.4.1. Một số quốc gia tiêu biểu trong hệ thống Dân luật ........................... 30


1.4.2. Một số quốc gia tiêu biểu trong hệ thống Thông luật ....................... 33
1.4.3. Một số quốc gia tiêu biểu trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.... 35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .......................................................................... 39
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ VAI
TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VỚI VIỆC TIẾP NHẬN,
GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO TỘI PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
VÀ THỰC TRẠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI BÌNH ...................... 40
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm, kiến nghị khởi tố....................................................................... 40

2.2. Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố trên địa
bàn tỉnh Thái Bình (giai đoạn 2011 – 6/2017)......................................... 49
2.2.1. Những thành tích đạt được ................................................................ 49
2.2.2. Những bất cập, hạn chế ..................................................................... 54
2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế ......................................... 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .......................................................................... 69
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN VỚI VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO
TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ ................................................ 70
3.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và
kiến nghị khởi tố ........................................................................................ 70
3.1.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm, kiến nghị khởi tố ......................................................................... 70


3.1.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự 2015. .... .................................................................................................. 77
3.1.3. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật khác .................................... 85
3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố..... 86
3.2.1. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nhân sự ngành kiểm sát ........... 86
3.2.2. Một số giải pháp tăng cường cơ sở vật chất cho ngành kiểm sát ........... 88
3.2.3. Một số giải pháp nâng cao vai trò của người dân, phương tiện truyền
thông trong hoạt động tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm ......................... 89
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .......................................................................... 92
KẾT LUẬN ................................................................................................ 93

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ....................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 96


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng Hình sự

CQĐT:

Cơ quan Điều tra

CQTHTT:

Cơ quan tiến hành tố tụng

KSV:

Kiểm sát viên

Thông tư 06: Thông tư số 06/2013/TTLT – BCA – BQP – BTC BNN&PTNT - VKSNDTC
THQCT:

Thực hành quyền công tố

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân



DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Số hiệu
bảng
2.1

2.2

Tên gọi bảng
Số liệu thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011 – 6/2017
Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trên địa
bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011 – 6/2017

Trang

50

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố
là hoạt động tố tụng hình sự đầu tiên, có ý nghĩa tạo định hướng điều tra
chính xác, góp phần không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội. Tham gia hoạt động này có nhiều chủ thể khác nhau:
Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Để việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm, kiến nghị khởi tố được tiến hành hiệu quả, vai trò của mỗi cơ quan,

trong đó có Viện kiểm sát nhân dân cần được làm rõ. Với tầm quan trọng
như vậy, nghiên cứu vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố là việc làm cần thiết,
cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện vai trò của mình
thông qua chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, đã và đang có những tranh
luận học thuật xung quanh hai chức năng này. Điều đó sẽ dẫn đến những
quan điểm khác nhau về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố. Trong khi đó,
Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trong
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
25/4/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Để công cuộc cải cách tư pháp đạt

1


được những thành tựu to lớn hơn nữa, sự thống nhất trong nhận thức và áp
dụng pháp luật là yếu tố quyết định.
Trong thực tiễn, sự thể hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố liên
quan trực tiếp tới kết quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Điều
này có thể được minh họa bằng thực trạng tại tỉnh Thái Bình từ năm 2011
đến tháng 6 năm 2017. Với những nỗ lực của toàn ngành kiểm sát, công tác
tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị
khởi tố ở Thái Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhưng bên cạnh đó,

vẫn tồn tại một số hạn chế như vi phạm về thời gian giải quyết nguồn tin,
nhiếu trường hợp cơ quan điều tra giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến
nghị khởi tố nhưng không thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân… Thực
trạng trên đặt ra yêu cầu phải tìm hiểu một cách hệ thống các quy định
pháp luật nhằm tăng cường hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Điều này càng trở nên cần thiết trong bối cảnh Bộ luật tố tụng hình sự 2015
đã được ban hành và có nhiều điểm mới quan trọng.
Với những lý do nêu trên, tác giả xin chọn đề tài: “Vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)” làm đề
tài cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khi vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự
nói chung luôn là đề tài thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học thì
việc đi sâu vào vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với hoạt động tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố còn khá hạn chế.

