Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Luan van ai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.67 KB, 90 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Đoàn Thanh niên Cộng sản

ĐTNCS

Hệ thống chính trị

HTCT

Hệ thống chính trị cơ sở

HTCTCS

Hội Cựu chiến binh


HCCB

Hội đồng nhân dân

HĐND

Hội Nông dân

HND

Hội Phụ nữ

HPN

Mặt trận Tổ quốc

MTTQ

Nhà xuất bản

Nxb

Nông thôn mới

NTM

Ủy ban nhân dân

UBND


Xã hội chủ nghĩa

XHCN


2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ
VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở

BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
1.1 Một số vấn đề lý luận về vai trò của hệ thống chính trị

11

cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương
hiện nay
1.2 Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây

11

dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay –
thực trạng và nguyên nhân
Chương 2


34

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN

MỚI Ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
2.1 Phương hướng cơ bản phát huy vai trò của hệ thống

55

chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Bình
Dương hiện nay
2.2 Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò của hệ thống

55

chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Bình
Dương hiện nay
KẾT LUẬN

61
82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84

PHỤ LỤC


90


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với đặc thù từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH, trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề
nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X khẳng
định: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [18, tr.123]. Một
trong những nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi nhất trong giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay là xây dựng nông thôn mới. Đây là
nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng và phát triển
giai cấp nông dân, góp phần củng cố vững chắc khối liên minh công – nông –
trí trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quá trình xây dựng NTM ở nước ta hiện nay, bên cạnh mặt thuận lợi,
chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn đòi hỏi
phải phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; trong đó HTCT, nhất là HTCTCS
có vai trò rất quan trọng. Hệ thống chính trị cơ sở là nơi trực tiếp tuyên truyền
giáo dục, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong
đó có chủ trương, chính sách về xây dựng NTM đến với người dân; HTCTCS
cũng là nơi trực tiếp lãnh đạo, quản lý, tổ chức và vận động nhân dân, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng nông thôn mới. Thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới nói chung, của quá trình xây dựng NTM nói riêng ở
nước ta hiện nay luôn gắn liền với vai trò to lớn của hệ thống chính trị cơ sở.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là Chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM của Chính phủ, vai trò của HTCTCS tỉnh

Bình Dương nhìn chung đã được phát huy tích cực. Cấp uỷ đảng, chính quyền
cơ sở đã quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc
biệt là chủ trương, chính sách xây dựng NTM; bám sát đặc điểm tình hình


4
địa phương, xây dựng nghị quyết, xác định các chủ trương, biện pháp lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM chặt chẽ, kịp thời; phát
huy được vai trò của các tổ chức quần chúng, khơi dậy và phát huy tinh
thần làm chủ của nhân dân tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới. Nhờ
vậy, công tác xây dựng NTM ở Bình Dương đã đạt được những thành tựu
quan trọng; hệ thống hạ tầng cơ sở như: điện, đường, trường, trạm và các
thiết chế văn hóa, xã hội ở nhiều địa phương đã được củng cố theo hướng
văn minh, hiện đại; cơ cấu lao động, ngành nghề chuyển đổi nhanh theo
hướng tích cực; năng suất lao động và giá trị sản phẩm nông nghiệp ngày
càng được nâng cao; tăng thu nhập bình quân đầu người và mức sống của
người dân khu vực nông thôn
Tuy nhiên, quá trình xây dựng NTM ở Bình Dương, vai trò của HTCTCS
có lúc, có nơi vẫn chưa thực sự được phát huy đầy đủ; nhận thức, trách nhiệm
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức cơ sở về xây dựng NTM còn có
những hạn chế; hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo công tác quy hoạch một số nơi còn
chậm và thiếu đồng bộ; sản xuất nông nghiệp nhìn chung vẫn còn manh mún,
nhỏ lẻ; hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn một số địa phương chưa theo kịp với
yêu cầu phát triển; giải quyết một số vấn đề bức xúc trong nhân dân chưa kịp
thời và kém hiệu quả. Vì vậy, nghiên cứu vai trò của HTCTCS trong xây dựng
NTM ở Bình Dương hiện nay là vấn đề có tính cấp thiết.
Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Vai trò của hệ thống
chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Hệ thống chính trị nói chung, HTCTCS nói riêng và vai trò của nó trong
thời kỳ quá độ lên CNXH là một vấn đề chính trị - xã hội nổi bật hiện nay.
Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy,
đây là vấn đề được Đảng ta và các nhà khoa học hết sức quan tâm.


5
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vai
trò to lớn của HTCTCS trong thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội; trong giữ vững sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa
phương. Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Đảng
ta đã ra Nghị quyết chuyên đề Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị cơ sở xã, phường, thị trấn. Nghị quyết đã nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của
HTCTCS trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ
chức cuộc sống của cộng đồng dân cư; đánh giá khái quát thực trạng tình hình
thực hiện nhiệm vụ của HTCTCS; đồng thời chỉ ra những vấn đề cơ bản nhất
nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở.
Bên cạnh đó, nghiên cứu về HTCTCS ở các góc độ khác nhau còn có
các công trình khoa học như: Bộ Nội vụ, Viện Nghiên cứu khoa học tổ chức
Nhà nước, Hệ thống chính trị cơ sở thực trạng và một số giải pháp đổi mới,
do Tiến sĩ Chu Văn Thành (chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2004; TS Vũ
Hoàng Công, Hệ thống chính trị cơ sở đặc điểm, xu hướng và giải pháp,
Nxb CTQG, Hà Nội, 2002; Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Hệ thống chính
trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông dân miền núi vùng dân
tộc thiểu số, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002; Hoàng Chí Bảo, Hệ thống chính trị
ở nông thôn nước ta hiện nay từ nghiên cứu lý luận đến ứng dụng thực tiễn,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 6, 2002; Trần Đức Luân, Hệ thống chính trị cơ
sở tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay, Luận

văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2006; Đinh Văn Thành, Hệ thống chính trị cơ
sở tỉnh Đồng Nai đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo gây mất ổn định chính trị - xã hội hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học,
Hà Nội, 2009. Những công trình, đề tài khoa học trên đã đi sâu nghiên cứu
dưới những góc độ khác nhau của HTCTCS và bước đầu đã làm rõ về khái


