VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LINH
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LINH
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào.
Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 2018
Học viên
Nguyễn Thị Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VAI
TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ .................................................................................................................................... 8
1.1. Những lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự .... 8
1.2. Quy định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự .................................................................................................................. 21
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ TẠI TỈNH NGHỆ AN TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2016 ............... 32
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng quy định của pháp luật về vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự tại tỉnh Nghệ An .................. 32
2.2. Kết quả áp dụng quy định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng hình sự tại tỉnh Nghệ An ............................................................... 39
2.3. Hạn chế, vướng mắc trong áp dụng quy định của pháp luật về vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự tại tỉnh Nghệ An và nguyên
nhân của hạn chế, vướng mắc ..................................................................................... 45
Chương 3: YÊU CẦU GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI
TỈNH NGHỆ AN TRONG THỜI GIAN TỚI ..................................................... 53
3.1. Yêu cầu tăng cường vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình
sự tại tỉnh Nghệ An ...................................................................................................... 53
3.2. Giải pháp tăng cường vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự tại tỉnh Nghệ An.............................................................................................. 62
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 81
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCA
BLHS
BLTTHS
BQP
CHXHCN
CQĐT
HĐXX
KSĐT
KSND
KSV
KSTTPL
KSXX
KSXXHS
KSXXST
NDTC
NQ
TAND
TANDTC
THQCT
TNHS
TTHS
TTLT
UBND
VAHS
VKS
VKSND
VKSNDTC
VKSTC
XHCN
XXST
: Bộ Công an
: Bộ luật Hình sự
: Bộ luật Tố tụng hình sự
: Bộ Quốc phòng
: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
: Cơ quan điều tra
: Hoạt động xét xử
: Kiểm sát điều tra
: Kiểm sát nhân dân
: Kiểm sát viên
: Kiểm sát tuân theo pháp luật
: Kiểm sát xét xử
: Kiểm sát xét xử hình sự
: Kiểm sát xét xử sơ thẩm
: Nhân dân tối cao
: Nghị quyết
: Tòa án nhân dân
: Tòa án nhân dân tối cao
: Thực hành quyền công tố
: Trách nhiệm hình sự
: Tố tụng hình sự
: Thông tư liên tịch
: Ủy ban nhân dân
: Vụ án hình sự
: Viện kiểm sát
: Viện kiểm sát nhân dân
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
: Viện kiểm sát tối cao
: Xã hội chủ nghĩa
: Xét xử sơ thẩm
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Thống kê số vụ án bị cáo bị truy tố được đưa ra xét xử sơ thẩm và số
lượng bị đình chỉ, tạm đình chỉ, điều tra bổ sung giai đoạn 2011-2016 .. 41
Bảng 2: Thống kê số vụ án/bị cáo VKS đưa ra xét xử sơ thẩm đã giải
quyết và bị đình chỉ, tạm đình chỉ, điều tra bổ sung ............................... 42
Bảng 3: Thống kê số vụ án/bị cáo đã giải quyết trong phiên tòa sơ thẩm
và số vụ án/bị cáo kháng nghị ...................................................................... 43
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong đó, tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp nói chung, VKS nói riêng đóng vai trò quan
trọng, là nền tảng cơ bản của nhà nước pháp quyền, là cơ sở để mở rộng và
phát huy dân chủ. Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng đẩy mạnh cải cách tư
pháp, với nội dung cơ bản là cải cách, đổi mới tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp theo hướng khoa học và hiện đại, từng bước hoàn thiện hệ
thống pháp luật, nhằm đảm bảo cho các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ
quan tư pháp hoạt động hiệu quả.
Trong giai đoạn điều tra VAHS, VKS có chức năng, nhiệm vụ THQCT
và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Với chức năng, nhiệm vụ đó,
VKS giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, đảm bảo tính pháp chế
của hoạt động điều tra, ngay từ khi khởi tố, bắt giữ người phạm tội, yêu cầu
điều tra thu thập chứng cứ cho đến khi kết thúc điều tra nhằm làm rõ toàn bộ
sự thật khách quan của vụ án, nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, chính
xác, điều tra để truy tố mọi tội phạm. Hoạt động THQCT và KSĐT của VKS
hướng đến tính chính xác, khách quan của quá trình chứng minh sự thật của
VAHS thuộc phạm vi trách nhiệm của CQĐT, bảo đảm việc truy cứu TNHS
có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy ra các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội
phạm hoặc người phạm tội.