2


Ở cấp độ luận văn thạc sĩ, luận văn “Kiểm sát việc giải quyết tin báo,
tố giác tội phạm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” (bảo vệ năm 2015 tại
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội) của tác giả Dương Tiến Mạnh là
một trong số ít những công trình nghiên cứu về vấn đề này. Nhưng tác giả
Dương Tiến Mạnh chưa đề cập tới quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2015 trong quan điểm của mình. Một số luận văn khác có giá trị là: “Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” (bảo vệ năm 2005 tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội)
của tác giả Lê Lan Chi, “Vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Bình)” (bảo vệ
năm 2016 tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội) của tác giả Nghiêm
Thị Thanh Thư. Những luận văn nói trên đã phân tích một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng những phân tích đó
chỉ được trình bày ngắn gọn, không phải quan điểm chủ đạo của luận văn.
Ở cấp độ bài báo khoa học, đề tài vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố
được khai thác nhiều hơn. Có thể kể đến các bài báo: “Về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả
Nguyễn Duy Giảng đăng trên Tạp chí kiểm sát số 18 & 20/2008; “Cần thống
nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và các nguồn thông tin về tội phạm” của tác giả Lê Ra, tạp chí kiểm sát số
20/2012; “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” của
tác giả Lưu Trọng Nguyên, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009. Bài báo“Một số
vấn đề về công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tiến trình cải cách”

3


của tác giả Nam Trung, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 11(212) – 2009 tuy
không đề cập trực tiếp tới vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng đưa ra
những phân tích cụ thể về mặt lý luận vai trò của thiết chế này.
Ở cấp độ sách chuyên khảo, chưa có công trình nào tập trung vào hoạt
động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố. Hầu
hết những công bố có giá trị đều phân tích về vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng hình sự nói chung hoặc vị trí của Viện kiểm sát nhân dân

trong hệ thống cơ quan Nhà nước. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố có thể
được rút ra từ những phân tích này. Một số sách chuyên khảo tiêu biểu bao
gồm: Quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp 1992: Một vài đề
xuất sửa đổi, Hiến pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn (2011), nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; Viện kiểm sát
nhân dân trong nhà nước pháp quyền (2014), nhà xuất bản Tư pháp do GS.
Nguyễn Đăng Dung chủ biên; Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt
Nam (2015), nhà xuất bản Tư pháp của TS. Nguyễn Văn Tuân. Gần đây nhất
là sách Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (2016), nhà
xuất bản chính trị quốc gia, do PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình chủ biên.
Như vậy, nhìn một cách tổng quan, đề tài vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị
khởi tố chưa được nghiên cứu rộng rãi. Những công trình khoa học hoặc
chưa cập nhật các quy định mới trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 hoặc
chỉ chú trọng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự nói
chung, từ đó rút ra vai trò trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tình hình này cho thấy việc nghiên cứu đề
tài: “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tin

4


báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố (trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Thái Bình)” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa
có tính thực tiễn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và luật thực định về vai
trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung vào nghiên cứu vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác
tội phạm và kiến nghị khởi tố trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua
các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự
2015. Số liệu, tư liệu thực tế trong luận văn chủ yếu trích dẫn từ các báo
cáo tổng kết của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình trong giai đoạn từ
năm 2011 đến tháng 6 năm 2017. Một số tư liệu lấy từ báo điện tử và trang
web chính thức của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan điểm của Đảng và Nhà nước
về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong luận văn, các phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng
bao gồm: phương pháp phân tích, so sánh, phương pháp thống kê, tổng
hợp, phương pháp diễn dịch và quy nạp. Đặc biệt, phương pháp phân tích,
so sánh đóng vai trò chủ đạo trong quá trình nghiên cứu.