6
niệm, đặc điểm, cấu trúc, vai trò của HTCTCS; chỉ ra những xu hướng vận
động chủ yếu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng và phát huy vai
trò của HTCTCS trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xây dựng NTM là nhiệm vụ nổi bật hiện nay; đây là vấn đề được Đảng ta
đặc biệt quan tâm, đồng thời thu hút nhiều nhà khoa học tham gia nghiên cứu.
Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn được
Đảng ta đề cập khá đậm nét qua các kỳ Đại hội của Đảng và được cụ thể
trong nhiều nghị quyết như: Nghị quyết Trung ương 2, Trung ương 4, Trung
ương 6 (lần 1), Trung ương 7 khoá VIII; Nghị quyết của Bộ chính trị
(11/1998) Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn; Nghị quyết
Trung ương 5 khoá IX Về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010; đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 7
khoá X (5/8/2008) Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã thể hiện rõ quá
trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối, chủ trương về
phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng NTM ở nước ta.
Nghiên cứu về nông thôn và NTM có các công trình khoa học như: Góp
phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam của Nguyễn Xuân Thảo, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2004; Mấy vấn đề về xây dựng nông thôn mới xã hội chủ
nghĩa của Tăng Nghiệp Tùng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007; Bàn về một số vấn
đề ở nông thôn nước ta hiện nay của GS Hồ Văn Thông, Nxb CTQG, Hà Nội,
2008; Phát triển nông thôn bền vững - Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm
thế giới do Trần Ngọc Ngoạn chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008;

Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình trì đô thị hoá của
PGS. TS Nguyễn Thị Thơm, Nxb CTQG, Hà Nội, 2009; Thực hiện dân chủ ở
nông thôn Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Tâm, Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội, 2009; Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng dài lâu
của Đảng và nhân dân ta của Hồ Xuân Hùng, Tạp chí Cộng sản, Số 818
(1/2011). Các tác giả trên đây đã đề cập và nghiên cứu khá cơ bản về nông thôn


7
Việt Nam, xây dựng được mô hình NTM, vai trò của HTCT ở nông thôn trong
xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện dân chủ ở nông thôn
hướng tới xây dựng thành công NTM XHCN ở nước ta.
Ngoài ra còn có các công trình: Tác động của tâm lý làng, xã trong việc
xây dựng đời sống kinh tế – xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ ở nước ta
hiện nay do Tiến sĩ Lê Hữu Xanh chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001; Để
nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững, nông dân giàu hơn, Nguyễn Tuấn
Dũng, Tạp chí Cộng sản, số 28 (10/2003); Các công trình trên đề cập đến nhiều
vấn đề khác nhau như đời sống vật chất, tinh thần, lối sống, phong tục tập quán,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân và các chính sách hỗ trợ, khuyến khích
nâng cao đời sống của người dân nông thôn trong quá trình CNH, HĐH đất
nước; Ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông thôn ngoại thành Hà Nội - Thực
trạng và giải pháp do tập thể tác giả Lê Du Phong, Nguyễn Văn Áng, Hoàng
Văn Hoà chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002. Công trình này đi vào nghiên
cứu những ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, quá trình phát triển CNH, HĐH
đến nông thôn trên một số địa phương cụ thể, đề xuất một số giải pháp nhằm
khắc phục sự ảnh hưởng đó đến xây dựng NTM. Các công trình khoa học như:
Phát triển nông thôn của Phạm Xuân Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1997; Con đường phát triển nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
đồng bằng sông Cửu Long nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học của
Nguyễn Minh Châu, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội, 2000; Chính sách nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XX và một số định hướng đến năm 2010 của tác giả Trần Ngọc Bút, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2002, đã nghiên cứu về nông thôn dưới góc độ kinh tế - xã hội,
dân số và kế hoạch hoá gia đình, lao động và tạo việc làm ở nông thôn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, sử dụng và quản lý tài nguyên đất và nước, sự
phân tầng xã hội và việc xoá đói, giảm nghèo...
Một số công trình nghiên cứu tổng hợp về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn như: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay


8
và mai sau của Đặng Kim Sơn Nxb CTQG, Hà Nội, 2008; Chính sách
phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân của Hunggari trong quá
trình chuyển đổi kinh tế và vận dụng cho Việt Nam do Lê Du Phong chủ
biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2010. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn trong nước và quốc tế, các tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa
nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong quá trình chuyển đổi kinh tế xã
hội ở Việt Nam. Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp,
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Lưu Văn Sùng,
Nxb CTQG, Hà Nội, 2004; Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau hai
mươi năm đổi mới - Quá khứ và hiện tại của Nguyễn Văn Bính, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2007; Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn kinh
nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, do tập thể các tác giả Phùng
Hữu Phú, Nguyễn Viết Thông, Bùi Văn Hưng chịu trách nhiệm biên soạn,
Nxb CTQG, Hà Nội. Những tác giả này đi sâu nghiên cứu dưới góc độ
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; từ những kinh nghiệm xây dựng
“tam nông” của Trung Quốc để tìm ra giải pháp xây dựng nông nghiệp,
nông dân và nông thôn Việt Nam.
Về xây dựng NTM ở Bình Dương, có các công trình: Xây dựng đời sống
văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ khoa học văn hóa của