Tỉnh Nghệ An nằm ở trung tâm khu vực Bắc Trung bộ, đất rộng, người
đông. Với diện tích 16.490, 25 km2, lớn nhất cả nước; dân số hơn 3 triệu
người, đứng thứ tư cả nước; là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh; hội tụ
đầy đủ các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường
biển, đường thuỷ nội địa; điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng như một Việt
Nam thu nhỏ... Nghệ An có nhiều tiềm năng và lợi thế để thu hút đầu tư và
1
ngày càng có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến tìm hiểu cơ hội đầu
tư, kinh doanh tại Nghệ An.
Hòa cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của địa phương, hệ thống VKS
hai cấp tỉnh Nghệ An cũng đã có những bước phát triển vượt bậc. Hằng năm,
hai cấp VKS đã thụ lý giải quyết trên hàng nghìn vụ án các loại. Tuy số lượng
các loại án năm sau luôn cao hơn năm trước với nhiều vụ án rất phức tạp,
nhưng tỷ lệ giải quyết các loại án của từng năm luôn được nâng cao. Trong
xét xử VAHS, hầu hết đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật ,
không kết oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Trong phần xác định nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong
thời gian tới, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã
nêu rõ: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động
công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình
tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội”…
Nhằm để tìm hiểu rõ hơn về vai trò của VKSND trong TTHS, từ đó
đánh giá thực trạng về hoạt động của VKSND trong thực tiễn để tìm ra những
ưu điểm, khuyết điểm và hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến các hạn chế.
Trên cơ sở đó, nhằm đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện vai
trò của VKSND trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình cải cách tư pháp, với những đặc thù
riêng về chính trị, kinh tế, xã hội cũng như vai trò của VKSND trong bộ máy
nhà nước Việt Nam, những vấn đề lý luận về quyền công tố đòi hỏi tiếp tục
được nghiên cứu thấu đáo, tạo tiền đề lý luận và pháp lý cho VKSND thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong TTHS. Việc xây dựng cơ sở lý
luận toàn diện trong bối cảnh cải cách mạnh mẽ về tư pháp hiện nay vẫn đang
là đòi hỏi cấp thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện về tổ chức, hoạt động
của ngành Kiểm sát cũng như nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức năng của
2
VKSND trong bộ máy nhà nước. Với tất cả các ỷ nghĩa đó, tôi đã chọn đề tài:
“Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh
Nghệ An”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và
thực tiễn tổ chức và hoạt động của VKSND, điển hình như: TS. Lê Hữu Thể
(Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005; Tác
giả Lê Thị Tuyết Hoa với Luận án tiến sỹ: Quyền công tố ở Việt Nam, khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2002; Tác giả Phạm Mạnh Hùng với bài
viết: Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về quan hệ giữa VKS và CQĐT
trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 2/2007, ...
Những nghiên cứu trực tiếp liên quan đến vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của VKSND gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003) Kỷ yếu đề tài cấp
bộ - Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp; Hoàng Công Huấn: Những biện pháp chủ yếu để nâng cao chất
lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong năm
2002, Lê Hữu Thể: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, Tạp chí Kiểm sát.
Bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các Tạp chí chuyên ngành: Đỗ Văn
Đương, ”Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/7/2006; Lê Văn Cảm, ”Bàn về
hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án trong chiến lược cải
cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát số 01/2009; Lê Thị Tuyết Hoa, ”Một số nội
dung trọng tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát số
16/2012; Nguyễn Hòa Bình, ”Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát 16/2012 và
Tạp chí Kiểm sát số 21/2012; Nguyễn Thị Thủy, ”Sửa đổi bổ sung bộ luật
3
TTHS nhằm thực hiện chủ trương của Đảng - Tăng cường trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với điều tra”, Tạp
chí Kiểm sát 21/2012; Trần Văn Độ, ”Hoàn thiện các qui định của BLTTHS
về biện pháp tạm giam", Tạp chí Kiểm sát 21/2012; Trần Đình Nhã, ”Chế
định điều tra tội phạm trong BLTTHS", Tạp chí Kiểm sát 21/2012; Đào Trí
Úc, ”Đề xuất đổi mới VKS ở Việt nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế
giới", Tạp chí Kiểm sát số 12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, ”Vai
trò cơ quan công tố các nước trên thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình
sự", Tạp chí Kiểm sát số 13/2013; Lê Thị Tuyết Hoa, ”Thực trạng và một số
kiến nghị nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra", Tạp chí Kiểm sát số 08/2014.
Các bài viết trên đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau trong quá
trình nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài này, tác giả muốn làm rõ thêm vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Nghệ An.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật về vai trò
của VKS trong TTHS, phản ánh thực trạng thực hiện những quy định đó trên
địa bàn tỉnh Nghệ An, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật và các giải pháp khác bảo đảm thực hiện tốt vai trò của VKSND
trong BLTTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích mà luận văn đề ra, nhiệm vụ nghiên cứu được
đặt ra:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ, vai trò của VKSND trong TTHS Việt Nam….,
phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm vụ , quyền hạn và
trách nhiệm của VKS trong các VAHS;
4
- Phân tích, đánh giá thực trạng về vai trò của VKS trong BLTTHS ở
tỉnh Nghệ An, làm rõ những mặt tích cực, những mặt còn hạn chế, vướng
mắc, bất cập trong việc thực hiện quy định của pháp luật về vai trò của VKS
trong VAHS ở tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản , các quy định của
pháp luật về vai trò của Kiểm sát viên trong các vụ án hình sự và thực tiễn
thực hiện ở tỉnh Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi không gian: Lý luận và thực tiễn ở tỉnh Nghệ An
Về phạm vi nội dung: VKSND ngoài nhiệm vụ thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp còn có các nhiệm vụ kiểm sát khởi tố, kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử và giải quyết khiếu nại, tố cáo với các lĩnh vực tố
tụng khác. Tuy vậy, trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ đi sâu
nghiên cứu vị trí, vai trò của VKSND về thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật về khởi tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của các chủ thể có thẩm quyền khác.
Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự từ
thực tiễn tỉnh Nghệ An” từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và Pháp luật, pháp chế XHCN, Đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam
về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta
5
hiện nay. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
nói chung, VKSND nói riêng trong thời kỳ đổi mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu và hoàn thiện trên cơ sở phương pháp khoa học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác Xít. Trong quá trình thực hiện đề
tài, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu như:
Phương pháp phân tích để diễn giải làm sáng tỏ các khái niệm, các quy định
của pháp luật hiện hành về vai trò của VKSND trong TTHS, phương pháp
lịch sử để nhìn nhận, đánh giá các quy định pháp luật qua các thời kỳ phát
triển, phương pháp so sánh để có sự đối chiếu, làm rõ sự khác nhau và làm rõ
sự tiến bộ của pháp luật về vấn đề nghiên cứu qua các thời kỳ lịch sử.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đi sâu nghiên cứu có hệ thống lý luận
và thực tiễn về vai trò của VKSND trong TTHS tại tỉnh Nghệ An. Luận văn
góp phần làm phong phú thêm tri thức về pháp luật TTHS, đấu tranh chống
tội phạm và phòng ngữa tội phạm trên thực tiễn, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo
hộ. Do đó luận văn bao hàm những ý nghĩa sau:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật TTHS về vai trò của Kiểm sát viên trong TTHS, tác giả mong muốn
góp phần vào việc phát triển lý luận về vai trò của VKS, đồng thời gợi mở