5


5. Những điểm mới của luận văn
Luận văn đã phân tích tương đối hệ thống một số vấn đề lý luận về
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm, kiến nghị khởi tố; sự thể hiện vai trò này thông qua những
quy phạm cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Bộ luật tố tụng hình
sự 2015.
Luận văn đã khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định
về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố từ năm 1959 đến khi Bộ luật tố

tụng hình sự 2015 được ban hành.
Nghiên cứu một số nét cơ bản về vai trò của Viện kiểm sát, Viện
công tố với hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm trong
pháp luật một số quốc gia trên thế giới. Qua đó, đưa ra nhận xét về quan
điểm lập pháp ở từng quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Phác thảo trung thực, khách quan thực tiễn hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân hai cấp tỉnh Thái Bình với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố trong giai đoạn 2011 – 6/2017; những
thành tựu đạt được, hạn chế cần khắc phục và nguyên nhân của hạn chế đó.
Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện quy
định về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Bên cạnh đó, kiến nghị một số giải pháp nâng cao chất lượng nhân sự, bảo
đảm cơ sở vật chất, thu hút sự hợp tác của người dân và báo chí. Qua đó,
nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trên thực tế, đáp ứng yêu cầu
công cuộc cải cách tư pháp.

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý
luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố; chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Đồng thời,
luận văn đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự 2015 về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Về thực tiễn, luận văn đã phân tích những hạn chế trong hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thái Bình với việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố. Qua đó, đưa ra một số
giải pháp nhằm khắc phục phần nào những hạn chế này. Ngoài ra, luận văn
còn có giá trị với việc nghiên cứu khoa học cũng như áp dụng thực tế thẩm
quyền của Viện kiểm sát nhân dân.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị
khởi tố.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm, kiến nghị khởi tố và thực trạng trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Chương 3: Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN VỚI VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN
BÁO TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
1.1.

Khái niệm và đặc điểm tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị

khởi tố
Từ góc độ ngôn ngữ học, các thuật ngữ tin, báo, tố giác, kiến nghị

được định nghĩa như sau:
Tin (danh từ): 1) Điều được truyền đi, báo đi cho biết về sự
việc, tình hình xảy ra. 2) Sự truyền đạt, sự phản ánh dưới các
hình thức khác nhau, cho biết về thế giới chung quanh và những
quá trình xảy ra trong nó.
Báo (động từ): 1) Cho biết việc gì đó đã xảy ra. 2) Cho
người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy ra có thể hại đến
trật tự an ninh chung.
Kiến nghị (động từ): Nêu ý kiến đề nghị về một việc chung
để cơ quan có thẩm quyền xem xét. (Danh từ): Điều kiến nghị.
Tố giác (động từ): Báo cho cơ quan chính quyền biết người
hoặc hành động phạm pháp nào đó. [17]
Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu “tin báo”, “tố giác”, “kiến nghị"
là những danh từ, động từ để chỉ thông tin được truyền từ chủ thể này sang
chủ thể khác hoặc cách thức truyền tin. “Báo” vốn là một động từ, nhưng
khi kết hợp với “tin” để tạo thành từ ghép “tin báo” thì “tin báo” là danh từ.
“Tố giác” là động từ. “Kiến nghị” là danh từ hoặc động từ tùy theo ngữ
cảnh. Do các khái niệm khác nhau về mặt từ loại nên khi xuất hiện cùng
nhau dễ gây thiếu nhất quán ở góc độ ngôn ngữ. Điều này được phản ánh
trong BLTTHS 2015 và Thông tư 06. Ở hai văn bản, khái niệm “tin báo”

8


được định nghĩa là danh từ [20, khoản 2, Điều 144], [4, khoản 2, Điều 3];
“kiến nghị khởi tố” là động từ [20, khoản 3, Điều 144], [4, khoản 3, Điều
3]; “tố giác” được quy định là danh từ theo Thông tư 06 [4, khoản 1, Điều
3] và động từ theo BLTTHS 2015 [20, khoản 1, Điều 144]. Tuy nhiên, đa
số các điều luật còn lại ở BLTTHS 2015 và Thông tư 06 đều sử dụng thuật
ngữ “tố giác”, “kiến nghị khởi tố” như những danh từ với ý nghĩa là thông