Đỗ Khắc Điệp (1997), tập trung nghiên cứu lĩnh vực văn hóa nông thôn, nhằm
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc xây dựng đời sống văn hóa ở
nông thôn tỉnh Bình Dương; Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh
Bình Dương, Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử của Võ Thị Cẩm Vân (2008),
tác giả đi sâu vào nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
tỉnh Bình Dương; Nông thôn mới ở Bình Dương: Xây dựng theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, bài viết của Cao Sơn, Báo Bình Dương (16/08/2009),
tác giả bước đầu đi vào nghiên cứu và chỉ ra một số thực trạng xây dựng NTM
ở tỉnh Bình Dương dưới tác động của CNH, HĐH; Vai trò của nông dân tỉnh


9
Bình Dương trong xây dựng nông thôn mới hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học
của Cao Thanh Quỳnh (2011), tác giả đi sâu nghiên cứu vai trò chủ thể của
người nông dân trong xây dựng nông thôn mới .
Như vậy, đến nay đã có nhiều công trình, đề tài và bài báo khoa học
nghiên cứu về HTCTCS, về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và
xây dựng NTM được công bố. Song chưa có công trình nghiên cứu nào đề
cập đến Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở
Bình Dương hiện nay. Vì vậy, đề tài luận văn là công trình nghiên cứu độc
lập của tác giả, không trùng lặp với các công trình khoa học, luận án, luận
văn đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nhằm luận chứng những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
HTCTCS trong xây dựng NTM ở Bình Dương thời gian qua, từ đó đề suất
một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò của HTCTCS trong xây dựng
NTM ở Bình Dương hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận vai trò của HTCTCS trong xây dựng

NTM ở Bình Dương;
Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của HTCTCS trong xây dựng
NTM ở Bình Dương;
Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò của HTCTCS
trong xây dựng NTM ở Bình Dương hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Vai trò của HTCTCS trong xây dựng NTM ở Bình Dương.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu vai trò của HTCTCS trong xây dựng NTM ở tỉnh Bình
Dương từ năm 2005 đến nay.


10
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về HTCTCS, xây
dựng NTM và vai trò của HTCTCS trong xây dựng nông thôn mới.
* Cơ sở thực tiễn của luận văn
Thông qua các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ quan chức
năng, các tổ chức chính trị - xã hội, kết quả nghiên cứu thực tế của tác giả về thực
trạng vai trò của HTCTCS trong xây dựng NTM ở Bình Dương từ 2005 đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được xây dựng trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp
lôgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu
liên quan; các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: điều tra xã hội học,
tổng kết kinh nghiệm, xin ý kiến chuyên gia,… trong quá trình nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu để các cấp ủy

đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân ở địa
phương tham khảo trong quá trình xây dựng NTM hiện nay. Luận văn cũng có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa
học ở trường Chính trị của Tỉnh và khu vực Đông Nam Bộ.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


11
Chương 1
MỘ T SỐ VẤ N ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
trong xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay
1.1.1. Xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay
* Nông thôn và vấn đề xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay
Ở một nước với nền tảng kinh tế là một nền nông nghiệp lạc hậu đi
lên CNXH như nước ta, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn
chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ đường lối cách mạng
của Đảng. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn từ lâu đã có mối quan hệ
ràng buộc hữu cơ với nhau; là tiền đề, điều kiện cho nhau cùng vận động,
phát triển. Trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay,
nhận thức và đánh giá đúng vai trò của nông thôn và ý nghĩa của việc xây
dựng NTM đang là vấn đề thời sự và cấp thiết.
Nông thôn là địa bàn cư trú, sinh sống của nông dân với thiết chế theo cấu
trúc làng - xã; về mặt địa lý, đây là phần không gian không thuộc nội thành, nội
thị các thành phố, thị xã được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã.
Theo quan niệm truyền thống, nói đến nông thôn là nói đến làng - xã được bao

quanh bởi luỹ tre làng với quan hệ chính trị, kinh tế - xã hội đặc trưng bởi tính cố
thủ, khép kín, tự cung, tự cấp... Từ bao đời nay, làng - xã Việt Nam đã đóng vai trò
to lớn trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, làng - xã với tinh thần đoàn kết và cố kết cộng
đồng chặt chẽ, ý thức độc lập, tự chủ và lòng yêu nước sâu sắc đã là những pháo
đài kiên cố, chiến luỹ điệp trùng ngăn chặn bước tiến và đánh thắng kẻ thù xâm
lược. Trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, nhất là trị thuỷ, làng - xã cũng là nơi
huy động sức dân to lớn để hình thành nên hệ thống đê điều, kênh rạch chằng chịt


