Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN-Một số biện pháp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ năng lực công tác cho đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.09 KB, 31 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
BỒI DƯỠNG CMNV, NLCT CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Bước vào thế kỷ IXX, bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn, vừa
đặt ra những thách thức không nhỏ cho giáo dục nước ta. Sự đổi mới và phát triển giáo
dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, tạo cơ hội tốt để giáo dục Việt Nam nhanh chóng
tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những cơ sở lí luận, phương thức tổ chức, nội
dung giảng dạy hiện đại và vận dung các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển.
Giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 5 năm đổi mới và thu được những thành quả
quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở
vật chất cho nhà trường. Trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng giáo dục bước đầu
có những chuyển biến đáng kể.
Giáo dục tiểu học là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, do vậy
giáo viên tiểu học có vị trí, vai trò quan trọng. Giáo viên tiểu học là người góp phần
quyết định trong việc thực hiện hoạt động dạy và học có chất lượng. Hoạt động của
giáo viên tiểu học ở trong và ngoài nhà trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt
văn hóa và đời sống ở địa phương, đặc biệt ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục tiểu học thì trước
hết phải chăm lo chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.
Giáo dục nước ta đang bước vào thời kì đổi mới chương trình giáo dục phổ thông,
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi giáo viên tiểu học có
những yêu cầu mới về phẩm chất đạo đức và năng lực nghề nghiệp. Việc nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên tiểu học cần phải gắn với công tác bồi dưỡng ( hoặc đào tạo
lại) để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nơi các nhà giáo đang công tác. Vì vậy
mà người cán bộ quản lí nhà trường phải thường xuyên chú ý đến công tác bồi dưỡng
nâng cao trình độ lí luận, nghiệp vụ của giáo viên.
Để thực hiện mục tiêu giáo dục đến năm 2010, thủ tướng chính phủ đã kí quyết
định số 201/ 2001/ QĐ – TTg ngày 28/ 12/ 2001 phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo
dục 2001 – 2010” và chỉ rõ “ Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo


dục là một trong bảy nhóm giải pháp lớn”. Bộ giáo dục cũng có văn bản chỉ đạo “ Tăng
cường quản lí chất lượng đối với hoạt động giáo dục và đào tạo” , “ Tăng cường quản lí
chất lượng đối với hoạt động giáo dục. Coi việc đánh giá chất lượng là nhiệm vụ quan
trọng nhất của công tác quản lí giáo dục” ( Chỉ thị số 25/ 2004/ CT – BGD&ĐT, ngày
02/ 8 / 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm học 2004 – 2005 của Bộ GD – ĐT).
Năm học 2008 -2009 là năm học thứ 2 tham gia cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và là năm học đầu tiên bộ Giáo dục và Đào tạo
phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì
việc học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác
của giáo viên lại càng vô cùng cần thiết đối với mỗi người giáo viên và cán bộ quản lý.

1


Hằng năm nhà trường vẫn thực hiện đầy đủ nhiệm vụ trong năm học nhưng chất
lượng giáo dục chưa cao và có phần giảm sút. Trong đó có nhiều nguyên nhân: Một
trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thấp là do chất lượng đội ngũ giáo viên.
Là một cán bộ quản lí nhiều năm, nằm trong mạng lưới chuyên môn của PGD,
tôi đã có dịp gặp gỡ,tiếp xúc, trao đổi và dự giờ với nhiều giáo viên trong Huyện. Tôi
nhận thấy đội ngũ giáo viên trường mình còn nhiều hạn chế, vì vậy tôi đã chọn đề tài: “
Một số biện pháp quản lí, bồi dưỡng, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác cho
đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy” với mong muốn trao đổi với
các đồng nghiệp, các cán bộ quản lý ở đơn vị trường Tiểu học, hy vọng rằng sẽ tìm ra
các giải pháp để bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác cho đội
ngũ giáo viên. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, hiệu quả công tác.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất một số biện pháp quản lí, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên. Thúc đẩy và phát huy năng lực của giáo viên
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Góp phần thực hiện nghị quyết 40/ 2000/
QH 10, ngày 09/ 12/ 2000 của Quốc hội khoá X: “ …nâng cao chất lượng giáo dục thế

hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước…”
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
* Đối tượng: Biện pháp quản lí, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực
công tác cho đội ngũ giáo viên ở trường TH ...................
* Khách thể: Đội ngũ giáo viên trường TH .....................
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
4.1. Nghiên cứu cơ sở khoa học của việc bồi dưỡngchuyên môn nghiệp vụ, năng
lực công tác cho đội ngũ giáo viên.
4.2. Tìm hiểu thực trạng về chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác của đội
ngũ giáo viên trường TH .....................
4.3. Đề xuất và tổ chức thực nghiệm một số biện pháp quản lí, chỉ đạo việc bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác cho giáo viên.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc sách, văn bản để thu thập tư
liệu, thông tin các vấn đề liên quan về công tác quản lí bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực công tác cho đội ngũ giáo viên ở trường tiểu học.
5.2.Phương pháp quan sát: Dự giờ giáo viên để đánh giá chất lượng
giảng dạy và kết quả học tập của học sinh ở các khối lớp quan tâm nghiên cứu.
5.3.Phương pháp điều tra:
+ Đối tượng: CB, GV và học sinh trường TH .................
+ Địa bàn: Trường TH ........... – xã ........ – huyện .......... – Tỉnh ............
+ Nội dung: Gặp gỡ, trao đổi, nghiên cứu hồ sơ và bài thu hoạch, tài liệu
tự học của GV và HS.
5.4.Phương pháp thống kê: Thống kê những hồ sơ trong nhà trường,
thống kê chung về các hoạt động giáo dục qua từng năm học từ năm học 2006 –
2007 đến học kì I năm học 2008 – 2009.
5.5.Phương pháp thực nghiệm khoa học: Lập kế hoạch cụ thể bồi dưỡng
một số giáo viên trong trường và đánh giá kết quả.

2



5.6.Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm: Tổng kết những kinh nghiệm
về bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác cho đội ngũ giáo viên.
6. PHẠM VỊ THỰC HIỆN VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
Nguyên nhân dẫn đến chất lượng của nhà trường không cao thì rất nhiều nhưng
trong đề tài này chúng tôi chỉ đề cập một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến
chất lượng của nhà trường là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên.
Đề tài được nghiên cứu và áp dụng tại trường TH ............. từ năm học 2005 –
2006 đến 2008- 2009, nên những biện pháp chúng tôi đề xuất chưa mang tính khái quát
có thể áp dụng ở tất cả các trường. Tuy nhiên chúng tôi hy vọng những biện pháp đề
xuất trong đề tài này có thể áp dụng ở tất cả các trường có hoàn cảnh tương tự.
7. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
- Tháng 9/ 2005 - 12/2005: Rà soát lại chất lượng đội ngũ giáo viên trường TH ..........
- Tháng 1/ 2006 - 3/ 2006: Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
- Tháng 4/ 2006 – 5 / 2006: Tìm hiểu cơ sở khoa học giáo dục của đề tài nghiên cứu,
một số khái niệm liên quan trong đề tài. Các nội dung chủ yếu về công tác bồi dưỡng
chuyên môn nghệp vụ, năng lực công tác.
- Tháng 6/ 2006: Nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp quản lí, chỉ đạo thực hiện.
- Tháng 7/ 2006: Xây dựng đề cương sơ lược cho đề tài.
- Tháng 8/ 2006: Aùp dụng việc phân công phù hợp mà mình đã nghiên cứu vào thực tế
việc phân công chuyên môn đầu năm trong nhà trường.
- Tháng 9/ 2006 – 4/ 2007: + Lập kế hoạch và tiến hành bồi dưỡng từng
đối tượng giáo viên.
+ Xem xét và quản lí việc tự học, tự bồi
dưỡng của giáo viên.
+ Rút ra các biện pháp quản lí, bồi dưỡng
hiệu quả.
- Tháng 5/ 2007 – 6 /2007: Kiểm tra, đánh giá kết quả bồi dưỡng và điều chỉnh, bổ
sung cho phù hợp để áp dụng năm sau.

- Tháng 7/ 2007: Xây dựng đề cương chi tiết.
- Tháng 8/ 2007: Tiếp tục điều chỉnh việc phân công và áp dụng thực triễn. Rút ra
những kinh nghiệm trong phân công.
- Tháng 9/ 2007 – 8/ 2008: Aùp dụng các biện pháp, kinh nghiệm đã tích luỹ được vào
trong việc bồi dưỡng, quản lí.
- Tháng 8/ 2008: Tiếp tục điều chỉnh việc phân công và áp dụng thực triễn. Rút ra
những kinh nghiệm trong phân công.
- Tháng 9/ 2008 – 12/ 2008: Từng bước xây dựng đề tài. Tổng hợp các số liệu, kết quả
đạt được qua từng năm học.
- Tháng 01/ 2009: Hoàn thành đề tài.
o0o

PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương 1.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.
3


1. Cơ sở lí luận:
1.1.Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Vấn đề đội ngũ luôn được Đảng, nhà nước và toàn xã hội quan tâm hàng đầu.
Trong dân gian thường có câu: “ Không thầy đố mày làm nên” và hình ảnh người thầy
được nhân dân nói đến một cách trân trọng trong hai câu ca dao sau:
Muốn sang thì bắt cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu mến thầy.
Điều 63 của luật giáo dục có ghi rõ: “ Một nhà giáo có nhiệm vụ không ngừng
học tập, rèn luyện để nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
nêu gương tốt cho người học”. Từ điều 63 đến điều 72 đã quy định các điều kiện để
phát triển giáo dục , trong đó đặc biệt lưu ý và nhấn mạnh các điều kiện về đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lí.

Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nêu chủ trương:
“ …đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục đủ sức, đủ tài cùng với
đội ngũ nhà giáo và toàn xã hội chấn hưng nền giáo dục nước nhà” và “ chú trọng việc
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống của nhà giáo”.
Nhà giáo ưu tú Đặng Huỳnh Mai – Thứ trưởng Bộ GD&ĐT đã có nhiều nghiên
cứu, bài viết về thực trạng, giải pháp và trăn trở về chất lượng cũng như nâng cao hiệu
quả chất lượng giảng dạy, năng lực của giáo viên tiểu học ở nước ta.
Dự án phát triển giáo viên tiểu học, Thứ trưởng Đặng Huỳnh Mai và PGS, TS
Nguyễn Trí cũng đã đề cập nhiều đến vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và
đổi mới quản lí giáo dục tiểu học.
Thạc sĩ Nguyễn Thành Vinh cũng có nhiều nghiên cứu xác đáng một cách có hệ
thống trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ trong trường Tiểu học.
Tiến sĩ Phạm Xuân Hậu ( Trường Đại học Sư phạm Hồ Chí Minh) và tiến sĩ
Nguyễn Đức Võ ( Trường Đại học Sư phạm Huế) trong bài viết: “ Quản lí, bồi dưỡng
phát triển đội ngũ giáo viên Đại học – Thực tế và nhưĩng suy nghĩ” đã đưa ra một số
giải pháp trong quản lí đội ngũ như: bồi dưỡng giáo viên, liên hệ tình trạng giáo viên
mới về trường cũng có những nhận định tâm lí của giáo viên: “ Nhiều giáo viên mới
nhận về trường rất năng nổ, tích cực nhưng khi toại nguyện thì tỏ ra thờ ơ, lãnh đạm
với sự phát triển chung, không có đóng góp gì cho tập thể, dành sức lực cho các hoạt
động mưu sinh…”.
Tuy nhiên những chỉ đạo và nhiên cứu ở trên nằm ở tầm tổng quát, chưa đi sâu
vào những hệ thống thực tế – cụ thể trong mỗi đơn vị trường Tiểu học. Trong đề tài
này, chúng tôi không lặp lại cũng như không thể bàn sâu vào tầm vĩ mô của vấn đề mà
chỉ hệ thống lại những tiến trình cơ bản, những biện pháp cụ thể trong việc quản lí, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác cho đội ngũ giáo viên. Nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động giáo dục ở một đơn vị trường tiểu học.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đòi hỏi phát triển nguồn nhân
lực. Việt Nam bước vào giai đoạn CNH, HĐH và mục tiêu đến năm 2020 là nước công
nghiệp phát triển. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH và hội nhập

Quốc tế là con người, là nguồn nhân lực, nguồn người Việt Nam được phát triển về số
lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng nhân trí được nâng cao. Vì vậy, phải chuẩn bị
4


cho người lao động có những phẩm chất và năng lực đòi hỏi của giai đoạn mới. Kiến
thức được trang bị trong nhà trường chỉ là cái ban đầu. Trong nhà trường phải coi trọng
dạy phương pháp, dạy cách học, dạy cách thức đi tới kiến thức, giúp học sinh tự tìm
kiếm và chiếm lĩnh những thành tựu tri thức của loài người, trên cơ sở đó mà tiếp tục
học tập suốt đời.
Từ những thập kỉ cuối thế kỉ XX, nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã tiến
hành chuẩn bị và triển khai cải cách giáo dục, tập trung vào giáo dục phổ thông. Nhìn
chung, chương trình giáo dục phổ thông của các nước đã coi trọng thực hành, vận dụng
nội dung chương trình tinh giảm, tập trung vào các kiến thức và kĩ năng cơ bản và thiết
thực, tích hợp được các mặt giáo dục. Vì vậy, khi triển khai chương trình, giáo viên
phải chủ động lựa chọn nội dung và phương pháp thích hợp với từng đối tượng học
sinh. Hình thức tổ chức dạy học phải linh hoạt, phối hợp với dạy học cá nhân và dạy
học theo nhóm, theo lớp. Phối hợp dạy học ở trong và ngoài lớp học, ở trong và ngoài
nhà trường. Muốn vậy, lực lượng giáo viên phải là những người linh hoạt, vững kiến
thức và nắm chắc phương pháp. Nhưng thực tế đội ngũ giáo viên của ta ở một số vùng
chưa đủ về số lượng, chưa đồng bộ về cơ cấu, năng lực còn nhiều hạn chế, một số bộ
phận chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của giáo dục.
Nghị quyết 40/ 2000/ QH 10 ngày 09/ 12/ 2000 của Quốc hội khoá X có ghi: “
Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội dung
chương trình, phương pháp giáo dục, SGK phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH,
HĐH đất nước, phù hợp với thực triển và truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo
dục phổ thông ở các nước trong khu vực và thế giới…”, “ Đổi mới nội dung chương
trình, SGK, phương pháp dạy và học, phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp
và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá thi cử, chuẩn hoá trường sở, đào tạo,

bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lí giáo dục”.
2. Cơ sở khoa học giáo dục:
2.1.Một số khái niệm:
2.1.1.Đội ngũ là một tổ chức nhiều người tập hợp lại thành một lực lượng. Hay là
một tập hợp số đông người, cùng chức năng, cùng nghề nghiệp. Đội ngũ giáo viên
trường tiểu học là lực lượng chủ yếu giữ vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch của nhà trường tiểu học.
2.1.2.Mục tiêu của công tác bồi dưỡng, phát triển đội ngũ là xây dựng đội ngũ
giáo viên đủ về số lượng và vững về chất lượng để có khả năng thực hiện nội dung giáo
dục toàn diện. Đây là công việc không bao giờ kết thúc. Bởi vì xu hướng của giáo dục
thời đại ngày nay là: “ học tập suốt đời”. Nhằm thúc đẩy sự phát triển về chuyên môn
cho tất cả giáo viên, cán bộ trong nhà trường, giúp giáo viên có đủ năng lực tham gia
vào công cuộc đổi mới giáo dục.
Bồi dưỡng, phát triển đội ngũ là nâng cao sự hiểu biết về văn hoá và các vấn đề
giáo dục. Giúp đội ngũ giáo viên theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật và khoa
học giáo dục.
2.1.3.Các nội dung chủ yếu về bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công
tác:
Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ là một việc không thể thiếu được của người
giáo viên trong suốt quá trình giảng dạy. Mỗi giáo viên cần phải có một trình độ
5


chuyên môn vững vàng, kiến thức sâu sắc và toàn diện, là cơ sở cho việc cải tiến các
phương pháp dạy học và hoàn thiện nghiệp vụ sư phạm. Muốn vậy, BGH nhà trường
phải tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ, giáo viên của mình bằng việc phân công hợp lí để
phát huy năng lực của họ. Phải lập kế hoạch bồi dưỡng từng đối tượng giáo viên, nâng
cao chất lượng chuyên môn.
Quản lí chuyên môn qua các hình thức:
 Xây dựng các qui định về quản lí dạy học của nhà trường:

- Nội qui, qui chế dạy học.
- Các qui định về động viên tinh thần, vật chất trong hoạt động dạy học.
- Xây dựng các qui định về sinh hoạt chuyên môn.
 Quản lí các hoạt động trước khi dạy:
- Sinh hoạt chuyên môn.
- Chuẩn bị bài dạy.
- Tư vấn cho giáo viên về nội dung, phương pháp và xây dựng kế hoạch
bài học.
 Quản lí các hoạt động trong khi dạy:
- Dự giờ, thăm lớp.
- Kiểm tra kế hoạch dạy học.
 Quản lí các hoạt động sau khi dạy:
- Sản phảm của giáo viên ( kế hoạch dạy học, đồ dùng dạy học,…)
- Kết quả học tập của học sinh.
- Ý kiến, dư luận của đồng nghiệp, của các tổ trưởng chuyên môn.
2.2.Các chức năng quản lí:
Nhằm đạt được hiệu quả trong việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực công tác cho giáo viên thì:
+ Người cán bộ quản lí phải nhận thức được tầm quan trọng của công tác
bồi dưỡng, phát triển đội ngũ. Xác định được nhu cầu, mục tiêu bồi dưỡng và có
chương trình, kế hoạch bồi dưỡng liên tục.
+ Giáo viên phải nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong hệ thống tổ
chức nhà trường. Phải xác định việc nâng cao tay nghề và hiệu quả giảng dạy,
nội dung, phương pháp dạy học là việc làm thường xuyên. Giáo viên phải xác
định nội dung, phương pháp dạy học là một hệ thống liên tục nhằm tổ chức các
hoạt động nhận thức và thực hành giúp học sinh lĩnh hội chắc các thành phần của
nội dung giáo dục để đạt mục đích đã định.
o0o

Chương 2.

THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC .....................
1. Đặc điểm tình hình nhà trường và cơ sở giáo dục:
1.1.Vài nét về cơ sở giáo dục:
6


Huyện Ngọc Hồi năm học 2007 -2008 toàn ngành có ...... cán bộ- giáo viêncông nhân viên. Trong đó giáo viên tiểu học có ..... giáo viên. Hằng năm đội ngũ giáo
viên đều được bổ sung, cơ bản đáp ứng yêu cầu về giảng dạy, bên cạnh đó một số giáo
viên chưa đạt yêu cầu về trình độ chuyên môn, về phương pháp, đòi hỏi phải có lực
lượng thay thế. Thực hiện chỉ thị 40- CT/ TW ngày 15/ 6/ 2004 của Ban bí thư và quyết
định số 09/ 2005/ QĐ- TTg ngày 11/ 01/ 2005 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục, năm học 2006 – 2007
Phòng Giáo dục- Đào tạo đã taaoj điều kiện cho đội ngũ theo học các lớp CĐ, ĐH sư
phạm.
1.2.Đặc điểm tình hình nhà trường:
Năm học 2008 - 2009 trường có được ... lớp với .... học sinh / ... nữ ( Học sinh dân
tộc : .../ ... nữ). Giáo viên đa phần ở địa phương khác đến công tác một vài năm lại
chuyển đi nên việc quản lí nhà trường gặp rất nhiều khó khăn. Hằng năm, nhà trường
vẫn thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của năm học nhưng chất lượng không cao, chưa
thực chất và có phần giảm sút.
2. Thực trạng đội ngũ giáo viên ở trường.
Qua một số năm hoạt động, nhìn chung chất lượng nhà trường thấp và không
tiến triển nên năm học 2005 -2006 tôi đã tiến hành rà soát lại chất lượng đội ngũ giáo
viên của nhà trường và đánh giá thực trạng như sau:
2.1.Tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên là: 33 / 29nữ.
Tuổi đời: Dưới 30: 13/ 33 Tỉ lệ: 39,4%.
30 – 40: 13/ 33 Tỉ lệ: 39,4%.
41 – 50: 6/ 33
Tỉ lệ: 18,2%.

Trên 50: 1/33
Tỉ lệ: 3%.
Thâm niên công tác:
Dưới 5 năm: 3/33 Tỉ lệ: 9,1%.
5 – 10 năm: 15/33
Tỉ lệ: 45,5%.
11 – 15 năm: 11/ 33
Tỉ lệ: 33,3%.
16 – 20 năm: 1/33 Tỉ lệ: 3%.
Trên 20 năm: 3/ 33
Tỉ lệ: 9,1%.
Giáo viên là người dân tộc thiểu số : 1/ 1nữ.
2.2.Trình độ đào tạo chuyên môn không đồng đều:
ĐHTH: 3/3nữ.
Tỉ lệ: 9,1%
12 + 2: 9/7nữ.
Tỉ lệ: 27,3%
9 + 3 : 18 / 16 nữ .
Tỉ lệ: 54,6%
7 + 2: 1/ 1 nữ.
Tỉ lệ: 3%
Trung cấp kế toán: 1/ 1 nữ. Tỉ lệ: 3%
Bảo vệ: không có trình độ chuyên môn: 1/ 1 nữ. Tỉ lệ: 3%.
2.3. Trình độ văn hoá:
Đa phần 12/12 nhưng nhiều giáo viên kiến thức cơ bản không nắm vững.
2.4. Trình độ lí luận chính trị:
Toàn trường có 6 Đảng viên. Có 9 CB – GV đã qua lớp sơ cấp lí luận chính trị,
chiếm tỉ lệ 21,2%. Chưa có CB – GV nào qua lớp trung cấp chính trị.
2.5. Điều kiện làm việc và hoạt động của đội ngũ giáo viên:


7


- Đa số giáo viên nhà ở xa trường từ 7-> 20km. Một số giáo viên phải đi hơn 20km
mới đến nơi dạy. Phương tiện đi lại khó khăn, xăng xe lại đắt. Điều kiện gia đình giáo
viên còn nhiều thiếu thốn. Kinh tế gia đình giáo viên phần đông phụ thuộc vào đồng
lương.
- Giáo viên ở trong một khối nhưng thiếu sự hoà nhập, giúp đỡ nhau. Trong sinh
hoạt chuyên môn, hội họp ít trao đổi, chia sẽ kinh nghiệm mà bàn bạc chuyện riêng.
- Giáo viên chưa phát huy được năng lực, sở trường của mình.
- Có 10 / 33 giáo viên có tư tưởng an phận, không có tinh thần phấn đấu.
- Đội ngũ giáo viên không ổn định.
2.6. Năng lực của giáo viên:
- Giáo viên có năng lực tổ chức, có nghiệp vụ chuyên môn tương đối vững vàng, có
phương pháp giảng dạy tốt, biết tiếp thu cái mới và chia sẽ kinh nghiệm cho đồng
nghiệp, có nhiệt tình xây dựng nhà trường thì rất hạn chế ( chỉ có 4/ 33giáo viên, công
nhân viên).
- Nhiều giáo viên còn rụt rè, chưa xác định được mặt tích cực trong công việc nâng
cao chất lượng giảng dạy. Nhiều giáo viên còn e dè khi trao đổi kinh nghiệm giảng dạy.
- Một số giáo viên muốn tiến bộ nhưng mức độ tiếp thu cái mới, áp dụng kinh
nghiệm của đồng nghiệp còn hạn chế do trình độ năng lực của bản thân.
- Giáo viên còn mang tính ỷ lại. Nhất là bộ phận nòng cốt ( công đoàn, tổ khối
trưởng) không tự mình lập kế hoạch thực hiện mà còn chờ sự bắt tay chỉ việc của BGH.
2.7. Chế độ, chính sách đối với giáo viên tiểu học:
100% giáo viên trong trường được hưởng phụ cấp vùng đặc biệt khó khăn. Luôn
đảm bảo mọi chế độ chính sách vì vậy đã góp phần động viên giáo viên yên tâm công
tác, giành nhiều thời gian đầu tư cho việc giảng dạy, tự học của mình để nâng cao trình
độ.
3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
- Trình độ, năng lực của bản thân giáo viên còn nhiều hạn chế. Chưa sáng tạo

trong quản lí, tổ chức và thực hiện công việc của mình.
- Giáo viên có năng khiếu, sở trường, có thể tiến bộ trong chuyên môn nhưng do
hoàn cảnh cá nhân, hoặc chưa được phân công phù hợp nên chưa phát huy được năng
lực, sở trường của mình.
- Giáo viên đa phần là ở địa phương khác đến. Một số giáo viên ở quá xa, nhiều
giáo viên trẻ tuổi đang ở giai đoạn lập gia đình, sinh con, nuôi con mọn,…nên ít nhiều
ảnh hưởng đến công tác giảng dạy.
- Một số giáo viên lớn tuổi nên có tư tưởng an phận.
- Nhà trường chưa thiết lập được bộ khung nòng cốt ( công đoàn, tổ khối
trưởng…) vững chắc nên thiếu hẳn tính hiệu quả trong công việc. Chưa phát huy
được vai trò của tổ khối chuyên môn.
- Một số trường hợp phân công chuyên môn thiếu hợp lí nên chưa phát huy được
năng lực sở trường tổ chức, chuyên môn nghiệp vụ giảng dạy cho từng giáo viên làm
một số thành viên trong nhà trường còn mang tính thụ động, tiêu cực.
- Chưa có giải pháp nâng cao chất lượng của giáo viên có năng lực và đưa các
biện pháp này trở thành phổ biến chung. Từ đó thúc đẩy hiệu quả các thành viên khác
trong từng khía cạnh, trong từng khối lớp và toàn trường.
- Giáo viên có năng lực chuyên môn yếu chưa được chú ý quan tâm bồi dưỡng.
8


- Không chú ý tính đồng bộ, chất lượng giảng dạy đại trà trong nhà trường. Việc
thực hiện triển khai các chuyên đề còn đại khái, thiếu tính chuyên sâu và chưa chuyển
biến phương pháp phù hợp với từng môn, từng phân môn, trình độ học sinh và thực tế
của đơn vị mình.
- Chưa có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng giáo viên. Chưa có
các hình thức khen thưởng kịp thời để kích thích giáo viên hay tập thể hoạt động tích
cực, động viên họ cố gắng phấn đấu hơn.
- Việc tự học, tự bồi dưỡng trong nhà trường còn mang tính hình thức, chiếu lệ,
thiếu hẳn sự quan tâm của cán bộ quản lí nhà trường cũng như chưa có kế hoạch lâu

dài.
- Thiếu sự kiểm tra, đánh giá hiệu quả của các công việc bồi dưỡng cũng như các
chuyên đề triển khai để có sự điều chỉnh kịp thời.
4./ Một số thuận lợi, khó khăn trong việc bồi bưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực công tác.
Sau khi rà soát lại tình hình đội ngũ, nghiên cứu sơ bộ, tự phân loại đối tượng,
tôi nhận thấy phải cấp thiết bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên của trường
mình. Đây là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết để giáo viên đổi mới
phương pháp giảng dạy. Đáp ứng được việc dạy – học theo chương trình, SGK mới. Vì
vậy tôi đã tham mưu với hiệu trưởng và tiến hành lập kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực công tác cho giáo viên từ năm học 2006 – 2007 đến học kì I năm
học 2008 – 2009. Qua quá trình quản lí, bồi dưỡng, tôi gặp phải một số thuận lợi, khó
khăn như sau:
4.1.Thuận lợi:
- Ngoại trừ một bộ phận giáo viên thường hay chuyển đi – đến thì trên 2/ 3 số
giáo viên còn lại là người địa phương hay các địa phương lân cận nên không có
nhu cầu chuyển đi. Vì vậy , đội ngũ giáo viên trong những năm gần đây cũng
tương đối ổn định
- Các giáo viên đa phần là đạt chuẩn trình độ đào tạo, đã qua trường lớp sư
phạm nên đều thực hiện giảng dạy và giáo dục theo đúng chương trình giáo dục,
kế hoạch giảng dạy, soạn bài, kiểm tra, đánh giá đúng qui định, lên lớp đúng giờ,
không tuỳ tiện bỏ giờ, bỏ buổi.
- Nhiều giáo viên trẻ, có tinh thần phấn đấu, nổ lực trong việc rèn luyện đạo
đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng.
4.2. Khó khăn:
- Trường có đến 5 điểm trường, đóng ở địa phương có nhiều khó khăn, đa
phần là học sinh dân tộc thiểu số, nhưng lại không được chế độ ưu tiên gì cho đội
ngũ giáo viên nên gây nhiều chán nản, làm mất đi sự nhiệt tình, bầu nhiệt huyết.
- Nhận thức của người dân về nhu cầu học tập của con em mình còn nhiều
hạn chế, thiếu hẳn sự quan tâm của phụ huynh đối với việc học tập của học sinh

mà giao phó toàn bộ cho nhà trường.
- Những giáo viên có nhu cầu chuyển đi thường là giáo viên trẻ, nhiệt
tình, có năng lực chuyên môn, chịu khó học hỏi, có thể đảm nhiệm các vị trí
nòng cốt trong nhà trường( như tổ trưởng chuyên môn). Vì vậy gặp rất nhiều khó
khăn trong việc xây dựng bộ khung nòng cốt.
9