tin, ví dụ “Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố…” [20, Điều 147, khoản 1] hoặc “Khi tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố …” [4, khoản 3, Điều
4]. Luận văn tiếp cận cả ba khái niệm: tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị
khởi tố ở góc độ danh từ với ý nghĩa là thông tin. Bởi thông tin là yếu tố
trung tâm trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm,
kiến nghị khởi tố, đồng thời gợi ra mối quan hệ chủ thể báo tin – chủ thể
tiếp nhận, xử lý thông tin và mối quan hệ giữa các chủ thể tiếp nhận, xử lý
thông tin với nhau (CQĐT, VKSND...). Trong khi đó, nghĩa động từ của
các thuật ngữ trên là cách thức truyền thông tin, do vậy, chỉ gợi ra mối
quan hệ chủ thể báo tin – chủ thể tiếp nhận, xử lý thông tin. Để chính xác
về mặt ngôn ngữ, hai thuật ngữ “tố giác” và “kiến nghị khởi tố” cần được
thay thế bằng “tin tố giác”, “tin kiến nghị khởi tố”. Tuy nhiên, do thuật ngữ
“tố giác” và “kiến nghị khởi tố” đã trở nên quen thuộc nên luận văn tiếp
cận các thuật ngữ này với ý nghĩa là thông tin.
Ở góc độ pháp lý, hai yếu tố cốt lõi của “tố giác”, “tin báo tội phạm”,
“kiến nghị khởi tố” là: nội dung thông tin, chủ thể truyền – nhận thông tin.
Về nội dung thông tin, “tố giác”, “tin báo tội phạm”, “kiến nghị khởi
tố” là các thông tin về sự việc có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Bởi cấu
thành tội phạm là “tổng hợp các dấu hiệu được quy định trong luật hình sự
đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể” [6, tr.124]. Cấu thành tội phạm

9


bao gồm bốn yếu tố: 1) chủ thể của tội phạm – “con người cụ thể, đang
sống” [6, tr.161] hoặc một pháp nhân cụ thể, 2) khách thể của tội phạm –
“những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại” [6,
tr.136], 3) mặt khách quan – “các dấu hiệu biểu hiện tội phạm diễn ra
trong thế giới khách quan” [6, tr.145], 4) mặt chủ quan của tội phạm – thái

độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi mà họ thực hiện và hậu quả
của hành vi ấy. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: lỗi, động cơ phạm tội
và mục đích phạm tội. Trong thực tiễn, các thông tin về tội phạm rất đa
dạng nhưng đều có thể xếp vào một trong bốn yếu tố nói trên. Ví dụ, thông
tin về một vụ cướp có thể bao gồm: chủ thể - số người tham gia cướp, đặc
điểm từng người; mặt chủ quan – lỗi cố ý trực tiếp, được thể hiện qua việc
uy hiếp nạn nhân; mặt khách quan – thời gian, địa điểm xảy ra vụ cướp,
hung khí dùng để cướp; khách thể - quan hệ sở hữu. Do đó, có thể khẳng
định “tố giác”, “tin báo tội phạm”, “kiến nghị khởi tố” là những thông tin
về sự việc có dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Hiện nay, có sự phân biệt về mặt nội dung giữa các loại thông tin
trong Thông tư 06 và BLTTHS 2015. Theo Thông tư 06, tố giác và tin báo
là thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm, kiến nghị khởi tố là “phát hiện
sự việc có dấu hiệu tội phạm” [4, Điều 3]. Theo BLTTHS 2015, nội dung
của tin báo là “hành vi có dấu hiệu tội phạm”, của tố giác và kiến nghị khởi
tố là “vụ việc có dấu hiệu tội phạm” [20, Điều 144]. Tuy nhiên, hai văn bản
trên chưa quy định sự khác biệt giữa hành vi và vụ việc có dấu hiệu tội
phạm. Thông tin về một vụ việc chi tiết, trong đó có hành vi phạm tội, do
cá nhân báo cho CQĐT sẽ thỏa mãn đặc điểm của cả tin báo và tố giác tội
phạm theo BLTTHS 2015. Như vậy, việc phân loại tin dựa trên “hành vi”
và “vụ việc có dấu hiệu tội phạm” chưa thực sự hợp lý. Có thể thấy, sự
khác biệt quan trọng nhất là: kiến nghị khởi tố bao gồm văn bản kiến nghị
khởi tố vụ án hình sự và các chứng cứ, tài liệu liên quan bên cạnh những