12
như ngày nay. Về phương diện sản xuất, nông thôn (làng - xã) cũng là nơi sản
sinh, lưu giữ và phát triển các ngành, nghề truyền thống có giá trị mà ngày nay
còn được bảo tồn, phát triển đóng góp tích cực cho công cuộc phát triển đất nước.
Cùng với quá trình tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam, làng - xã
Việt Nam cũng là nơi sản sinh và lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống
của dân tộc như: tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, ý chí tự lực, tự cường...
Nhiều thiết chế văn hoá tâm linh có giá trị như đình, chùa, miếu, đền... cũng
được xây dựng, lưu giữ, bảo tồn ở các làng quê Việt Nam. Bên cạnh đó, nông
thôn Việt Nam cũng giàu có về khía cạnh văn hoá phi vật thể. "Trong tất cả các
thôn, làng Việt Nam đều ẩn chứa một kho tàng quý báu các câu chuyện cổ tích,
chuyện ngụ ngôn, ca dao, tục ngữ, trường ca, dân ca..." [47, tr.165].
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay,
với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, nông thôn (chiếm hơn
70% dân số) là nơi sản xuất, thị trường tiêu thụ hàng hoá rộng lớn, giàu tiềm năng.
Mặt khác, nông thôn nước ta cũng là địa bàn chiến lược của thế trận phòng thủ
khu vực, của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Nông thôn Việt Nam trải qua hàng nghìn năm tồn tại, phát triển đã để
lại những giá trị lịch sử truyền thống quý báu, là cái nôi hình thành nên bản
sắc, diện mạo văn hoá dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến

và ách đô hộ của thực dân, đế quốc, bức tranh nông thôn Việt Nam cũng chứa
đựng những gam màu tối thể hiện bản chất của chế độ cũ mà hình ảnh người
nông dân "một cổ ba tròng" đã lột tả tất cả. Ngày nay, qua mấy chục năm xây
dựng xã hội mới, đời sống cư dân nông thôn đã được cải thiện đáng kể, những
tàn dư của nông thôn trong xã hội cũ đã phần nào được loại bỏ. Nhưng nông
thôn Việt Nam nhìn chung vẫn còn lạc hậu: sản xuất nhỏ, manh mún, kinh tế
tự cung, tự cấp là chủ yếu, hạ tầng cơ sở còn nhiều yếu kém, dân trí thấp, tình
trạng thiếu dân chủ, lối ứng xử gia trưởng còn tồn tại ở nhiều địa phương gây
bức xúc, khiếu kiện phức tạp, những hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội, mê tín dị


13
đoan vẫn còn tồn tại, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Để thực sự thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu và có một đời sống mới thì cần phải xây dựng một
nông thôn mới về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những ý tưởng về một NTM đã có từ lâu trong nhân dân ta. Đó là mơ
ước về một nông thôn bình dị, không có cường hào, ác bá, giảm sưu thuế, xoá
bỏ các hủ tục; một nông thôn trong đó người nông dân được làm chủ, tự do
sản xuất, sống trong tình làng, nghĩa xóm, lá lành đùm lá rách, tối lửa tắt đèn
có nhau. Một nông thôn như vậy chỉ có thể có được trong chế độ xã hội mới.
Sau ngày nước nhà giành độc lập, trăn trở lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là làm sao cho dân được tự do, hạnh phúc, mọi người có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành, chữa bệnh... Ở một nước với hơn 90% dân số là nông
dân thì dân thực chất chính là những người nông dân, những người mà cuộc
sống của mình gắn bó suốt đời với làng quê ở những vùng nông thôn. Vì vậy,
Người đã rất quan tâm đến đến xây dựng nông thôn mới. Theo Hồ Chí Minh,
xây dựng NTM trước hết phải xây dựng người nông dân mới - người nông dân
xã hội chủ nghĩa. Người dạy, muốn no cơm, ấm áo thì mọi người phải thi đua
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Nông dân phải cần kiệm xây dựng hợp tác
xã nông nghiệp cho tốt, cho vững. Muốn vậy phải chú ý: "Cán bộ ban quản trị

phải công bằng, dân chủ. mọi việc phải bàn bạc với xã viên, sổ sách, tiền của
phải rõ ràng, minh bạch. Xã viên phải đoàn kết chặt chẽ, vui vẻ sản xuất, coi
công việc hợp tác xã như công việc nhà mình" [34, tr.283].
Cùng với xây dựng người nông dân mới là xây dựng đời sống mới ở nông
thôn. Một trong những quan tâm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng đời
sống mới ở làng - xã khắp các vùng nông thôn. Theo Người, đời sống mới ở một
làng là: "Về văn hoá, phải cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm
của công dân. Về phong tục phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc, hút sách, bợm bãi,
trộm cắp. Phải tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau. Làm
cho làng mình thành một làng "phong thuần tục mỹ". Về vệ sinh, đường xá phải


14
sạch sẽ. Ao tắm giặt, giếng nước uống phải phân biệt và săn sóc cẩn thận. những
ao hồ không cần thì lấp đi cho đỡ muỗi; phải có cầu xia chung hoặc cầu xia riêng
từng nhà, đã khỏi hôi thối, ruồi nhặng lại có phân tốt" [33, tr.101].
Trong xây dựng NTM, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến công tác
xây dựng Đảng. Bởi vì, việc gì cũng phải có lãnh đạo thì mới thành công. Người
cho rằng: "Lãnh đạo dân chủ, đi sâu đi sát, mọi việc đều bàn bạc với xã viên, vì
vậy xã viên càng có tinh thần tập thể, tinh thần làm chủ nông thôn và càng hăng
hái lao động sản xuất" [34, tr.227]. Đề cập đến vấn đề lãnh đạo của Đảng ở nông
thôn, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: "Cái gốc trong việc lãnh đạo hợp tác xã vẫn là chi
bộ Đảng ở cơ sở. Chi bộ phải tăng cường hơn nữa việc đoàn kết nông thôn và
làm cho toàn thể xã viên, toàn thể nông dân phấn khởi, hăng hái tăn gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm, phát triển và củng cố hợp tác xã" [34, tr.415].
Để xây dựng NTM phải tổ chức thi đua; đây vừa là nội dung, vừa là biện
pháp xây dựng nông thôn mới. Người này thi đua với người khác; nhà này thi
đua với nhà khác; làng này thi đua với làng khác; đặc biệt cán bộ của làng phải
là người công bình, thạo việc, có thể làm gương cho dân làng, hy sinh lợi ích
riêng cho lợi ích chung. Phải tăng cường vai trò lãnh đạo của chi bộ nông thôn;

phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, của các cá nhân đảng viên,
đoàn viên. Làm được như vậy chúng ta sẽ ngày càng có nhiều vùng nông thôn
giàu có về vật chất, mạnh về tinh thần, những xóm làng văn minh, tiến bộ.
Những quan điểm về xây dựng NTM của Hồ Chí Minh là hết sức sâu sắc,
toàn diện và cụ thể; không chỉ vẽ nên một bức tranh giản dị, hiền hoà, tươi đẹp,
giàu tính nhân văn và bản sắc truyền thống nhưng cũng mang tính hiện đại về một
nông thôn Việt Nam thời kỳ mới, Hồ Chí Minh còn chỉ ra những biện pháp cụ thể
để xây dựng nông thôn mới. Những quan điểm ấy là cơ sở vững chắc để Đảng và
Nhà nước ta đề ra những chủ trương, chính sách xây dựng NTM hiện nay.
Thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thấm
nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng NTM, Đảng và Nhà nước ta đã nhận


15
thức rõ vai trò, tầm quan trọng chiến lược của nông thôn. Chúng ta không thể trở
thành một nước công nghiệp nếu nông thôn nước ta còn lạc hậu, kém phát triển.
Vì vậy, xây dựng NTM là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển đất
nước. Trong đó, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa là nội dung, vừa là yêu
cầu của xây dựng nông thôn mới. Ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã xác định: "Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, có đời sống
văn hoá phong phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được
những nhu cầu cơ bản của nông dân, có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy
dân chủ, đảm bảo công bằng xã hội. Tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị
trong nông thôn, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh"
[16, tr.60]. Để tiếp tục giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở
nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, ngày 05/8/2008, Ban Chấp hành
Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW Về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Nghị quyết đã xác định: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,
gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy

hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường” [18, tr.126].
Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết trên của Đảng, Chính phủ
đã ra Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương khóa X "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn". Sau
đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM kèm theo
Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 bao gồm 19 tiêu chí với 5 nhóm
nội dung; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 Phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 với các mục


16
tiêu cụ thể đến năm 2015 có 20% số xã và đến năm 2020 có 50% số xã đạt
tiêu chuẩn nông thôn mới. Theo đó, Chính phủ đã triển khai thực hiện xây
dựng 11 xã điểm ở các vùng miền khác nhau, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm,
nhân rộng mô hình trong cả nước, đồng thời phát động phong trào thi đua “Cả
nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Như vậy, thông qua những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, quan niệm về NTM ở nước ta đã được hình thành trên những nét cơ
bản. Đó là một nông thôn với làng - xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời
sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; bản sắc văn
hóa và truyền thống dân tộc, làng quê được giữ gìn và phát triển; hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, xã hội nông thôn ổn định, dân trí cao, quyền
làm chủ của người dân không ngừng được phát huy.
* Xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay
Đặc điểm tỉnh Bình Dương
Về tự nhiên, Bình Dương là tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ, diện
tích tự nhiên 2.695,22 km2, phía bắc giáp Bình Phước, phía Nam và Tây Nam

giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Tây giáp Tây Ninh, phía Đông giáp Đồng
Nai. Địa hình Bình Dương tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Bắc xuống Nam.
Đất đai Bình Dương đa dạng, phong phú về chủng loại, bao gồm các loại như:
đất xám, đất nâu vàng, đất dốc tụ trên phù sa cổ phù hợp với nhiều loại cây
trồng, nhất là cây công nghiệp và cây ăn trái. Khí hậu ở Bình Dương là khí hậu
nhiệt đới gió mùa ổn định, trong năm phân chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô
và mùa mưa. Tài nguyên, khoáng sản ở Bình Dương khá phong phú với nhiều
loại gỗ quý của rừng nhiệt đới như: căm xe, sao, trắc, gõ đỏ, cẩm lai, giáng
hương,... và các loại khoáng sản như: đất cao lanh, đất sét trắng, đất sét màu, sạn
trắng, đá xanh,… thuận lợi cho việc cung cấp nguyên liệu cho các nghề truyền
thống như: mộc, gốm sứ, điêu khắc, sơn mài…


17
Về kinh tế - xã hội, Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, cùng với Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu tạo
thành tứ giác kinh tế. Hiện nay, Bình Dương có 1 thành phố, 2 thị xã, 4 huyện,
91 xã, phường, thị trấn, trong đó có 60 xã thuộc khu vực nông thôn. Dân số
1.497.117 người, mật độ dân số 555 người/km2, có 15 dân tộc sinh sống, trong
đó đông nhất là người Kinh, sau đó đến người Hoa và Khơ Me. Với vị trí địa lý
thuận lợi, Bình Dương được xem là cửa ngõ vào Thành phố Hồ Chí Minh, thông
thương giữa trung tâm công nghiệp đô thị lớn với các tỉnh miền Đông Nam bộ
và Nam Tây Nguyên. Từ khi tái thành lập Tỉnh đến nay, kinh tế Bình Dương đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng hàng năm gấp đôi bình
quân cả nước. Bình Dương hôm nay đang là một điểm sáng trên bản đồ kinh tế
đất nước với những thành tựu nổi bật về đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về văn hoá, truyền thống, Bình Dương là vùng đất của nhiều làng
nghề truyền thống với các nghệ nhân bàn tay vàng điêu khắc gỗ, làm đồ
gốm và tranh sơn mài. Từ lâu, các sản phẩm gốm mỹ nghệ, sơn mài và điêu
khắc của Bình Dương đã tham gia hội chợ quốc tế, đồng thời cũng đã xuất