- Một số đông giáo viên năng lực, trình độ còn nhiều hạn chế, rụt rè, chưa
xác định được mặt tích cực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, còn thờ ơ
hoặc do điều kiện chưa tác động đến họ.
- Nhiều giáo viên lớn tuổi, họ dạy cho xong việc và vẫn còn mang nặng
phương pháp truyền thống, khó thay đổi. Còn việc tự học, tự bồi dưỡng đối với
họ chỉ làm để đối phó, chiếu lệ chứ không có hiệu quả.
- Còn giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ, tuổi đời lại lớn, là người dân tộc
thiểu số nên trình độ, năng lực hạn chế, khó bồi dưỡng, chuyển biến và khó trong
sự phân công công tác.
- Ít được sự quan tâm, hỗ trợ của cấp trên cũng như các ban nghành địa
phương trong việc tạo điều kiện cho giáo viên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực công tác.
o0o

Chương 3.

10


MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐẠT ĐƯỢC.
I. MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN:

Với quá trình quản lí, chỉ đạo, bồi dưỡng trong ba năm, ứng dụng và rút kinh
nghiệm với các kết quả đạt được, tôi tiến hành xây dựng từng bước đề tài: “ Một số
biện pháp quản lí, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác cho đội ngũ
giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường Tiểu học”.
Công việc nghiên cứu , tiến hành thực hiện đề tài không chỉ trong một giai đoạn,
một năm học mà phải là quá trình lâu dài. Qua nhiều năm thực hiện, áp dụng với đội
ngũ giáo viên như thế, tôi quan sát hoạt động chung trong việc tiến hành nhiệm vụ, kế
hoạch của ngành. Phối hợp với các tổ chuyên môn đánh giá năng lực giáo viên, phân
loại tay nghề. Kết hợp đối chiếu với hệ đào tạo, xem mức độ tinh thần phấn đấu của
từng giáo viên. tăng cường kiểm tra dự giờ thăm lớp,…Từ đó đề ra một số biện pháp
quản lí chỉ đạo như sau:
1. Phân công giáo viên hợp lí để phát huy năng lực của giáo viên.
Khi thực hiện phân công cán bộ, giáo viên chúng ta căn cứ vào số lượng, chất
lượng và cơ cấu đội ngũ, năng lực của từng cán bộ, giáo viên (Trong đó bao hàm trình
độ và chuyên môn đào tạo, thâm niên công tác, kinh nghiệm công tác…), kết quả đánh
giá, phân loại cán bộ, giáo viên năm trước, …
Trong những năm gần đây độ ngũ giáo viên trường Tiểu học ....... tương đối đủ
về số lượng, loại hình và đồng bộ về cơ cấu. Có khả năng thực hiện nội dung giáo dục
toàn diện đúng theo chương trình và kế hoạch đào tạo.
Việc phân công đội ngũ phải được hoàn thành trước khi bước vào năm học mới (
đối với qui hoạch trong năm), hoặc trước mỗi giai đoạn phát triển của nhà trường theo
định hướng chiến lược đề ra( 3 – 5 năm). Và phải có dự kiến những biến động về nhân
lực có thể xảy ra để có kế hoạch bổ sung kịp thời ( như nghỉ hưu, thuyên chuyển, sinh
đẻ,…)
Trước khi vào năm học cần liên hệ với phòng giáo dục để nắm bắt được những
dự định quan trọng như: đề bạt, đi học, tiếp nhận, thuyên chuyển,…sau đó phải được
bàn thông qua Chi bộ Đảng nhà trường, gợi ý và trao đổi với BCH công đoàn.
Việc phân công giáo viên bao gồm cả việc phân công giáo viên chủ nhiệm lớp
dạy các môn văn hoá, phân công giáo viên chuyên dạy các môn năng khiếu như Âm
nhạc, Thể dục, Mỹ thuật và cả việc phân công giáo viên làm những công việc kiêm

nhiệm như tổ khối trưởng, BCH công đoàn, …
1.1.Phân công giáo viên chủ nhiệm lớp dạy các môn văn hoá:
Trước khi phân công, ban giám hiệu phải tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, hoàn
cảnh, địa bàn của mỗi giáo viên. Giáo viên được quyền bày tỏ nguyện vọng của mình
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh như: Dạy ở khối nào; Buổi sáng hay chiều ; điểm
chính hay điểm lẻ;…(Thông qua phiếu hỏi)

PHIẾU LẤY Ý KIẾN
Họ và tên giáo viên:………………………………………………..
1/ Hãy cho biết bạn thích dạy lớp mấy? Buổi sáng hay buổi chiều?
…………………………………………………………………………………
11


2/ Đánh dấu x vào ô trống bạn cho là phù hợp:
- Năm nay,bạn sẽ dạy:
Ở điểm chính.
Ở điểm Đội 2.
Ở điểm Cầu Đôi.
Ở đểm Dân Tộc.
- Nếu được chọn, bạn sẽ dạy:
Dạy lớp
Chuyên Âm nhạc.
Chuyên Mỹ thuật.
Chuyên Thể dục.
3/ Theo bạn giáo viên dạy ở điểm chính nên có những tiêu chuẩn gì?
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………
Công việc này vừa thể hiện được ý chí, nguyện vọng của đội ngũ, giúp tinh thần

của giáo viên được thoải mái, vừa có tính dân chủ, không gò ép, đồng thời cũng xác
định được năng lực và trình độ giáo viên. Nhưng không phải thoả mãn được mọi nhu
cầu vì còn tính đến tình huống hoạt động của nhà trường và phát huy năng lực của giáo
viên.
Sau khi tìm hiểu nguyện vọng của giáo viên, ban giám hiệu kết hợp với các bộ
phận chủ chốt trong nhà trường đề ra các chỉ tiêu, tiêu chuẩn để
phân công cho hợp lí. Cụ thể như sau:

TIÊU CHUẨN PHÂN CÔNG
GIÁO VIÊN DẠY ĐIỂM CHÍNH VÀ LẺ
1. Giáo viên dạy ở điểm chính: Ưu tiên:
- Giáo viên đạt giáo viên giỏi cấp huyện, tỉnh.
- Giáo viên có những thành tích khác.
- Giáo viên có hoàn cảnh khó khăn, con mọn.
- Giáo viên đã dạy điểm lẻ lâu năm.
2. Giáo viên dạy điểm lẻ:
- Lấy tinh thần xung phong của giáo viên.
- Đảng viên, đối tượng Đảng, thanh niên, giáo viên chưa có gia đình.
- Những giáo viên mới ra trường, mới chuyển đến.
- Những giáo viên chưa đi điểm lẻ.
Việc làm này bảm bảo tính công bằng, dân chủ, công khai. Đồng thời tạo dựng
được mối quan hệ đoàn kết, thống nhất. Là động lực thúc đẩy giáo viên tự rèn luyện,
học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác của mình.
 Giáo viên phân công ở khối 1:
Phải lưu ý độ tuổi, có thể là những giáo viên lớn tuổi, hiểu tâm lí học sinh, nhất
là tính nhẫn nại , tính chịu khó đầu tư trong các loại hình thực hiện phương pháp. Bên
cạnh đó, để gắn bó với học sinh đầu cấp ngoại hình của giáo viên cũng là yếu tố hỗ trợ.
 Giáo viên phân công ở khối 2:
12



