Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Đặc sắc văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70 KB, 6 trang )

ĐẶC SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM
Posted on 05/12/2009 by tailieudulich






Rate This
Trần Đình Hượu
1.
Trong lịch sử của ta có hiện tượng các phương thức sản xuất không đầy đủ, không thay thế
nhau bằng cách cái sau phủ định cái trước. Những tàn dư của xã hội nguyên thủy (như
ruộng công làng xã), của một chế độ nô lệ không điển hình (như nô tì công và tư), của một
chế độ phong kiến phân tán chưa thành hình (như các hào trưởng, hào cường), một chế độ
phong kiến tập trung quá sớm nhưng không trọn vẹn vì thiếu kinh tế đô thị, tồn tại song
song, đan chéo vào nhau như một dạng trầm tích. Cho nên trong tư tưởng cũng có dạng
trầm tích như vậy. Nhưng nước ta lại sớm thống nhất, thống nhất dưới hình thức quận
huyện của chính quyền đô hộ rồi thống nhất thành quốc gia độc lập tạo ra điều kiện để dân
tộc hình thành sớm. Cho nên ý thức hệ cũng có dạng thống nhất. Sự thống nhất ở đây được
thực hiện đơn giản bằng cách kết hợp tư tưởng bản địa với tư tưởng Tam giáo, Âm dương,
Ngũ hành và các yếu tố khác.
2.
Tôi cho rằng Nho giáo là xương sống của khối liên kết đó. Rõ ràng là trong cái toàn thể mà
ta hình dung thì Nho giáo là một phần trong nhiều phần, thế nhưng nó là bộ phận then chốt,
quy định sự chọn lọc, sự sắp xếp vì nó là học thuyết thống trị, và hơn thế, nó thích hợp với
cơ chế chính trị – kinh tế – xã hội.
3.
Các vị anh quân và cả những nhà yêu nước lớn như Nguyễn Trãi chăm lo, phát triển Nho
giáo học, xây dựng Tư văn, tổ chức học hành thi cử, lo biên soạn quốc sử, khuyến khích
văn học… đều theo lời khuyên của thánh hiền, đều theo trị đạo của Nho giáo.


4.
Ta thường hiểu Nho giáo đơn giản, phiến diện, sách vở, coi nó chỉ là ngoại lai, theo quân
xâm lược phương Bắc vào, phục vụ cho chế độ phong kiến… dường như nó là công cụ
xâm lược, là chỉ có sức hấp dẫn những giai cấp thống trị cũ mà không thấy Nho giáo rất
thích hợp với cuộc sống hẹp, tự nhiên, đóng kín gia đình, họ hàng làng xã, rất thích hợp
với nông thôn, với nền sản xuất của hộ tiểu nông. Một cuộc sống có trên, có dưới, có tình
anh em bà con, láng giềng, cô bác kiểu gia đình êm ấm từ trong nhà cho ra đến làng, đến
nước ; một cuộc sống thái bình ổn định, an cư lạc nghiệp vốn rất hợp với lòng mong mỏi
của nông dân…
5.
Xã hội bình trị được đạt đến bằng lễ. Một thứ hoà mục làm mọi người vui vẻ, một tình cảm
êm đềm đằm thắm làm cảm hoá cả thiên nhiên đến hết cả thiên tai hạn hán, làm xúc động
tình cảm, đi vào âm nhạc thành tiếng hoà vui của câu ca, tiếng hát, đi vào nghi lễ thành cái
khoan hoà tiết tấu của hành vi cử chỉ.
6.
Ðạo đức Nho giáo là đạo đức của con người hình dung mình sống trong gia đình, gia tộc,
làng xóm, nước, thiên hạ, trời đất, một thế giới gồm những cộng đồng từ nhỏ đến lớn hình
dung theo mô hình gia đình mở rộng. Không chỉ thiên hạ bình mà thiên địa vị, vạn vật dục,
khí hoà tràn đầy khắp trời đất.
7.
Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hoá của ta đồ sộ, có những cống
hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn
giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ…
phát triển rất cao ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá thành đặc sắc văn hoá
của dân tộc đó. Ở ta thần thoại không phong phú – hay là có nhưng một thời gian nào đó
đã mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển. Người Việt
Nam không có tâm lý kiền thành, cuồng tín tôn giáo, mà cũng không say mê tranh biện
triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường là biến thành một lối thờ cúng, ít ai quan
tâm đến giáo lí. Không có một ngành khoa học, kĩ thuật, giả khoa học nào phát triển đến
thành có truyền thống. Âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ.

Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể,
cũng có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì lại không có.
Xã hội có trọng văn chương, nhưng cũng chưa bao giờ tôn ai là thi bá, và bản thân các nhà
thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thi ca. Chưa bao giờ trong lịch
sử dân tộc, một ngành văn hoá nào đó trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn
hoá.
8.
Hoàn cảnh dẫn ta đi theo con đường tiếp nhận, bắt chúng ta chỉ được nghĩ những chuyện
thực tế, dạy chúng ta cách ứng dụng nhanh chóng cái học được để ứng phó. Nhằm mục
đích thực tế, cha ông chúng ta đã lựa chọn những cái đã có sẵn, chấp nhận nó, không tính
cả chuyện những cái đó hoà hợp hay chống đối nhau, nhưng lại biết cách sử dụng cho có
ích không gây ra chống đối. Ðối với thực tế mà nhu cầu đặt ra chỉ như vậy kho Kinh, Tạng
của Tam giáo Trung Quốc là quá dư thừa, thậm chí là quá mênh mông, ít ai có điều kiện
học đủ.
9.
Nhìn vào lối sống, quan niệm sống, ta có thể nói người Việt Nam sống có văn hoá, người
Việt Namcó nền văn hoá của mình. Những cái thô dã, những cái hung bạo đã bị xoá bỏ để
có cái nền nhân bản. Tinh thần chung của văn hoá Việt Namlà thiết thực, linh hoạt, dung
hoà. Không có khát vọng để hướng đến những sáng tạo lớn mà nhạy cảm, tinh nhanh, khôn
khéo gỡ các khó khăn để tìm được sự bình ổn.
10.
Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái
huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự
vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình hợp lí. Áo quần, trang
sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh
lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải.
11.
Văn hoá truyền thống của ta là tốt đẹp. Và trong tương lai, biết đâu cái màu sắc dịu dàng,
tươi mát, cái không khí thanh bình của nó lại không phải là nơi cần tìm đến trong cuộc
sống căng thẳng của nền sản xuất hiện đại?

12.
Lược bỏ cũng có nghĩa là đơn giản hoá, sơ lược hoá. Thế nhưng làm như thế mà giảm bớt
đi được những cái tế toái, cứng nhắc, những cái trái tự nhiên, trái nhân đạo, vốn có nhiều
trong cách giải thích kinh điển Trung Quốc thì không phải là dở. Sự linh hoạt – không biết
nên giải thích là tinh thần trung dung của Nho giáo, tinh thần nhu đạo, bất tranh của Lão –
Trang, tinh thần hỉ xả, từ bi của Phật hay chỉ là tập quán chín bỏ làm mười bản địa – tất
nhiên là hạn chế lớn cho cách tư duy chính xác, hệ thống, nhất quán cần thiết để tìm chân
lí, để có tư duy khoa học, triết học. Nhưng trong điều kiện nhu cầu đơn giản, hoàn cảnh
căng thẳng thì như vậy thường lại có hiệu quả.
13.
Trong lịch sử học thuật của ta không có những nhà kinh học để cả cuộc đời tra cứu, biện
bác làm sáng tỏ nghĩa kinh điển mà cũng không có những nhà tư tưởng nhìn tổng quát cả
học thuật quá khứ để phê phán, đề xuất kiến giải riêng. Những người lỗi lạc, có tinh thần
tự hào dân tộc đều muốn phát triển Tư văn ở Việt Nam bằng cách đi theo và tiến kịp không
thua Trung Quốc chứ không phải phê phán nó để tìm cái của mình.
14.
Trong một xã hội mà quan tâm hàng đầu là giữ gìn sự ổn định, sự nhất trí đề phòng giặc
ngoài xâm lược, với một thể chế mà làng xã là thành lũy, với một nền sản xuất mà năng
suất dựa vào kinh nghiệm, sự cần cù, bàn tay khéo léo thì kĩ thuật không đòi hỏi nhiều
khoa học, khoa học không cần nhiều triết học. Nếu có những thời điểm mà có thể nói là
nóng bỏng, xuất hiện những nguy cơ xã hội như thế kỉ XIV, XVI, XVIII còn lại vang bóng
trong văn học thì cũng cũng không có điều kiện gì để nhìn thế giới theo một cách khác.
Với nhu cầu và điều kiện như thế đặt ra làm gì và ai đặt ra được vấn đề quan niệm thế giới
theo một cách khác?
15.
Người Việt Nam có thể coi là ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thế trần tục hơn thế
giới bên kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ tin có linh hồn, có ma quỷ,
Thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo cho con cho cháu
hơn là cho linh hồn của mình. Tuy là coi trọng hiện thế nhưng cũng không bám lấy hiện
thế, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi thác về). Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở

hữu không phát triển cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm
thời, tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ mãi mà hưởng được. Người ta mong
ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn cho no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông
con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là thiết thực, yên phận thủ thường,
không mong gì cao xa, khác thường, hơn người. Con người được ưa chuộng là con người
hiền lành, tình nghĩa. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dũng. Dân tộc chống ngoại
xâm liên tục nhưng không thượng võ. Ðâu đâu cũng có đền thờ những người có công đức
– chủ yếu là có công chống ngoại xâm – nhưng không một anh hùng xuất chúng, một võ sĩ
cao cường nào được lưu danh. Trong tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có
Tiên. Thần uy linh bảo quốc hộ dân và Bụt hay cứu giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép
lạ, ngao du ngoài thế giới thì xa lạ. Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn
khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn.
Ðối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng, chấp
nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chần chừ, dè dặt, giữ mình.
16.
Hiểu đúng cha ông là để khai thông cách suy nghĩ của người Việt Nam ngày nay, để dễ
tiếp cận với triết học hiện đại. Khuynh hướng «thiết thực» dễ làm nghiêng về duy vật hơn
là duy tâm, biện chứng hơn là siêu hình, song duy vật thô sơ, biện chứng tự phát (sự chiêm
nghiệm trực quan trong tục ngữ của ta). Người vận dụng tha hồ tùy tiện bàn chuyện của
mọi phạm vi lớn nhỏ (với trình độ hỗn tạp, chất phác). Do đó tư tưởng của ta vừa xa lạ cái
thần bí, vừa xa lạ cái duy lí.
17.
Ở phương Tây vấn đề Thượng đế sáng tạo thế giới và quyết định mọi việc được tôn giáo
khắc sâu vào tư tưởng, đè nặng lên con người, thành hòn đá lấp lối mọi tự do. Cho nên quá
trình duy tâm triết học hoá Thượng đế, hay duy vật phủ nhận sự sáng tạo thế giới đã cắm
những cái mốc cho việc mở rộng vương quốc của tự do, cho giải phóng con người, tìm ra
bản nguyên thế giới… Phương Ðông cũng có ý niệm Thiên Mệnh, Trời, khuyên kính Trời,
yên Mệnh. Song mối quan tâm chính là tu dưỡng đạo đức, trị nước nên con người «kính
quỷ thần nhi viễn chi». Khuynh hướng «thiết thực» này (nghĩa vụ làm người, làm dân) dồn
cả Trời và Mệnh vào một góc: Trời và Mệnh chỉ còn ý nghĩa bảo vệ quyền làm vua của