10


thông tin về sự việc có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Nói cách khác, thông
tin trong kiến nghị khởi tố đã được xử lý bước đầu, có mức độ tin cậy cao
hơn và gắn với trách nhiệm của cơ quan Nhà nước. Trong khi đó, tố giác và

tin báo chưa được xử lý, có mức độ tin cậy thấp hơn.
Tóm lại, về nội dung, tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố là
những thông tin về sự việc có dấu hiệu cấu thành tội phạm nhưng kiến nghị
khởi tố kèm theo văn bản kiến nghị khởi tố vụ án hình sự và các chứng cứ,
tài liệu liên quan.
Về chủ thế truyền – nhận thông tin, điểm tương đồng giữa tố giác, tin
báo tội phạm, kiến nghị khởi tố là những thông tin này được phát hiện bởi
chủ thể không có thẩm quyền giải quyết và được báo cho chủ thể có thẩm
quyền. Điều này được rút ra trên cơ sở tính chất của các loại thông tin.
Thông tin về tội phạm có thể được phát hiện bởi bất kỳ ai nên không cần
quy định thẩm quyền với chủ thể truyền tin. Tin báo và kiến nghị khởi tố có
chủ thế truyền tin là cơ quan, tổ chức, cơ quan Nhà nước nhưng những cơ
quan đó không phải cơ quan có thẩm quyền xử lý thông tin.
Những thông tin tội phạm cần được xác minh chính xác, nhanh
chóng nhằm ngăn ngừa tội phạm hoặc khắc phục kịp thời hậu quả của tội
phạm. Đồng thời, việc xác minh cũng cần khách quan, công bằng để không
làm oan người vô tội. Muốn cân bằng hai yếu tố này, phải có những chủ thể
giải quyết thông tin đủ mạnh, được pháp luật trao quyền. Đó là CQĐT,
VKSND, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Các thông tin có thể được báo trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền hoặc
đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng. Trong trường hợp thông tin
xuất hiện trên truyền thông, đó cần được coi là một hình thức thông báo
khác đến cơ quan có thẩm quyền. Bởi truyền thông hướng đến đối tượng
tiếp nhận rộng rãi, trong đó có những cơ quan có thẩm quyền giải quyết
thông tin tội phạm.

11


Tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố khác biệt ở chủ thể

truyền tin. Có các loại chủ thể truyền tin chính: cá nhân; cơ quan tổ chức;
cơ quan Nhà nước. Cơ quan Nhà nước là chủ thể đặc trưng của kiến nghị
khởi tố. Cá nhân là chủ thể của tố giác tội phạm. Với chủ thể truyền tin của
“tin báo”, theo Thông tư 06, đó là cơ quan, tổ chức [4, khoản 2, Điều 3].
Nhưng theo BLTTHS 2015, chủ thể đó là cá nhân, cơ quan, tổ chức [20,
khoản 2, Điều 144]. Chúng tôi cho rằng, nên thống nhất chủ thể truyền tin
của tin báo là cơ quan, tổ chức mà không bao gồm cá nhân. Điều đó giúp
phân biệt tin báo và tố giác. Bởi hai loại tin này có bản chất thông tin và
chủ thể nhận tin giống nhau. Vì thế, chủ thể truyền tin trở thành tiêu chí
phân biệt tin rõ ràng nhất.
Từ các phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa như sau
Tố giác về tội phạm là thông tin về sự việc có dấu hiệu cấu thành tội
phạm do cá nhân cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thông tin về sự việc có dấu hiệu cấu thành tội
phạm do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền hoặc thông
tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
Kiến nghị khởi tố là thông tin về sự việc có dấu hiệu cấu thành tội
phạm, được gửi kèm văn bản kiến nghị khởi tố vụ án hình sự, do Cơ quan
Nhà nước cung cấp cho Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Có thể rút ra định nghĩa chung cho “tố giác”, “tin báo về tội phạm”
và “kiến nghị khởi tố” như sau:
Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là những thông tin
về sự việc có dấu hiệu cấu thành tội phạm do các chủ thể không có thẩm
quyền giải quyết cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự.
Tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố có các đặc điểm sau:

12



Là cơ sở mở đầu quá trình tố tụng hình sự, tạo tiền đề cho các hoạt
động tố tụng tiếp theo được thực hiện chính xác, có căn cứ. Từ khi tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã phát
sinh. Đó là sự bắt đầu quá trình tố tụng hình sự. Tố giác, tin báo tội phạm
và kiến nghị khởi tố tạo tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp sau vì chất
lượng của những thông tin này quyết định mức độ xác minh, làm rõ của các
cơ quan tiến hành tố tụng cũng như khả năng khởi tố vụ án hình sự.
Không được phát hiện bởi cơ quan tiến hành tố tụng. Do đặc điểm
này, tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố đa phần có chất lượng
thông tin không cao nhưng số lượng tin rất lớn và đóng vai trò chủ yếu
trong việc giúp CQTHTT phát hiện tội phạm. Để tiếp nhận đầy đủ, kịp thời
tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, các CQTHTT nên tạo nhiều
kênh liên lạc, đồng thời khuyến khích ý thức phòng chống tội phạm của
mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Mức độ chi tiết, chính xác của thông tin rất đa dạng. Đặc điểm này
xuất phát từ việc đa phần hành vi, vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát
hiện ngẫu nhiên mà mức độ chính xác, chi tiết của một thông tin phụ thuộc
vào hoàn cảnh thông tin đó được phát hiện. Một lý do khác dẫn đến đặc
điểm này là các cá nhân, cơ quan, tổ chức (chủ thể truyền tin) không có
nguồn lực và nghiệp vụ như những CQTHTT nên không thể kiểm tra, đánh
giá chất lượng thông tin.
Phản ánh hiện tượng (chứ chưa phản ánh bản chất) của hành vi, vụ
việc có dấu hiệu tội phạm. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, “hiện tượng
là những biểu hiện bề ngoài, bên ngoài của sự vật”; “bản chất là tổng hợp
tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong,
quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật” [24]. Do hành vi, vụ

13



việc có dấu hiệu tội phạm thường được phát hiện ngẫu nhiên nên tố giác,
tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố chỉ phản ánh được phần nào biểu hiện
bên ngoài cuả toàn bộ hành vi, vụ việc ấy. Trong khi đó, các CQTHTT cần
xác định bản chất của hành vi, vụ việc để ấn định trách nhiệm hình sự. Do
vậy, tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố cần trải qua quá trình xác
minh, làm rõ bởi CQTHTT có thẩm quyền.
1.2. Khái niệm và các phƣơng diện thể hiện vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
Theo từ điển tiếng Việt, “vai trò” là “Tác dụng, chức năng trong sự
hoạt động, phát triển của cái gì đó” [17]. Định nghĩa này cho thấy thuật ngữ
“vai trò” và “chức năng” có sự tương đồng nhất định. Mối quan hệ giữa vai
trò và chức năng của VKSND là: vai trò được thể hiện thông qua các chức
năng khác nhau. Phân tích vai trò của VKSND là phân tích từng chức năng
và sự thể hiện những chức năng đó. Ngược lại, nghiên cứu hoàn thiện chức
năng của VKSND cần hướng đến bảo đảm vai trò của thiết chế này.
Dưới góc độ pháp lý, hai chức năng chính của VKSND trong tố tụng
hình sự là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đó
là cơ sở để xác định vai trò của VKSND trong tố tụng hình sự nói chung,
trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố nói
riêng. Theo khoản 3, Điều 23 BLTTHS 2003, Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm:
Bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp
thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội.

14



Trong khi đó, theo Điều 20, BLTTHS 2015, hai chức năng này phản
ánh vai trò của VKSND trong tố tụng hình sự là:
Bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân
phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 có những bổ sung quan trọng
về mặt lý luận: vai trò “phát hiện” được ghi nhận bên cạnh vai trò “xử lý”
và “vi phạm pháp luật” được coi là đối tượng cần ngăn chặn giống như
“hành vi phạm tội”. Vai trò “phát hiện” được ghi nhận là sự bổ sung kịp
thời, cần thiết. Bởi hành vi “phát hiện” mang tính chất khác với hành vi
“xử lý”. “Phát hiện” nhằm nhận biết sự tồn tại của thông tin tội phạm còn
“xử lý” nhằm đánh giá tính chất, mức độ của thông tin đó. Việc thực hiện
tốt vai trò “phát hiện” là điều kiện tiên quyết để tiến hành “xử lý”. Nếu vai
trò “phát hiện” không được nhắc đến hoặc chỉ được coi là một bộ phận của
vai trò “xử lý”, công tác nhận thức cũng như thực tiễn phát hiện thông tin
tội phạm sẽ không được coi trọng.
“Vi phạm pháp luật” được nêu tại Điều 20 BLTTHS 2015 cần được
hiểu là những vi phạm từ cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án. Vì thế,
“vi phạm pháp luật” tách riêng với “hành vi phạm tội” mặc dù nếu chỉ xét
về nội hàm, hai thuật ngữ có sự tương đồng nhất định
Ngoài ra, BLTTHS 2015 cũng đã bổ sung quy định “không để lọt
pháp nhân phạm tội” vào vai trò của VKSND bởi theo Bộ luật Hình sự
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, pháp nhân cũng là chủ thể chịu trách
nhiệm hình sự .