Ngoài các đặc trưng chung của ngành, tuy có thể giảm nhẹ hơn về năng lực
nhưng cũng không coi thường để phân công sai lệch. Giáo viên khối 2 là những giáo
viên vừa có khả năng nắm bắt, hiểu rõ tâm lí vừa có phương pháp giảng dạy hiệu quả
để giúp học sinh tái hiện lại kiến thức cơ bản ở khối 1.
 Giáo viên phân công ở khối 3:
Giáo viên khối 3 lại là những giáo viên năng động trong phương pháp thực hành.
Nhưng chương trình khối 3 phải nói là thuận tiện nhất cho giáo viên. Giáo viên quản lí
học sinh dễ dàng hơn vì học sinh đã có ý thức. Học sinh không hẳn là lớn, cũng không
phải là nhỏ. Vì vậy khi phân công chúng ta chọn những giáo viên phù hợp, khó phân
công ở các khối khác nhưng phải am hiểu tâm lí học sinh và nắm bắt được mối liên kết
trong chương trình giữa 2 giai đoạn của cấp tiểu học.
 Giáo viên phân công ở khối 4,5:
Khối 4, 5 có thể chọn những giáo viên có năng lực, nhiệt tình hơn. Yếu tố tâm lí
cũng cần nhưng lưu ý khả năng nắm bắt kiến thức mới, khả năng giảng dạy và diễn đạt
từ ngữ cụ thể, chính xác, sử lí sư phạm tốt. Đồng thời cũng lưu ý đến tính tổ chức.
Do ở các khối này các hoạt động ngoài trời mang tính tập thể. Các hình thức hoạt
động Đội tác động không nhỏ đến phương pháp cũng cố kiến thức và hoàn thành kiến
thức, các kĩ năng chuẩn của cấp học, chuẩn bị cho các em hoàn thành chương trình tiểu
học và là cơ sở cho các em học lên trung học. Khối 5 là khối cuối cấp hoạt động học
sinh có những mặt là hoạt động mũi nhọn, là bề nổi của nhà trường ( Đại hội thể dục
thể thao, thi chọn học sinh giỏi, thi Nghi thức Đội,…) và cũng là thước đo của hiệu quả
giảng dạy nhà trường. Song song đó lượng kiến thức truyền đạt cũng như kĩ năng cơ
bản cấp học rơi vào khối 4.
Với những định hướng và thực tế, năm học 2006 – 2007 toàn trường có 21 lớp
trong khi đó có tất cả là 25 giáo viên tham gia vào công tác giảng dạy. Trong số đó có
một giáo viên nghỉ sản kì I và một giáo viên nghỉ sản kì II nên tôi đã tham mưu với
hiệu trưởng và chủ tịch công đoàn đã phân công như sau:
 Khối 1 có 5 lớp, chúng tôi phân công những giáo viên lớn tuổi, đã dạy
nhiều năm ở lớp 1. Bên cạnh đó, phân công thêm 1 đén 2 giáo viên trẻ. Mặc dù tuổi

nghề chưa cao nhưng nhiệt tình, trẻ, năng động nên dạy lớp 1 cũng khá hiệu quả.
 Chương trình khối 2 là khá năng do học sinh lớp 1 sau thời gian nghỉ
hè gần như quên phần lớn kiến thức. Chúng tôi chọn những giáo viên có kinh nghiệm
dạy khối 2 lâu năm. Đây là những giáo viên trẻ, nhiệt tình, tận tâm. Bên cạnh đó có
giáo viên năng lực, trình độ chuyên môn còn hạn chế, nắm bắt vấn đề chậm và khá lề
mề. Nhưng với sự dẫn dắt, kèm cặp của khối, chúng tôi tin rằng khối sẽ bổ sung, hỗ trợ
nhau sẽ từng bước tiến bộ.
 Với khối 3 là sự giao hoà, chuyển tiếp của 2 giai đoạn 1,2,3 và 4, 5
nên cũng chẳng đặt nặng việc rèn kỷ năng cũng như lượng kiến thức. Vì vậy mà khi
sắp xếp khối 3, chúng tôi chọn một giáo viên giỏi cấp trường, một giáo viên đạt mức độ
khá và 2 giáo viên đạt yêu cầu. Đồng thời đưa một giáo viên đạt giáo viên giỏi Huyện
vào sinh hoạt ở khối để chia sẻ kinh nghiệm, kèm cặp, bồi dưỡng để đưa khối từng
bước đi lên.

13


 Khối 4,5 chúng ta cần chọn những giáo viên vững kiến thức, biết cách
khai thác bài, năng nổ, nắm bắt cái mới tương đối tốt, chịu khó đầu tư cho giảng dạy
vào khối 4,5.
1.2. Phân công giáo viên chuyên dạy các môn năng khiếu:
Nghệ thuật là một môn học bắt buộc được qui định trong kế hoạch giáo dục tiểu
học nhằm góp phần giáo dục toàn diện nhân cách học sinh tiểu học. Là môn học gắn bó
mật thiết với các hoạt động giáo dục, đặc biệt là giáo dục thẩm mĩ ở trường tiểu học.
Môn nghệ thuật với những nét đặt thù về nội dung, có khả năng to lớn góp phần thực
hiện giáo dục thẩm mĩ cho học sinh ( Tạo điều kiện để học sinh tiếp xúc, làm quen với
cái đẹp của thiên nhiên và các tác phẩm nghệ thuật,….đồng thời giúp học sinh tập tạo
ra cái đẹp và áp dụng chúng vào trong cuộc sống, góp phần xây dựng môi trường cho
xã hội). Bước đầu rèn luyện được đôi tay khéo léo của học sinh. Cùng với các môn học
khác ( Tự nhiên và xã hội; Toán; …) tạo nên sự sáng tạo trong lao động.

Âm nhạc là nghệ thuật âm thanh, nó tác động mạnh tới tinh thần, có sức cuốn
hút, chuyển tải những rung động nhanh, mạnh từ người này sang người khác.
Mỹ thật là nghệ thuật hình ảnh, thể hiện năng lực nhận thức, cảm thụ, sáng tạo,
vận dụng cái đẹp vào cuộc sống sinh hoạt, học tập.
Môn thể dục góp phần rèn luyện sức khoẻ, thể lực và tư thế, kĩ năng vận động cơ
bản cho học sinh.
Những môn học trên là những môn năng khiếu, là những môn học thực hành, lấy
hoạt động thực hành luyện tập để chuyển tải kiến thức, biến kiến thức học sinh hiểu
được, nắm được thành kĩ năng.
Để học tốt các môn học trên đòi hỏi giáo viên và học sinh phải có năng khiếu.
Aùp dụng thực tế ở trường: cô Nhật Lệ rất có kiến thức về âm nhạc, có năng khiếu về
hát và lại biết đàn nên chúng tôi phân công cô dạy môn Âm nhạc. Đồng thời cô cũng là
một giáo viên giỏi huyện, khá vững chuyên môn nên đưa cô vào sinh hoạt ở khối 3, hỗ
trợ cho khối, chia sẽ kinh nghiệm, góp ý trong thao giảng dự giờ, cùng nhau học hỏi để
cùng tiến bộ.
Thầy Trường ( một giáo viên từ Bù Đăng chuyển về từ năm học 2006 – 2007)
mặc dù chuyên môn hơi yếu nhưng lại có năng khiếu về vẽ, thường thức mĩ thuật nên
chúng tôi bố trí thầy dạy chuyên Mĩ thuật, đưa thầy vào sinh hoạt ở khối 5 ở đây có cô
Minh Thi ( giáo viên giỏi huyện) và một số giáo viên khá cứng kèm cặp, nâng cao năng
lực chuyên môn cho thầy.
Thầy Thuận ( một cán bộ quản lí đã nghỉ về làm giáo viên) có năng lực quản lí ,
lãnh đạo, tổ chức tốt, có tinh thần kỉ luật. Đã lâu năm không làm công tác giảng dạy
nên khi dạy học sinh trên bục giảng thầy lúng túng và không quen. Nhưng việc dạy
môn thể dục thì thầy lại tổ chức rất tốt, đồng thời thầy nắm rất rõ kĩ thuật chơi bóng
chuyền và cũng là một vận động viên bóng chuyền nên chúng tôi phân công thầy dạy
chuyên môn Thể dục, để thầy có định hướng dạy môn tự chọn Bóng đá, bồi dưỡng
năng khiếu cho học sinh phát triển thành một môn thi đấu.
* Sau một năm thực hiện, tôi quan sát, tìm hiểu, đánh giá tình hình và rút ra kinh
nghiệm rằng dạy lớp 1 phải là giáo viên có chữ viết đẹp, cẩn thận, tỉ mĩ. Giáo viên hiểu
tiếng dân tộc của thiểu số của dân sống tại địa phương thì càng tốt. Nên năm học 2007

– 2008 chúng tôi bố trí ( sống vùng đồng bào) xuống dạy khối 1. Các cô này chữ viết
đẹp lại tỉ mỉ, cẩn thận. Thay vào đó chuyển cô Lê Hoa lên dạy lớp 2 ( vì cô Hoa mặt dù
14


lớn tuổi nhưng thiếu tính nhẫn nại, cô xây dựng nề nếp, quản lí học sinh lớp 1 dở
nhưng với lớp 2 thì cô làm khá tốt. Cô Rong là người dân tộc thiểu số, trình độ chuyên
môn chưa đạt chuẩn hoá. Tiếp thu chậm, phương pháp dạy học thiếu linh hoạt, nhiều từ
phát âm không chuẩn nhưng lại có năng khiếu về thể dục, thể hình nên chúng tôi bố trí
sang dạy Thể dục cùng thầy Thuận và đưa cô đi tập huấn lớp dạy các môn năng khiếu
do SGD- ĐT tổ chức. Kết quả cô dạy rất tốt phân môn này. Người thoải mái, nhanh
nhẹn hoạt bát hẳn lên. Các khối còn lại chúng tôi vững giữ nguyên không có sự thay
đổi.
Năm học 2008 – 2009 do có sự biến động về nhân sự và số lượng lớp nên chúng
tôi điều cô Lệ ( một cán bộ dự nguồn) về đứng lớp 5, làm công tác khối trưởng thay cô
Thi ( vừa được bổ nhiệm làm hiệu phó). Thay vào đó đưa cô Dung ( cũng có năng
khiếu về nhạc) ra dạy chuyên nhạc. Đồng thời bố trí cô Dung sinh hoạt ở khối 5 để cô
Lệ hỗ trợ thêm. Cô Tới – một người có năng khiếu vẽ-ra dạy chuyên Mỹ thuật thay
thầy Trường được điều động sang làm công tác cộng đồng.
Nhờ có định hướng chuẩn bị nên chúng tôi không phải bị động khi giáo viên
chuyển đi, chuyển đến hay hộ sản, bổ nhiệm. Trong sự sắp xếp, bố trí chúng tôi đều
tính đến việc dự nguồn cho người nọ với người kia và cho tất cả các bộ phận. Vì vậy
mà việc phân công chuyên môn trong năm hay hàng năm của chúng tôi khá ổn định.
Tạo điều kiện cho mọi giáo viên phát triển năng lực của mình.
1.3.Thiết lập thành phần cốt cán khối chuyên môn và BCH công đoàn:
1.3.1. Tổ khối trưởng chuyên môn :
Tổ khối trưởng chuyên môn là xương sống của hoạt động giảng dạy và giáo dục
trong trường tiểu học, là tai mắt và gắn kết giữa ban giám hiệu và đội ngũ. Vì vậy phải
xây dựng được mối quan hệ công tác, giúp đỡ, đoàn kết gắn bó để tạo dựng ê- kíp lãnh
đạo tích cực và có hiệu quả cao. Việc lựa chọn và xây dựng tốt các tổ khối chuyên môn