một số vấn đề để cơ quan Nhà nước có thẩ m quyền cần tâm trong việc thực
hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đúng với mục tiêu mà Nghị
quyết số 49-NĐ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị đề ra.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở đánh giá thực trạng trong việc thực hiện quy định của pháp
luật về vai trò của VKSND trong TTHS từ các VAHS và đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của VKS trong VAHS theo yêu
6
cầu cải cách tư pháp, luận văn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động xét xử, điều tra, truy tố của hệ thống VKS.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học
tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ Kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của
mình, bên cạnh đó luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy về vấn đề liên quan đến vai trò của VKSND trong TTHS tại các
Trường Đại học, cao đẳng, các trường bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1. Những lý luận và quy định pháp luật về vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự tại tỉnh Nghệ An từ năm 2011
đến năm 2016.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp tăng cường vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng hình sự tại tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
7
Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự
1.1.1. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự
Thuật ngữ “vai trò”. Vai trò có nghĩa là “tác dụng, chức năng của ai hoặc
cái gì trong sự hoạt động, sự phát triển chung của một tập thể, một tổ chức”
Từ khái niệm “vai trò” nêu trên có thể có thể đưa ra khái niệm vai trò
của VKSND trong tố tụng hình sự là phương diện hoạt động cơ bản của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự nhằm hướng tới kết quả, mục đích,
yêu cầu đã đề ra [45, tr.11].
Hiến pháp năm 2013 quy định: VKSND có chức năng THQCT và kiểm
sát hoạt động tư pháp; VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật , bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Theo đó, pháp luật TTHS quy
định vai trò rất quan trọng của VKSND là cơ quan có thẩm quyền tham gia tất
cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
VKSND là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành của bộ máy nhà
nước, đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp luật, bảo
vệ chế độ. Xác định được tầm quan trọng của hệ thống cơ quan này, thời gian
qua, cùng với việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ trương đổi mới
tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có VKSND. Đây
là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng được thể hiện trong nhiều văn
kiện: Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 Về một số công việc cấp bách của
các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết số 088
NQ/TW ngày 02/01/2002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 mà mục tiêu là” xây dựng một nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
[17, tr. 2] trong đó có yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách
nhiệm của các cơ quan VKSND.
Đến nay, sau nhiều năm triển khai thực hiện các nghị quyết trên của
Đảng, công tác tư pháp đã đạt được những kết quả cụ thể, đáng khích lệ, đánh
dấu những biến chuyển tích cực trong công tác tư pháp, đấu tranh chống các
loại tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân: Đã
khắc phục một bước trong việc lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt oan, sai; tỷ lệ bắt,
giam, giữ đưa ra truy tố đạt cao; công tác giải quyết án trọng điểm và đấu
tranh chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt, đã và đang
giải quyết được nhiều vụ án tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng, xử lý
nghiêm minh, không có “vùng cấm” nào [5, tr.5].
Trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cơ quan VKSND
là một mắt xích quan trọng. Trong đó, Nhà nước giao cho VKSND hai chức
năng cơ bản là THQCT và KSHĐTP. Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy định:
“Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý
kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người
vô tội” [13, tr.7]. Trên cơ sở các quy định của BLTTHS Việt Nam, quá trình tố
tụng của nước ta trải qua các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án. Do đó, với tư cách là một cơ quan thay mặt Nhà nước, VKSND là cơ
quan đảm nhận việc thực hiện chức năng truy tố người phạm tội ra trước Tòa
án để xét xử, đồng thời là cơ quan giám sát của Nhà nước trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
9
VKSNDTC là cơ quan kiểm sát cao nhất của Nhà nước, có chức năng
giám sát pháp luật và lãnh đạo VKS địa phương các cấp trong việc thực hiện
chức năng giám sát pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp luật được
đúng đắn và thống nhất.