15



Từ vai trò của VKSND trong tố tụng hình sự, có thể rút ra vai trò của
VKSND trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị
khởi tố như sau:
Bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm
tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm
minh, đúng pháp luật.
1.2.2. Các phương diện thể hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
VKSND thể hiện vai trò thông qua chức năng THQCT và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, một vấn đề đang tồn tại hiện nay là
nền tảng lý luận của hai chức năng vẫn chưa được thống nhất. Chưa có văn
bản pháp lý nào giải thích chính thức về quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật. Trong khi đó, giới học thuật vẫn đang đưa ra những
quan điểm trái chiều. Tình trạng này tất yếu dẫn đến nhận thức khác nhau
về cách thể hiện vai trò của VKSND. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về
chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật có ý nghĩa định
hướng phân tích vai trò của VKSND với việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Bên cạnh những nhiệm vụ, quyền hạn trong hai chức năng chính, một
phương tiện khác để VKSND thể hiện vai trò của mình là thẩm quyền tiếp
nhận tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, được quy định tại các
Điều 145, 146, 160 BLTTHS 2015. Quy định trong BLTTHS 2015 cho
thấy thẩm quyền này vừa mang tính chất độc lập, vừa nằm trong nhiệm vụ,
quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, cùng với hai chức
năng chính của VKSND, thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm,
kiến nghị khởi tố cần được nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện.

16



a) Chức năng thực hành quyền công tố
Giữa BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 có một số điểm khác biệt
trong quy định về THQCT. Nếu như trong BLTTHS 2003, THQCT là
quyết định việc truy tố người phạm tội [19, Điều 23, khoản 1] thì theo
BLTTHS 2015, đó là quyết định việc buộc tội [20, Điều 20]. Thời điểm bắt
đầu THQCT trong BLTTHS 2015 là từ lúc “giải quyết nguồn tin về tội
phạm” [20, Điều 159], sớm hơn luật hiện hành, từ khi “khởi tố vụ án” [19,
Điều 109]. Mấu chốt để đánh giá những thay đổi này là lý luận về quyền
công tố. Luận văn tiếp cận quyền công tố dựa trên những bình diện sau: đối
tượng, chủ thể, nội dung và phạm vi thời gian của quyền.
Đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Điều
này xuất phát từ đặc điểm của tố tụng hình sự: Nếu sự cáo buộc trách
nhiệm hình sự thuộc về tư nhân, hoặc người buộc tội không đủ mạnh nên
họ không thể buộc tội. Hoặc họ quá mạnh nên xâm hại đến quyền của
người bị buộc tội. Khi quyền công tố được thực hiện bởi Nhà nước, nhu
cầu lập lại công lý và bảo vệ quyền của người bị buộc tội mới được cân
bằng. Ở các lĩnh vực luật khác không tồn tại đặc điểm này.
Về chủ thể, duy nhất Viện kiểm sát được THQCT. Trách nhiệm hình
sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất nên chỉ cần một thiết chế đóng
vai trò chủ thể buộc tội. Nếu quyền công tố được trao cho nhiều cơ quan thì
không những gây chồng chéo thẩm quyền mà khả năng xâm phạm quyền
của người bị buộc tội cũng cao hơn.
Về nội dung quyền công tố, các nhà khoa học cho rằng đó là sự truy
cứu trách nhiệm hình sự với người phạm tội. Đây cũng là cách tiếp cận
trong phạm vi luận văn. Quyền công tố là tổng hợp các quyền nhằm truy
cứu trách nhiệm hình sự với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử. Để truy cứu trách nhiệm hình sự , VKSND phải tổng hợp và
đánh giá các chứng cứ trong giai đoạn điều tra, buộc tội ở giai đoạn truy tố
và bảo vệ sự buộc tội trước Tòa khi xét xử.


17


×