sẽ góp phần không nhỏ trong việc thực hiện tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ cho đội ngũ giáo viên.
Tổ khối trưởng chuyên môn phải là những người có kỉ luật, kỉ cương trong hoạt
động dạy học, có tinh thần trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp. Thực hiện được
các chức năng quản lí hành chánh, có ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm cá nhân và
cộng đồng. Trách nhiệm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, có khả năng tạo ra bầu không khí
sư phạm đoàn kết, gắn bó keo sơn, làm nền tảng cho việc nâng cao chất lượng dạy học,
có tính gương mẫu của người quản lí. Phải phóng khoáng và tận tình chia sẽ kinh
nghiệm với người khác đồng thời tác động, lôi kéo những giáo viên có tính ích kỷ cá
nhân để họ thay đổi suy nghĩ của mình.
Qua rà soát chắt lọc , chúng tôi đã phân công và xây dựng được bộ khung khối
trưởng như sau:
Khối 1: Cô Bùi Thị Hà làm khối trưởng. Đây là một giáo viên trẻ, nhiệt tình,
năng động.
Khối 2: Cô Lê Thị Tố Trinh làm khối trưởng- là một giáo viên dạy giỏi trường,
rất chịu khó học hỏi và nhiệt tình trong công tác.
Khối 3: Cô Bùi Thị Thu Sương – một giáo viên đạt giáo viên giỏi cấp cơ sở,
hiền, hay chịu khó tìm tòi học hỏi.
Khối 4: Cô Nguyễn Thị Nhiều - là một người rất cẩn thận, làm việc rất công tâm.

15


Khối 5: Cô Đặng Thị Nhật Lệ – Giáo viên giỏi huyện, rất nhanh nhẹn, nắm bắt
cái mới tốt, luôn chịu khó học hỏi và nổ lực phấn đấu, tận tâm với đồng nghiệp.
Bên cạnh khối trưởng, mỗi khối chúng tôi phân công một hoặc hai giáo viên có
năng lực thực sự làm nòng cốt. Giáo viên này có thể có kinh nghiệm giảng dạy nhưng
cũng có thể bề dày giảng dạy chưa sâu. Tuy nhiên khả năng nắm bắt, ứng dụng phương
pháp mới tốt. Việc làm này thể hiện sự dự nguồn ở mỗi tổ khối, có thể thay thế khối
trưởng khi khối trưởng bệnh, sinh đẻ hay chuển công tác.

Việc phân công mỗi khối phải có đủ giáo viên giỏi , khá , trung bình và đó cũng
là điều kiện để quá trình giảng dạy nắm được mấu chốt, rút kinh nghiệm trong việc
nâng cao chất lượng giảng dạy. Và cũng cần lưu ý việc phân công trong một khối có cả
giáo viên già lẫn trẻ để động viên, khuyến khích tinh thần phấn đấu của nhau
1.3.2/ Dự kiến – định hướng nhân sự BCH công đoàn:
Công đoàn trường học là một tổ chức có vị trí quan trọng chăm lo đến đời sống
vật chất và tinh thần cho đội ngũ. Là sợi dây gắn kết giữa nhà trường và đội ngũ giáo
viên. người đảm nhiệm vị trí chủ tịch công đoàn phải là người có uy tín, có khả năng tổ
chức và công tác tập hợp quần chúng cũng như phần nào đảm bảo được chức năng
giảng dạy,…Chủ tịch công đoàn cũng phải là người biết hy sinh quyền lợi cá nhân của
mình, biết đòi hỏi quyền lợi cho tập thể. Tiếng nói của mình là tiếng nói của tập thể
giáo viên, công nhân viên. phải là người thẳng thắn, công bằng và quan trọng hơn là
người không phải nghĩ đến quyền lực mà là trách nhiệm, nhất là làm thế nào để tổ
chức, vận động giáo viên thực hiện nghĩa vụ lao động, chế độ chức trách của người
giáo viên… việc tham gia xây dựng kế hoạch, cùng chúng tôi cải thiện điều kiện làm
việc, đời sống, phúc lợi…đồng thời giám sát việc thi hành các chế độ, chính sách, pháp
luật.
Rà soát lại đội ngũ, chúng tôi thấy cô Lê Hoa là một giáo viên lâu năm, lớn tuổi,
dễ bề ăn nói, chưa đảm nhiệm các trọng trách khác mà lại rất nhiệt tình, chịu khó, gần
gũi với anh chị em và luôn đặt quyền lợi tập thể lên quyền lợi cá nhân vì vậy chúng tôi
định hướng đưa cô Hoa cùng với cô Minh Thi (giỏi về văn thơ, diễn kịch, tiểu phẩm,
…), thầy Hậu ( tỉ mĩ chịu khó học hỏi, thích tổ chức hoạt động) vào trong BCH công
đoàn trong hiệm kỳ 2007 - 2010 và đã đạt được đúng như dự kiến.
Tóm lại: Trường tiểu học là đơn vị tổ chức lao động sư phạm mang tính khoa
học. Lao động sư phạm ngày càng phức tạp dẫn đến sự phân chia trách nhiệm ngày
càng tỉ mĩ, sự chuyên môn hoá ngày càng rõ nét. Cán bộ quản lí nhà trường phải
biết tổ chức khoa học, xây dựng mối quan hệ phối hợp cùng với sự phân công phân
quyền giữa các cá nhân và tập thể lao động hợp lí thì hiệu quả giáo dục mới hy vọng
được nâng cao. Trong trường tiểu học, nằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và nâng
cao chất lượng đào tạo có hiệu quả, đội ngũ giáo viên tiểu học là nhân tố quan

trọng, giữ vai trò chủ yếu. Tổ chức phân công hợp lí là giải pháp đầu tiên mang tính
quyết định trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học. Việc phân công giáo viên phù
hợp với năng lực , đạt điều kiện đặc trưng khối lớp góp phần nâng cao nhận thức
của giáo viên về vị trí, vai trò của mình. Giáo viên sẽ tự ý thức vị trí của họ, từ đó
phát huy tốt tính gương mẫu trong giảng dạy, công tác.
Sự phân công cũng cần đến yếu tố thi đua giữa các khối và giữa giáo viên
trong khối, khi phân công giáo viên các khối lớp phải có ý thức về “màu cờ sắc áo”

16


của mình. Giáo viên trong khối và cả trong toàn trường phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau. Xây dựng cho nhau cùng nhau tiến bộ.
2. Phân loại giáo viên để lập kế hoạch bồi dưỡng phù hợp từng đối tượng.
Muốn bồi dưỡng một đối tượng, chúng ta phải nắm rõ đối tượng đó mạnh về vấn
đề gì và yếu gì để phát huy mặt mạnh, bồi dưỡng thêm các mặt mà đối tượng đó còn
hạn chế. Trong đề tài này tôi chỉ đề cập đến bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và
năng lực công tác cho giáo viên là chính. Nhưng muốn phát triển hai mặt trên thì vấn
đề bồi dưỡng nâng cao tư tưởng, nhận thức chính trị, bồi dưỡng về văn hoá ngoại ngữ,
bồi bưỡng về nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng về sức khoẻ cho đội ngũ cũng không
thể thiếu trong quá trình bồi dưỡng. Chúng tôi xin được phép không đi sâu về những
vấn đề này mà chỉ đi sâu về bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác cho
giáo viên mà thôi.
Việc phân loại chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác của đội ngũ giáo viên
được phân theo 4 nhóm cơ bản là:
- Nhóm giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác đạt loại
tốt.
- Nhóm giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác đạt loại
khá.
- Nhóm giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác đạt loại

trung bình.
- Nhóm giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác đạt loại
yếu.
Việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cũng cần đề ra những biện pháp phù hợp
với từng nhóm đối tượng trên thì công tác bồi dưỡng mới hy vọng có kết quả.
2.1.Nhóm giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác đạt
loại tốt:
Đối với nhóm giáo viên này chúng ta cần bồi dưỡng nâng cao năng lực của họ.
Ngoài việc hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ cụ thể của người giáo viên, chúng ta
phải giao cho họ:
- Giảng dạy, giáo dục học sinh cá biệt; thực hiện tốt phương pháp giảng dạy mới
trong nhà trường; gây được hứng thú, hấp dẫn đối với học sinh, mang lại hiệu quả cao
trong các giờ học.
- Trực tiếp dạy mẫu, giảng thử nghiệm nội dung các lớp bồi dưỡng cho đối tượng
giáo viên tron nhà trường.
- Trực tiếp bồi dưỡng, hướng dẫn đồng nghiệp trở thành giáo viên giỏi.
- Đề xuất, nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm về công tác giảng dạy, giáo dục
trong khối và trong nhà trường.
- Đưa họ vào mạng lưới chuyên môn trường học làm công tác thanh tra chuyên
môn nghiệp vụ với các giáo viên còn lại trong nhà trường. Tham gia chấm thi giáo viên
giỏi trường.
- Viết sáng kiến kinh nghiệm; tham gia nghiên cứu khoa học thúc đẩy việc thực
hiện tốt nhiệm vụ dạy học.
Đánh giá thực tế ở trường thì năm học 2005 – 2006 có 4 giáo viên được xếp loại
trình độ tay nghề tốt, 10 giáo viên đạt trình độ khá, 7 giáo viên xếp vào loại trung bình
và 2 giáo viên xếp trình độ tay nghề yếu. Nên trong năm học 2006 -2007 chúng tôi đã
17