VKSND các cấp ở địa phương gồm: VKSND dân tỉnh, VKSND thành
phố, VKSND huyện. VKS là cơ quan độc lập với Chính phủ và Toà án. Viện
trưởng VKSNDTC do Quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
VKS không chịu sự tác động từ phía các cơ quan hành chính, nhưng chịu sự
giám sát của Quốc hội. VKS được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, các KSV phải phục tùng sự chỉ đạo
của Viện trưởng VKS cùng cấp và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Xu hướng xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
theo hướng là một cơ quan tư pháp trong bộ máy Nhà nước, có tính độc lập
như quy định của Hiến pháp hiện hành là phù hợp với tiến trình lịch sử tư
pháp ở nước ta và phù hợp với xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới
(như Trung Quốc, Liên bang Nga, Cộng hoà Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ…). ở các nước trên, Viện kiểm sát (hoặc Viện
công tố) được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung lãnh đạo thống
nhất dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát tối
cao (hoặc Tổng Công tố trưởng/Tổng Kiểm sát trưởng); các cơ quan chính
quyền không có quyền can thiệp vào công việc cụ thể của các Kiểm sát viên
(hoặc Công tố viên) [09, tr.103].
Trong khi ở các nước có cơ quan Công tố đang trực thuộc Bộ Tư pháp,
xu hướng chung hiện nay đều muốn cơ quan Công tố độc lập với Bộ Tư pháp
để các Công tố viên có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ của mình mà không
phải chịu bất cứ sự can thiệp nào thì không có lý gì chúng ta lại đưa Viện
kiểm sát theo mô hình mà các nước muốn thay đổi.
10
Trong bộ máy nhà nước của Việt Nam VKS là cơ quan tư pháp rất
quan trọng. VKS đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chính quyền nhà
nước, bảo vệ chế độ XHCN, pháp chế XHCN và quyền làm chủ của nhân
dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân tại nước mình.
VKSND là một trong bốn hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước,
gồm: cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, VKSND và
TAND. Trước kia, VKSND được tổ chức thành 3 cấp, từ năm 2014 đến nay,
thực hiện chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp,
hệ thống VKSND được tổ chức thành bốn cấp phù hợp với hệ thống tổ chức
của TAND, cụ thể gồm: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh. Hệ thống VKS quân sự được tổ chức thành ba cấp: VKS quân sự
trung ương, VKS quân sự quân khu, tương đương và VKS quân sự khu vực.
VKSND có hai chức năng cơ bản được quy định trong Hiến pháp, đó là:
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tại Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 có quy định: “Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
11
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Như vậy, từ các nghiên cứu của mình, chúng tôi mạnh dạn cho rằng,
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự là sự thể hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các phương diện hoạt động cơ bản của Viện
kiểm sát nhân dân trong mối quan hệ với các chủ thể tiến hành tố tụng khác
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án.
1.1.2. Các hoạt động thể hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự
1.1.2.1. Hoạt động thực hành quyền công tố
Quyền công tố là quyền nhân danh công quyền buộc tội người phạm tội và
bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội
phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
cáo, kháng nghị. Để đảm bảo việc thực hiện quyền đó, Nhà nước quy định các
quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu TNHS
đối với người phạm tội, cơ quan được giao thẩm quyền đưa vụ án ra Tòa để xét xử
và bảo vệ việc buộc tội đó gọi là cơ quan thực hành quyền công tố. Ở nước ta, nhà
nước giao cho VKSND thực hiện chức năng này, cho nên chỉ có VKS mới có
chức năng THQCT mà không có cơ quan nào có được.
Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố TTHS để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội.
Về bản chất, THQCT là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay
từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự (Khoản 1, Điều 3 Luật
Tổ chức VKSND năm 2014).
Trong quá trình tố tụng hình sự, hoạt động THQCT bao gồm: (1) Khởi
tố bị can: để có được quyết định khởi tố bị can, cơ quan công tố phải khởi tố
12
vụ án và điều tra, xác minh, (2) Truy tố bị can ra trước tòa án trên cơ sở kết
quả điều tra vụ án và chứng minh được người phạm tội, (3) Buộc tội bị cáo và
bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa bằng cách công bố bản cáo trạng, tham gia
xét hỏi, trình bày lời luận tội và tranh luận trước phiên tòa sơ thẩm; nếu vụ án
bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì có mặt để tham gia xét hỏi và trình bày lời
kết luận về kháng cáo, kháng nghị trước phiên tòa phúc thẩm.