khẩu sang Pháp và nhiều nước trong khu vực. Trong kháng chiến, Bình
Dương cũng là địa phương có truyền thống cách mạng, vùng đất chiến
trường năm xưa gắn liền với những chiến thắng vang dội của dân tộc ta.
Quan niệm về xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay
Cùng với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH của Tỉnh, nông nghiệp, nông thôn
Bình Dương cũng phát triển nhanh theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, nông thôn Bình
Dương nhìn chung vẫn còn là một nông thôn lạc hậu, nhất là những xã vùng xa
trung tâm. Thực tế đó đòi hỏi phải đặt vấn đề xây dựng NTM thành nhiệm vụ chính
trị quan trọng hàng đầu, có như vậy mới có thể sớm đưa Bình Dương thành đô thị
hiện đại, văn minh, giàu đẹp, thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2020.
Quyết tâm xây dựng NTM của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Bình
Dương được thể hiện rõ thông qua những chủ trương, chính sách và việc làm cụ


18
thể. Ngay sau khi Trung ương ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, Tỉnh ủy Bình Dương
đã ban hành Chương trình hành động số 77-CTHĐ/TU, ngày 15/10/2008. Sau đó,
chính quyền các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội đã xây dựng các chương
trình, kế hoạch cụ thể theo yêu cầu nhiệm vụ để thực hiện. Trên cơ sở những nội
dung tiêu chí xây dựng NTM của cả nước trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn
mới do Chính phủ ban hành, xuất phát từ đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội,
văn hoá của Tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành Bộ tiêu chí xã nông thôn mới tỉnh Bình
Dương. Đồng thời thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010 – 2020; phê duyệt
12 xã thực hiện thí điểm xây dựng NTM (sau một số lần điều chỉnh, đến nay Bình
Dương chọn 30/60 xã xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015, trong đó có 5 xã điểm
hoàn thành vào năm 2013); lập Báo cáo hiện trạng nông thôn theo Bộ tiêu chí
quốc gia về nông thôn mới. Báo cáo đã xác định nội dung, nhiệm vụ xây dựng
NTM tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010 – 2020, định hướng đến năm 2030 trên các
nội dung, nhiệm vụ cụ thể như sau:

Thứ nhất, vấn đề quy hoạch, song song với việc triển khai thực hiện,
quản lý tốt các quy hoạch đã được phê duyệt, tập trung tiến hành quy hoạch
phát triển nông thôn cấp xã, từng xã trong quy hoạch sử dụng đất, phát triển
sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng, làng nghề, cụm công nghiệp. Các khu dân
cư phải được quy hoạch trước theo vùng để cơ sở hạ tầng phát huy tác dụng,
đồng thời đảm bảo được nét văn hóa truyền thống.
Thứ hai, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tiếp tục bổ sung
các nội dung của đề án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn cho phù
hợp với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, trong đó tập trung
vào các lĩnh vực chủ yếu: đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các công trình
thủy lợi, kiên cố hóa kênh mương đảm bảo phục vụ tưới cho sản xuất nông nghiệp
và tiêu thoát nước công nghiệp, đô thị; đầu tư phát triển hệ thống đường giao
thông nội đồng, tạo thuận lợi trong vận chuyển vật tư nông nghiệp và lưu thông
hàng hóa nông sản, chuyển đổi cơ cấu sản xuất.


19
Thứ ba, phát triển sản xuất hàng hóa và các hình thức tổ chức sản xuất,
chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao năng suất, chất
lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập. Gắn sản xuất
với công nghiệp chế biến. Tập trung phát triển, nâng cao tỷ trọng chăn nuôi theo
hướng công nghiệp, từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính
trong cơ cấu ngành nông nghiệp của Tỉnh. Ổn định cơ bản quy hoạch vùng
chuyên canh và đất sản xuất nông nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ cho nông dân
mở rộng sản xuất, hình thành các trang trại, doanh nghiệp trong nông nghiệp; tạo
điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết đầu ra cho nông sản; định hình được vị
thế, xây dựng thương hiệu và quảng bá cho sản phẩm nông sản chủ lực. Xây
dựng và phát triển các mô hình hợp tác xã, tổ kinh tế hợp tác, liên kết trang trại.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội theo phương châm xã hội hóa, tạo ra bước phát triển đột phá về hạ

tầng kinh tế - xã hội theo hướng văn minh, hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội toàn diện trên địa bàn. Tiếp tục thu hút đầu tư trong và
ngoài nước để phát triển công nghiệp trên địa bàn nông thôn làm nền tảng cho
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nhất là những ngành công nghiệp
chế biến nông sản, công nghiệp dùng nguyên liệu tại chỗ.
Thứ năm, về cơ chế, chính sách huy động nội lực, tiếp tục thực hiện
tốt các chính sách thu hút đầu tư, xã hội hóa, tín dụng, thương mại, thuế,…
để tạo điều kiện hỗ trợ đầu vào cho các thành phần kinh tế trong khu vực
nông nghiệp, nông thôn. Phát triển mạng lưới tín dụng, cải tiến thủ tục cho
vay, tăng cường vốn vay trung và dài hạn cho khu vực nông nghiệp, nông
thôn. Các chính sách thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia cầm để từng bước đưa
chăn nuôi trở thành ngành chính trong cơ cấu nông nghiệp; khuyến khích
kinh tế trang trại và kinh tế tập thể phát triển; hỗ trợ phát triển các hình thức
liên kết bốn nhà trong sản xuất và tiêu thụ nông sản.