giao cho 4 giáo viên này kèm cặp 2 giáo viên xếp loại yếu và 2 giáo viên xếp loại trung

bình. Đồng thời đăng kí 4 đề tài sáng kiến kinh nghiệm và tiến hành thực hiện. Quá
trình giáo viên thực hiện được sự giám sát, chỉ đạo của ban giám hiệu. Thông qua đó
bồi dưỡng thêm năng lực công tác cho họ. Tiếp tục năm 2007-2008 có 7 giáo viên đạt
loại tay nghề tốt nên giao cho họ viết 7 SKKN và kèm cặp số giáo viên có trình độ tay
nghề xếp vào loại trung bình trong nhà trường.
2.2. Nhóm giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác đạt
loại khá:
Với nhóm đối tượng này, chúng ta tạo điều kiện để phát huy tính tích cực, sáng
tạo của họ. Họ phải chịu trách nhiệm giảng dạy theo hướng tích cực và thực hiện công
tác giáo dục toàn diện đối với học sinh. Là người chủ động đề xuất, tổ chức các hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ và giáo dục cho các đối tượng học sinh. Ngoài việc hoàn
thành tốt chức trách của người giáo viên chúng ta có thể giao cho họ:
- Đảm nhận việc giảng dạy và giáo dục đối với tập thể có nhiều học sinh chậm
tiến, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Giáo viên phải tự học tập, bồi dưỡng mình để có
khả năng thuyết phục các đối tượng học sinh và tạo niềm tin ở phụ huynh.
- Đề xuất việc tổng kết, soạn thảo các báo cáo kinh nghiệm giảng dạy theo
phương pháp tích cực.
- Động viên họ viết sáng kiến kinh nghiệm đưa vào áp dụng trong khối lớp, nhà
trường.
- Bồi dưỡng họ để tham gia thi giáo viên giỏi các cấp.
- Thực hiện các hoạt động ngoại khoá, hoạt động ngoài nhà trường để giáo dục
học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Tham gia vào sinh hoạt mạng lưới chuyên môn của nhà trường.
- Tham gia học tập, bồi dưỡng, sinh hoạt chuyên đề để nâng cao năng lực, trình
đô của bản thân.
- Yêu cầu 2 giáo viên khá chịu trách nhiệm kèm cặp 1 giáo viên đạt trung bình để
chia sẽ kinh nghiệm, bổ sung hỗ trợ cho nhau, giúp nhau cùng tiến bộ.
2.3. Nhóm giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác đạt
loại trung bình và yếu:
Với nhóm đối tượng này chúng ta bồi dưỡng cho họ:

- Nắm vững nội dung cơ bản của chương trình các môn học và hoạt động. Những
điểm khó trong sách giáo khoa, sách giáo viên của từng môn học; hoạt động ở các khối,
lớp của tiểu học.
- Nắm và sử dụng được các phương pháp dạy học ở từng môn học và bước đầu
sử dụng có hiệu quả những phương pháp này.
- Nắm các thiết bị dạy học cần thiết để thực hiện từng môn, từng hoạt đông và
cách sử dụng các thiết bị đó trong dạy học.
- Nắm được các yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng, thái độ ở từng môn học và
biết cách đánh giá kết quả học tập bộ môn của học sinh theo yêu cầu về kiến thức và kĩ
năng do chương trình tiểu học đặt ra.
Để đạt được những kết quả trên, chúng ta phải xây dựng cho họ chương trình bồi
dưỡng cụ thể. Thực hiện theo chương trình đó và có sự kiểm tra, đánh giá kết quả đạt
được. Thực tế ở đơn vị trường còn 2 giáo viên yếu và 7 giáo viên đạt mức trung bình.

18


Với giáo viên yếu là cô Nông Thị Rong- do trình độ chuyên môn chưa đạt chuẩn,
kiến thức văn hoá hạn chế. Là người dân tộc thiểu số lại lớn tuổi nên khó khăn trong
việc nhận thức, thay đổi để thực hiện các phương pháp dạy học mới. Nhưng lại rất
nhiệt tình, chịu khó, có năng khiếu thể dục. Vì vậy chúng tôi bồi dưỡng cho cô theo
hướng phát triển năng khiếu của mình. Đồng thời dành nhiều thời gian cho cô Rong đi
dự giờ những giáo viên dạy tốt. Đề nghị cô trong dự giờ phải ghi nhận cụ thể từng
điểm, từng phương pháp, hình thức tổ chức mà mình cần học hỏi. Qua đó, tự soạn một
bài cụ thể với sự trao đổi, góp ý của tổ khối trưởng, chuyên môn nhà trường.
Với giáo viên yếu còn lại là cô Lê Thị Thủy , cô rất chịu học hỏi, nhiệt tình, chịu
khó nhưng do trình độ nhận thức hạn hẹp nên không biết đánh giá, phân tích và nhận
định các vấn đề, chưa chọn lọc được các vấn đề để học hỏi. Vì vậy chúng tôi kèm cặp
cô theo hướng cùng cô tham gia vấn đề, phân tích nhận định vấn đề đó, chọn lọc những
vấn đề cần học theo và những vấn đề nào cần rút kinh nghiệm, rút kinh nghiệm như thế

nào? Aùp dụng cho bản thân như thế nào?....
Ngoài ra, với các giáo viên đạt mức độ yếu và trung bình, chúng tôi tổ chức các
buổi thao giảng mẫu theo chuyên đề qua các bước sau:
- Cử giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn vững soạn bài mẫu,
giảng mẫu và tổ chức cho các giáo viên khác tham dự, thảo luận tiết dạy, rút kinh
ngiệm, triển khai chuyên đề.
- Từ kinh nghiệm của bài dạy mẫu, ban giám hiệu yêu cầu 9 giáo viên trên chọn
bài dạy theo chuyên đề. Soạn giáo án và trao đổi với đồng nghiệp. Sau đó xếp lịch cho
họ thao giảng. Tập trung giáo viên rút kinh nghiệm giờ dạy, chỉ ra những điểm mỗi
giáo viên đã làm được, điểm nào giáo viên nào chưa làm được và cần thực hiện như thế
nào.
- Tiếp tục cho giáo viên này soạn giảng bài khác nằm trong chuyên đề đã triển
khai. ( Khi soạn lưu ý những điều đã rút kinh nghiệm trong tiết dạy trước để sữa chữa,
bổ sung).
- Ban giám hiệu xem xét xếp lịch cho giáo viên thao giảng – dự giờ nhận xét tiết
dạy.
Cứ như vậy, lần lược triển khai từng chuyên đề một. Những giáo viên đó sẽ nắm
chắc hơn các hoạt động trên lớp, qui trình dạy các kiểu bài, các phân môn đỡ lúng túng
khi hướng dẫn tiết học và tiết học sẽ đạt hiệu quả hơn.
Với việc làm này thì không những chỉ bồi dưỡng cho giáo viên trung bình và yếu
mà những giáo viên có chuyên môn nghiệp vụ khá giỏi cũng có thêm những kinh
nghiệm, những phương pháp, hình thức tổ chức hay để bổ sung thêm vốn năng lực sẵn
có của mình.
Với những giáo viên năng lực và kiến thức còn hạn chế thì trong kế hoạch soạn
giảng hằng ngày yêu cầu giáo viên này phải thể hiện rõ các hoạt động trên lớp: Tên
hoạt động là gì? Mục tiêu mà hoạt động đó cần đạt được? Các bước tiến hành ra sao?
Dùng phương pháp gì? Hình thức tổ chức như thế nào? … và yêu cầu giáo viên soạn rõ
những lời cần chốt; những bài giải đúng; những câu kết luận mà giáo viên kết luận lại
trong bài giảng của mình trên lớp. Ban giám hiệu, tổ khối trưởng và những giáo viên
nòng cốt có nhiệm vụ giúp đỡ, kèm cặp sẽ xem xét, kí duyệt kế hoạch giảng dạy của họ

để điều chỉnh kịp thời những sai sót.
Qua quá trình bồi dưỡng chúng tôi rút ra thêm một số kinh nghiệm sau:
19


- Phải lập kế hoạch chi tiết, cụ thể từng giáo viên một theo từng tháng, năm học
hay một giai đoạn.
- Phải có sự đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm sau từng chuyên đề, tháng,
năm hay quá trình bồi dưỡng của một giáo viên.
Tóm lại:
Việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên cần phải nắm rõ từng loại đối
tượng. Phải xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết theo từng năm, từng giai đoạn. Khi
xây dựng kế hoạch cần phân tích những mặt mạnh, mặt yếu của từng đối tượng
giáo viên. phải nắm được họ mạnh cái gì để phát huy và yếu cái gì để bồi dưỡng. Tất
cả đều phải qua một quá trình và phải khơi dạy sự cố gắng, phấn đấu của giáo viên.
Người cán bộ quản lí cần xác định, tạo điều kiện kích thích để hoạt động
giảng dạy của giáo viên có hiệu quả, thể hiện bản chất, nhân cách cần thiết, sáng
tạo trong kế hoạch, uy tín trong chuyên môn, có đạo dức, nghiêm túc trong công
việc, lối sống, chân tình, dân chủ đảm bảo sự thống nhất trong nội bộ nhà trường.
3. Nâng cao chất lượng chuyên môn.
3.1. Đề ra một số biện pháp quản lí nhà trường nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ giáo dục:
- Thực hiện dân chủ hoá các hoạt động trong nhà trường: Tạo môi trường dân
chủ để tất cả mọi người đều có quyền tham gia quản lí và giải quyết các công việc của
nhà trường với phạm vi và đối tượng cụ thể. Tổ chức quán triệt thực hiện quy chế dân
chủ trong hoạt động nhà trường, xây dựng quy chế nội bộ( Nội quy nhà trường; Quy
chế tổ chức và hoạt động của nhà trường; Quy chế dân chủ về tài chính và sử dụng tài
sản chung của nhà trường; Quy chế thực hiện dân chủ trong công tác tuyển dụng, đào
tạo, khen thưởng, kỹ luật và nhận xét đánh giá cán bộ công chức hằng năm; Quy chế
nếp sống văn hoá của cơ quan)