Tại Khoản 1, Điều 3 Luật Tổ chức VKSND 2014 xác định: “Thực hành
quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự". Theo đó, VKSND
thực hành quyền công tố của mình trong những lĩnh vực sau: (1) THQCT trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, (2) THQCT
trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS, (3) THQCT trong giai đoạn truy tố tội
phạm, (4) THQCT trong giai đoạn xét xử VAHS, (5) Điều tra một số loại tội
phạm, (6) THQCT trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
Theo khoản 3 Điều 23 BLTTHS quy định: “Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội”. Theo đó, VKS thực hành quyền công tố phải gắn
với kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm bảo đảm từ việc tiếp
nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Theo đó, trong quá trình tiến hành TTHS, VKS không thể tách rời hoạt
động THQCT với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ một cách độc lập mà hai chức năng đó phải thực hiện
song trùng và có sự tác động tương hỗ lẫn nhau. Chẳng hạn, Viện trưởng
13
VKSND quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh bắt
tạm giam đối với Nguyễn Văn A; phạm tội Giết người đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật là kết quả Kiểm sát viên C thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, bắt tạm giam, kiểm sát các
hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra một cách chặt
chẽ, tuân thủ đúng pháp luật. Nhờ đó, mọi hành vi phạm tội của A đã được
phát hiện, xử lý kịp thời, Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố bị can,
phê chuẩn lệnh bắt tạm giam… đối với A bảo đảm đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Khi thực hiện chức năng THQCT, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn
sau: yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái
pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án của CQĐT,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trực tiếp
khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do BLTTHS quy định.
Quyền công tố của VKS trong TTHS là quyền năng pháp lý nhà nước
giao cho duy nhất VKS để buộc tội đối với cá nhân, tổ chức phạm tội từ khi
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi vụ án được Tòa án đưa ra
xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án được cơ quan có thẩm
quyền đình chỉ và quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật [16, tr21].
Cũng giống như quyền công tố, chủ thể duy nhất của hoạt động
THQCT là VKS được tiến hành một số nhiệm vụ của quyền công tố nhưng
không phải là THQCT. Mục đích của hoạt động THQCT là nhằm bảo đảm
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, không làm oan
người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị
khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công
dân trái luật. Về phạm vi, THQCT có phạm vi rất rộng, từ khi có tội phạm xảy
ra đến khi bản án, quyết định về VAHS có hiệu lực pháp luật. Quyền công tố
được thực hiện ở nhiều giai đoạn, trong đó giai đoạn từ khi có tội phạm xảy ra
14
đến khi VKSND có quyết định truy tố hoặc quyết định đình chỉ vụ án được
gọi là THQCT trong giai đoạn điều tra VAHS.
Ý nghĩa công tác thực hành quyền công tố của VKS nhằm bảo đảm: (1)
Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, (2) Không để
người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công
dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm
một cách trái pháp luật, (3) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can
phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Như vậy, VKSND thực hành quyền công tố góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất qua đó bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
1.1.2.2. Hoạt động kiểm sát khởi tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử
vụ án hình sự
Theo quy định của pháp luật và thực tiễn VAHS vài thập kỷ qua, tác
giả nhận thấy vai trò của VKSND trong TTHS qua hoạt động kiểm sát khởi
tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự được thể hiện như sau:
Thứ nhất là, vai trò, trách nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc khởi tố - điều tra vụ án hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi
phạm tội và người phạm tội đều được phát hiện, xử lý theo quy định của pháp
luật; đồng thời bảo đảm việc điều tra tuân thủ đúng pháp luật , mọi hoạt động
xâm phạm đến các quyền của người bị buộc tội không bị pháp luật tước bỏ
hoặc hạn chế đều phải được phát hiện và xử lý.
Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định nhiệm vụ, quyền
hạn khi THQCT trong giai đoạn điều tra VAHS, Điều 15 quy định nhiệm vụ,
quyền hạn khi Kiểm sát điều tra VAHS và theo Điều 165, 166 BLTTHS năm
2015, các biện pháp sau đây có thể được VKS sử dụng để bảo đảm người bị
buộc tội trong giai đoạn khởi tố - điều tra: Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án
rõ ràng là không có căn cứ thì VKS ra văn bản yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra
15
quyết định hủy bỏ hoặc ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án theo
quy định tại khoản 1 Điều 161 BLTTHS năm 2015; nếu thấy QĐKTBC của
CQĐT chưa rõ căn cứ xác định bị can phạm tội , VKS yêu cầu cơ quan đã
khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố. VKS có thể hỏi
người bị buộc tội, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ
khởi tố bị can trước khi quyết định việc phê chuẩn hay hủy bỏ QĐKTBC đối với
người đang bị tạm giữ thì VKS ra quyết định hủy bỏ QĐKTBC và yêu cầu cơ
quan đã khởi tố bị can ra quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Nếu
qua nghiên cứu hồ sơ thấy có dấu hiệu của việc lạm dụng việc lạm dụng việc bắt
khẩn cấp, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa thể hiện rõ căn cứ để bắt khẩn hoặc
người bị bắt không nhận tội, các chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn, người bị
bắt là người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, người có uy tín trong
đồng bào dân tộc ít người, là cán bộ Đảng viên hoặc người có chức vụ, quyền
hạn trong bộ máy Nhà nước hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì VKS trực
tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi quyết định việc phê chuẩn hay không phê
chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Thứ hai là, vai trò của VKSND ở giai đoạn truy tố để bảo đảm đường
lối truy tố vụ án được đúng đắn, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm
tội; nếu thấy việc truy tố không có lợi nhiều mặt thì đình chỉ vụ án , bị can
(miễn truy tố) khi có những căn cứ luật định.
Trong giai đoạn truy tố, VKSND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp để bảo đảm quyền con người của
người bị buộc tội theo điều 16 và điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và
Điều 236, 237 BLTTHS năm 2015.
Sau khi nghiên cứu toàn bộ nội dung vụ án, KSV phải tổng hợp toàn bộ
chứng cứ, xem xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ trên cơ
sở các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội; chứng cứ chứng minh tình tiết tăng
nặng TNHS, tình tiết giảm nhẹ TNHS, đặc điểm nhân thân bị can và thực hiện
các phương pháp nghiên cứu trong trường hợp bị can nhận tội , không nhận
16
tội, trong đó phải lưu ý nghiên cứu kỹ nội dung lời khai của bị can chứng
minh tình trạng ngoại phạm và các tình tiết có liên quan đến vụ án để phát
hiện ra những mâu thuẫn ngay trong lời khai của bị can để có thể xác định lời
khai đó không phù hợp với các chứng cứ khác và bác bỏ lời khai không nhận
tội. Trường hợp bị can lúc nhận tội, lúc chối tội, hoặc nhận tội một phần thì
phải nghiên cứu kỹ cả những lần bị can khai nhận tội và không nhận tội để
xem xét lời khai nào là khách quan và phù hợp với các chứng cứ khác. Đối
với những lời khai của bị can một mực kêu oan không nhận tội thì phải phúc
cung ngay đối với bị can để làm rõ sự thật vụ án. Nghiên cứu kỹ lờ i khai của
người bị hại làm rõ mức độ bị thiệt hại; nếu bản thân bị hại cũng có lỗi thì
thường không nhận lỗi về mình…
Thứ ba là, vai trò, trách nhiệm của VKS trong việc bảo đảm của người bị
buộc tội qua hoạt động THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật khi xét xử
các VAHS ở giai đoạn xét xử giúp HĐXX tuyên bản án có căn cứ và hợp pháp.
Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 266, 267 BLTTHS
năm 2015: Khi THQCT trong giai đoạn xét xử VAHS, VKSND có nhiệm vụ,
quyền hạn: (1) Công bố Cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút
gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa (2) Xét hỏi ,
luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa
(3) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan,
sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội (4) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong việc buộc tội theo quy định của BLTTHS và tại Điều 19 quy định nhiệm
vụ, quyền hạn khi kiểm sát xét xử VAHS: (1) Kiểm sát việc tuân thủ theo
pháp luật trong việc xét xử các VAHS của Tòa án (2) Kiểm sát bản án, quyết
định của Tòa án (3) Kiểm sát hoạt động TTHS của người tham gia tố tụng;
yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người
tham gia tố tụng vi phạm pháp luật (4) Yêu cầu Tòa án cùn g cấp, cấp dưới
chuyển hồ sơ VAHS để xem xét, quyết định việc kháng nghị (5) Kháng nghị
bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (6)
17
Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm
sát xét xử VAHS theo quy định của BLTTHS. Hiệu quả bảo đảm quyền con
người của bị cáo của VKS phụ thuộc rất lớn vào tỷ lệ ban hành các kiến nghị ,
kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm, sai lầm trong giai đoạn xét xử, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Thứ tư là, vai trò, trách nhiệm của VKS trong hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam ở các Nhà tạm giữ, Trại tạm
giam. Theo Điều 22 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND có nhiệm
vụ, quyền hạn khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam như: (a) Trực tiếp kiểm sát
tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam; hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về việc tạm
giữ, tạm giam; (b) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam; (c) Yêu cầu Trưởng nhà
tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc tạm giữ , tạm giam và thông
báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc tạm
giữ, tạm giam; thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định,
biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ , tạm giam; (d)
Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ , tạm giam không có căn cứ và
trái pháp luật; (đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm
quyền trong việc tạm giữ, tạm giam đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi
bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ , tạm giam, chấm dứt
hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật; (e) Khởi
tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội
phạm trong tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật; (g) Giải quyết
khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.
Thứ năm là, vai trò, trách nhiệm của VKS trong việc bảo đảm quyền con
người của người bị buộc tội qua công tác thụ lý, giải quyết và kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan và người tiến hành
tố tụng có thẩm quyền ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Thứ sáu là, vai trò, trách nhiệm của VKSND qua công tác THQCT,
kiểm sát xét xử để thực hiện quyền kháng nghị theo các thủ tục phúc thẩm ,
18
giám đốc thẩm hình sự do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS hoặc do có
sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hoặc tái thẩm hình sự do
phát hiện có tình tiết mới. Trong TTHS, VKSND là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền kháng nghị theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình
sự. Đây là hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp
của bản án, quyết định của Tòa án nhằm phục hồi công lý; khắc phục oan sai,
vi phạm quyền con người của người bị buộc tội ở nhiều mức độ và phạm vi
khác nhau. Hiệu quả bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội của
VKS phụ thuộc rất lớn vào tỉ lệ kháng nghị theo các thủ phúc thẩm , giám đốc
thẩm, tái thẩm hình sự và bảo vệ thành công các kháng nghị đó.
Thứ bảy là, vai trò, trách nhiệm của VKSND trong việc bảo đảm quyền
con người của người bị buộc tội qua công tác kiến nghị yêu cầu khắc phục vi
phạm pháp luật trong giai đoạn điều tra và xét xử. Hiệu quả bảo đảm người bị
buộc tội củaVKS phục thuộc rất lớn vào tỷ lệ chấp nhận các kiến nghị, kháng
nghị yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật của CQĐT
Thứ tám là, vai trò, trách nhiệm của VKSND qua công tác khởi tố, trực
tiếp điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp xâm phạm như bức cung,
nhục hình, lợi dụng chức vụ - quyền hạn giam, giữ của người trái pháp luật,
truy cứu TNHS người không có tội…
Thứ chín là, vai trò, trách nhiệm của VKSND qua công tác yêu cầu
CQĐT có thẩm quyền tiến hành khởi tố các tội xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị buộc tội ở các nơi giam, giữ
1.1.2.3. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, khiếu nại là việc
công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do pháp luật
quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết
định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công
chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
19