20
Như vậy, xây dựng NTM ở Bình Dương hiện nay là tổng thể các
hoạt động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể nhằm phát triển toàn
diện các lĩnh vực của đời sống xã hội nông thôn trên địa bàn tỉnh theo
hướng hiện đại: sản xuất phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả kinh tế - xã
hội cao, giữ gìn và phát huy được những giá trị văn hoá truyền thống tốt
đẹp, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của cư dân, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,
quốc phòng – an ninh được bảo đảm vững chắc.
1.1.2. Hệ thống chính trị cơ sở và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
trong xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay
* Hệ thống chính trị cơ sở và đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở
tỉnh Bình Dương trong xây dựng nông thôn mới
Quan niệm về hệ thống chính trị cơ sở

Ở nước ta, khái niệm HTCT lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Đến nay, khái niệm này đã
được sử dụng phổ biến trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật của
Nhà nước. Theo quan đỉểm của Đảng ta, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ
nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh,... và cơ chế hoạt động của các tổ chức đó nhằm từng bước xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong HTCT bốn cấp ở nước ta, HTCTCS, còn được gọi là HTCT xã,
phường, thị trấn là cấp thấp nhất. Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ cơ sở
được hiểu theo nghĩa là cái làm nền tảng để dựa vào đó hay từ đó để tồn tại,
phát triển. Vận dụng vào nghiên cứu HTCT ở nước ta, HTCTCS được hiểu là


21
đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức
thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh...
Xét về mặt cấu trúc, HTCTCS là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các
thiết chế chính trị như: tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cơ sở, MTTQ và các
đoàn thể nhân dân. Các tổ chức này có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Mỗi
thành tố hợp thành trong HTCTCS có vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, song
đều vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, quản lý, phát
huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và quyền làm chủ của nhân dân .
Tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ, chi bộ cơ sở), là nền tảng của Đảng, hạt
nhân chính trị ở cơ sở, là lực lượng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện các lĩnh
vực của đời sống xã hội ở địa phương. Theo điều lệ Đảng quy định, tổ chức
cơ sở đảng có chức năng lãnh đạo thực hiện đường lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở, đề ra chủ trương, nghị quyết lãnh
đạo nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và chi bộ, lãnh đạo xây dựng chính
quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng - an ninh và
các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch vững mạnh; chấp hành nghiêm
pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, liên hệ mật thiết với
nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng, thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra việc thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiểm tra tổ chức đảng,
đảng viên chấp hành điều lệ Đảng.
Chính quyền cơ sở, bao gồm: HĐND và UBND xã, phường, thị trấn.
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.


22
Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương.
Đồng thời, phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa phương. Hôi đồng nhân
dân có hai chức năng cơ bản là quyết định những vấn đề quan trọng và giám
sát trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở.
Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật và
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Ủy Ban nhân dân có chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước toàn diện trên địa
bàn, tổ chức thực hiện những nghị quyết và quyết định của HĐND cùng cấp.
Các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở, bao gồm: MTTQ, ĐTNCS Hồ Chí
Minh, HPN, HND, HCCB,... có chức năng chủ yếu là tập hợp, củng cố, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự nhất trí về chính trị - tinh thần trong

nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ thực sự của
mình trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp
và pháp luật của Nhà nước trên địa bàn; bảo vệ, đại diện cho quyền lợi và ý chí
của quần chúng, đại diện cho họ trong việc tham gia xây dựng và giám sát
đảng, chính quyền, tập hợp những kiến nghị của nhân dân để phản ánh với
đảng và cơ quan nhà nước cấp trên; chăm lo, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ
chính đáng của nhân dân. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay trước yêu cầu của
quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, MTTQ còn có một chức năng quan trọng đó là chức
năng phản biện xã hội, thông qua việc thực hiện chức năng này MTTQ thực
hiện quyền giám sát việc đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức thực
hiện các mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và trong thực hiện dân
chủ XHCN ở cơ sở của tổ chức đảng, chính quyền địa phương đúng hay sai,
hiệu quả hay không hiệu quả. Từ đó, kiến nghị với tổ chức đảng, chính quyền
cơ sở điều chỉnh cho phù hợp.


23
Như vậy, hệ thống chính trị cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
trị ở nước ta, bao gồm: tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ, chi bộ cơ sở), chính
quyền cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh,... được tổ chức chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau, hoạt động theo
nguyên tắc nhất định, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
chính quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương trong xây
dựng nông thôn mới hiện nay
Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng NTM, hoạt động của
HTCTCS tỉnh Bình Dương có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động trong

điều kiện Tỉnh có tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh.
Sau khi tái lập tỉnh (01/01/1997), Bình Dương được đánh giá là một
trong những địa phương dẫn đầu cả nước về tốc độ phát triển công nghiệp,
một điểm sáng về chính sách phát triển kinh tế - xã hội; giá trị sản xuất
công nghiệp tăng bình quân 20% hàng năm. Tính đến thời điểm cuối năm
2010, toàn Tỉnh có 28 khu công nghiệp và 8 cụm công nghiệp tập trung,
với diện tích gần 9.351 ha (gấp 2,7 lần năm 2005), hơn 1200 doanh nghiệp
hoạt động (gấp 1,8 lần năm 2005), tỷ lệ cho thuê đất bình quân đạt 60%
[12, tr.37-39]. Cùng với sự phát triển của công nghiệp, đô thị hoá ở Bình
Dương cũng diễn ra nhanh chóng. Toàn Tỉnh hiện có 112 dự án đầu tư khu
dân cư, nhà ở thương mại, với tổng diện tích 6.253 ha; trong đó, có 28 dự
án cơ bản đã hoàn chỉnh, 38 dự án đang xây dựng hạ tầng kỹ thuật, 46 dự
án đang đền bù giải toả. Đến nay, tỷ lệ đô thị hoá toàn Tỉnh ước đạt 45%
[12, tr.45]. Công nghiệp hoá và cùng với nó là đô thị hoá diễn ra nhanh
chóng đã tác động to lớn (cả tích cực và tiêu cực) đến tình hình kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội toàn Tỉnh, nhất là các vùng nông thôn, nơi mất
đất sản xuất cho các khu công nghiệp và đô thị mọc lên.