một dòng họ, quyền hưởng phú quý cho kẻ giàu sang. Thói quen gạt bỏ những cái «xa
vời», khó hiểu, xa lánh quỷ thần, không quan tâm đến thế giới linh thiêng làm cho con
người không bỏ mê tín song cũng không hứng thú cái thần bí, không tò mò và ít hoài nghi,
không say mê tìm hiểu những cái chưa biết, gạt bỏ những cái khác lạ. Chính vấn đề Tâm –
Vật, và trước kia là vấn đề Lý – Khí cũng thuộc loại bị gạt ra ngoài như vậy.
18.
Nho giáo tự chọn thái độ «trung dung», đứng ở chỗ «đúng mức» nhất, coi ai cũng có
nhược điểm «quá» và «bất cập» – ở mặt này hay mặt kia – tức ở những chỗ không thích
hợp của cái đó với thể chế xã hội có sẵn (chế độ chuyên chế – tông tộc), ví dụ như chê Mặc
vô phụ, chê Dương vô quân, chê Phật không quân thần phụ tử, chê tư tưởng phương Tây
quá chú ý vật chất… Tức các học thuyết khác cũng có chỗ «khả thủ», có thể lấy được,
chấp nhận được, lúc ở thế bí thì nó «lấy», vay mượn, bổ sung cho mình, ví dụ đối với
phương Tây thì «Ðông học vi thế – Tây học vi dụng». Trong xã hội Nho giáo hoá cái mới
bị cô lập, dần dần tha hoá và bị rút tỉa, bị Nho giáo nuốt mất trong đó cái khả thủ. Ở Việt
Nam từ thế kỉ XVII đã có sự tiếp xúc Ðông – Tây ở cả Ðằng Ngoài lẫn Ðàng Trong; các
chúa Trịnh – Nguyễn sớm nhận ra sự lợi hại của tàu và súng phương Tây, song tư tưởng
phương Tây thì không thể nào bám rễ. Ở Trung Quốc chủ nghĩa Mao đã hình thành trong
chính cái thế, trong cung cách Nho giáo nuốt học thuyết Mác, lấy cái khả thủ.
19.
Hán hoá đã thành một xu thế, một thực tế lâu dài trong lịch sử. Xu thế, thực tế đó làm cho
nước ta, cũng như Trung Quốc, ở những thế kỉ cuối rơi vào tình trạng trì trệ. Phi Hán hoá
không phải đã là một xu thế mạnh mẽ trong quá khứ mà là một yêu cầu cấp thiết của ngày
nay đòi hỏi tự ý thức, tự phê phán để giải phóng tư tưởng, để hiện đại hoá đất nước.
20.
Chúng ta đào tạo đội ngũ khoa học, kĩ thuật đông đảo. Nhưng trong điều kiện kinh tế phát
triển còn thấp, không có đủ cơ sở để sử dụng thì kĩ sư không phải là người hành nghề mà
thành cán bộ, sống bằng bằng cấp và danh vị… Thanh niên và các bậc phụ huynh lại toan
tính con đường chắc chắn: học cho có bằng cấp, vào biên chế sống dựa vào nhà nước kiếm
lộc, kiếm bổng. Chuẩn bị vào đời bằng trau dồi «tư cách» (đánh giá về đạo đức, vốn hoạt
động chính trị) và bằng bằng cấp chứ không phải bằng nghề nghiệp tự lập.

21.
Những con người, ông già và thanh niên, giống như những nhà nho xưa trà lá, lề mề và hay
nói suông, thiếu khả năng và quả quyết hành động thực tế, đầy thiện chí thương dân, yêu
nước mà cũng đầy ảo tưởng; theo ảo tưởng nên tính toán sai, đầy thiện chí nên tự tin, cố
chấp không những gây ra lùng nhùng mà giẫy dụa trong lưới lùng nhùng.
22.
Cái đáng phê phán ở Nho giáo là sự ngu trung với vua hay là ảo tưởng bình trị dưới chế độ
chuyên chế?
23.
Nho giáo bồi dưỡng nên một nhân vật văn hoá là nhà nho, với hình ảnh cụ thể là ông thầy
đồ, chăm lo học hành, coi trọng văn hoá, văn chương nhưng không phải là người làm học
thuật, người làm khoa học, người làm kĩ thuật, người làm nghệ thuật mà chỉ là người noi
gương thánh hiền, giữ đạo đức đến sống gò bó, ngụy thiện, lo học thuộc sách vở, mở
miệng là lời kinh sử, lấy nó bàn suông mọi chuyện trên đời.
24.
Nhà nho không phải là người tìm tòi khoa học kĩ thuật, vốn gắn liền với sản xuất, mà chỉ
có chức năng giáo hoá, giữ sự yên ổn (đức trị – hoà mục). Một chế độ phi sản xuất, phi
kinh doanh, chỉ sống bằng tô thuế, cần giữ yên chứ không phát triển thì nho thần lừng
khừng cũng được việc.
25.
Chỉ có những gia đình lớn nhỏ chứ không có xã hội, nhà nước. Không có con người mà
cũng không có công dân. Mọi người chỉ lo xử lí các quan hệ người trên và người dưới, tìm

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×