24
Thứ hai, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động trong điều
kiện Tỉnh là địa phương đa tộc người, dân số tăng nhanh do tỉ lệ nhập cư cao.
Nằm ở khu vực Đông Nam Bộ với điều kiện tự nhiên thuận lợi cả về
thời tiết khí hậu và đất đai thổ nhưỡng, Bình Dương là điểm đến và dừng chân
của những dòng người di cư từ nhiều vùng, nhiều dân tộc khác nhau trên khắp
cả nước. Quá trình đó diễn ra một cách tự nhiên trong suốt hơn 300 năm qua,
từ khi vùng đất này được khai phá. Hiện nay, Bình Dương là địa bàn sinh
sống của 15 tộc người. Bên cạnh những tộc người được coi là bản địa như
Stiêng, Mạ, Châu Ro, còn có các tộc người khác di cư đến như: Kinh, Hoa,
Khơ Me, Tày, Chăm, Nùng, Mường...

Do kinh tế phát triển nhanh, nhất là công nghiệp, trong thời gian qua,
Bình Dương thu hút nhiều dân nhập cư từ các địa phương khác đến. Kết quả
điều tra dân số năm 2010 cho thấy: Trong 5 năm (2005 – 2010), dân số tỉnh
Bình Dương đã tăng gấp đôi, là tỉnh có tốc độ tăng dân số cao nhất nước với
tỷ lệ tăng trung bình 7,3%/năm. Sự đa dạng về thành phần tộc người và tăng
dân số nhanh là những yếu tố tác động không nhỏ đến công tác quản lý và
thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, nhất là ở cấp cơ sở.
Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động
trong điều kiện Tỉnh có nhiều xã mới thành lập.
Theo xu thế chung của cả nước, để thuận lợi cho tập trung đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; mặt
khác, do yêu cầu quản lý xã hội ở cơ sở trong điều kiện dân số tăng nhanh,
Bình Dương cũng diễn ra quá trình chia tách, sát nhập và thành lập nhiều đơn
vị hành chính mới ở cả cấp trên cơ sở (huyện, thị) và cấp cơ sở (xã, thị trấn,
phường). Từ năm 2004 đến nay, đã có 7/91 đơn vị hành chính cấp cơ sở được
thành lập mới, trong đó có 5 xã thuộc các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu
Tiếng. Việc thành lập các đơn vị hành chính cấp cơ sở mới, một mặt tạo điều
kiện thuận lợi cho quản lý xã hội và thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế - xã hội


25
trên địa bàn; mặt khác lại gây khó khăn cho việc ổn định, sắp xếp và kiện toàn
HTCTCS, nhất là công tác xây dựng nguồn cán bộ chủ chốt ở cơ sở.
Thứ tư, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động trong điều kiện
Đảng bộ, Chính quền và nhân dân địa phương có bề dày truyền thống cách mạng.
Bình Dương là miền đất giàu truyền thống cách mạng. Đây là vùng đất
chiến trường năm xưa với những địa danh đã đi vào lịch sử như Phú Lợi, Bàu
Bàng, Bến Súc, Lai Khê, Nhà Đỏ và đặc biệt là chiến khu Đ với trung tâm là
huyện Tân Uyên. Trong kháng chiến Bình Dương là địa bàn quan trọng chiến
lược về mặt quân sự, là căn cứ địa quan trọng của cách mạng. Chiến khu Đ đi vào

lịch sử Bình Dương và cả nước như một huyền thoại về bảo vệ lực lượng kháng
chiến trong chiến tranh. Tên gọi Chiến khu Đ gắn liền với những chiến thắng vang
dội trong lịch sử chống ngoại xâm của quân và dân miền Đông Nam bộ. Tiếp tục
phát huy truyền thống cách mạng trong kháng chiến, ngày nay, trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng bộ,
quân và dân Bình Dương đã và đang giành được những thành tựu to lớn cả
về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng được cả nước ngưỡng mộ.
Thứ năm, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Dương hoạt động trong
điều kiện chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở không đồng đều, trình độ lý
luận và chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế.
Hiện nay, trình độ văn hoá, lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách trong HTCTCS tỉnh Bình Dương còn
nhiều bất cập. Theo báo cáo thống kê của Sở Nội vụ (tháng 6 năm 2010),
toàn Tỉnh có 951 cán bộ chuyên trách cấp xã. Trong đó, về trình độ văn hoá
có: 18/951 (1,89%) có trình độ tiểu học, 165/951 (17,35%) có trình độ
trung học cơ sở, 768/951 (80,76%) có trình độ trung học phổ thông; về
chuyên môn nghiệp vụ có: 477/951 (50,16%) chưa qua đào tạo, 55/951
(5,78%) sơ cấp, 255/951 (26,82%) trung cấp, 7/951 (0,75%) cao đẳng,


×