- Thực hiện phân cấp trong quản lí nhà trường và quản lí chuyên môn. Phát huy
vai trò trách nhiệm của các tổ chức trong nhà trường tham gia thực hiện đổi mới giáo
dục tiểu học.
- Tạo động lực cho cán bộ, giáo viên, học sinh thực hiện tốt chương trình giáo
dục bằng các quy định, các chế độ và biện pháp quản lí ( hành chính, kinh tế, tâm lí,…)
Với những việc làm trên giáo viên sẽ thấy thoải mái, tự do dân chủ, thấy được vị
trí, vai trò của mình từ đó phát huy khả năng và phấn đấu hơn trong công việc cũng
như tự học hỏi, bồi dưỡng thêm về chuyên môn nghiệp vụ của mình.
3.2.Đề ra một số biện pháp quản lí hoạt động dạy của giáo viên:
3.2.1.Xây dựng các quy định về quản lí dạy học của nhà trường:
- Nội quy, quy chế dạy học: Giáo viên không được đến lớp trể quá 5phút và ra về
sớm trước 5phút. Trong quá trình dạy không được ngồi một chỗ trên bàn giáo viên,
không được làm việc riêng, không được túm tụm nói chuyện trong giờ dạy. Thường
xuyên chấm điểm, kiểm tra bài vở của học sinh. Lên lớp phải có kế hoạch giảng dạy
soạn trước 1 tuần, phải sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy, không được dạy
chay,…
- Các quy định về động viên tinh thần, vật chất trong hoạt động dạy học: Theo
dõi, tổng hợp việc thực hiện qui chế vào xét thi đua hàng tháng, cuối kì, cuối năm
người nào thực hiện tốt được tuyên dương, khen thưởng. Người nào thực hiện không
tốt thì bị kiển trách…
20


- Xây dựng các quy định về sinh hoạt chuyên môn: Một tháng sinh hoạt chuyên
môn 1 buổi, tổ khối 2 buổi. Trong buổi sinh hoạt chuyên môn chúng tôi đi sâu vào
chuyên môn như tổ chức hội giảng, dạy mẫu, mở chuyên đề, đưa ra những vướng mắc
trong quá trình thực hiện chương trình nội dung sách giáo khoa và bàn bạc hướng, cách
giải quyết các vướng mắc đó, bàn sâu về phương pháp dạy từng bài cụ thể trong
chương trình,…Còn công tác đánh giá, xét thi đua, lên kế hoạch hoạt động tôi đưa vào
triển khai trong cuộc họp hội đồng vào đầu tháng. Về sinh hoạt tổ khối thì chúng tôi

yêu cầu cụ thể: 1 buổi vào tuần 2 và 1 buổi vào tuần 4 của tháng. Buổi đầu tổ chức thao
giảng 2 tiết, nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm tiết dạy. Tiếp theo khối trưởng sẽ
thông qua kế hoạch hoạt động của tháng. Sau đó thảo luận, đi sâu vào chuyên môn.
Buổi thứ hai tổ chức thao giảng, góp ý giờ dạy 2 tiết. Sau đó xét thi đua của các thành
viên. Sau nữa là bàn sâu về các bài dạy của các môn trong chương trình hay triển khai
chuyên đề,… Một tháng mỗi giáo viên thao giảng ít nhất 1 tiết, dự giờ 3 tiết . Yêu cầu
giáo viên tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chuyên môn. Trong sinh hoạt chuyên môn
phải thực hiện các nhiệm vụ nhà trường phân công; không được nói chuyện riêng; tham
gia đóng góp ý kiến của mình; nhận xét, phân tích các ý kiến của các đồng nghiệp để
rút kinh nghiệm.
3.2.2.Quản lí các hoạt động trước khi dạy:
- Sinh hoạt chuyên môn: Xem giáo viên đó sinh hoạt chuyên môn, tổ khối có đầy
đủ không? Trong sinh hoạt có tích cực, nhiệt tình đóng góp ý kiến xây dựng hay
không? Có rút kinh nghiệm cho bản thân mình qua những lần sinh hoạt trước không?...
- Chuẩn bị bài dạy: Bài dạy được chuẩn bị như thế nào? Soạn trước 1 tuần chưa?
Trong soạn có đầu tư nghiên cứu phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với
đối tượng học sinh lớp mình không? Chuẩn bị có chu đáo trước khi dạy không? Việc
chuẩn bị đồ dùng học tập như thế nào?...
- Tư vấn cho giáo viên về nội dung, phương pháp và xây dựng kế hoạch bài học.
3.2.3. Quản lí các hoạt động trong khi dạy:
- Dự giờ, thăm lớp xem giáo viên thực hiện tiết dạy như thế nào? Có thành công
hay không? Nề nếp học sinh ra sao? Qua đó cũng đánh giá được sự chuẩn bị trước khi
dạy của giáo viên.
- Kiểm tra kế hoạch dạy học: Xem kế hoạch có thực hiện đúng theo yêu cầu
không? Có mang đến lớp để dạy không? Trong kế hoạch nội dung có cụ thể, rõ ràng
không? Có thể hiện rõ hình thức tổ chức, phương pháp dạy học chưa? Có phù hợp với
đối tượng học sinh không? Từ đó yêu cầu điều chỉnh kịp thời.
3.2.4. Quản lí các hoạt động sau khi dạy:
Sau khi dự giờ thăm lớp hay sau buổi dạy của giáo viên, chúng tôi xem lại các
sản phẩm của giáo viên( như kế hoạch giảng dạy, đồ dùng dạy học,…). Đánh giá kết

quả học tập của học sinh đạt ở mức độ nào( bằng cách ra các bài tập đánh giá nhỏ hay
kiểm tra kết quả sau một giai đoạn học tập). Đồng thời kết hợp với những ý kiến, dư
luận của đồng nghiệp, của tổ trưởng chuyên môn để có biện pháp quản lí, chỉ đạo, bồi
dưỡng phù hợp hơn.
3.3.Giao kế hoạch, kí kết giao ước cụ thể:

21


Giao kế hoạch cụ thể đến tận từng giáo viên. Bên cạnh kế hoạch chung của nhà
trường, của từng khối cũng cần xác định nhiệm vụ cụ thể của từng lớp để giao việc có
hiệu quả và có kế hoạch chi tiết mà giáo viên phải tự xây dựng cho mình.
+ Về chỉ tiêu phấn đấu của lớp: Số lượng; chất lượng giáo dục; công tác chủ
nhiệm; nề nếp;….Mức phấn đấu của bản thân….Lưu ý cụ thể là kế hoạch tự nâng cao
chất lượng giảng dạy.
+ Kế hoạch nâng cao tay nghề: Giảng dạy không chỉ là theo chương trình, kế
hoạch mà còn thể hiện, áp dụng những biện pháp thay đổi, đổi mới như thế nào qua tiết
dạy cụ thể. Việc này đòi hỏi mỗi giáo viên phải tự đặt ra cho mình phải cùng tổ khối
thao giảng vấn đề gì? Bản thân giáo viên thể hiện cái gì để đồng nghiệp đóng góp, kết
luận qua tiết dạy. Bản thân sẽ học được gì qua việc mình đã thể hiện ở tiết thao giảng.
Do đó, mỗi giáo viên phải tự đặt ra cho mình kế hoạch: Trong mỗi môn, mỗi
phân môn sẽ học hỏi được khía cạnh nào nhằm tự hoàn chỉnh phương pháp và ứng
dụng việc tổ chức tiết học, nề nếp, hình thức như thế nào để việc tự nâng cao chất
lượng giảng dạy hiệu quả hơn, thiết thực hơn.
Phải coi trọng kế hoạch, chỉ tiêu dự giờ: Thể hiện dự giờ không phải là đối phó
mà còn vì kế hoạch tổ, kế hoạch khối. Không chỉ dự giờ trong khối mà phải dự giờ toàn
cấp. Không chỉ dự giờ học tập giáo viên giỏi hơn mà cần có tính động bộ. Phải thấy rõ
mỗi giờ dạy không chỉ có cái hay mà có cái chưa hay và ngược lại. Khi dự giờ các giáo
viên có phương pháp chưa được chuẩn, yêu cầu đồng nghiệp phải thẳng thắn xây dựng,
rút kinh nghiệm cho bản thân. Và trong mỗi tiết dạy mặc dù có va vấp phương pháp

nhưng vẫn có những bước cần phát huy và học hỏi.
Giao cho mỗi giáo viên trung bình, yếu phải mở một chuyên đề để họ thử sức
3.4.Thao giảng, dự giờ thường xuyên:
Với kế hoạch thao giảng, dự giờ cụ thể phải có kế hoạch chỉ đạo xây dựng, rút
kinh nghiệm trọng tâm và khái quát hoá thành hệ thống nhằm ứng dụng, nâng cao
phương pháp tích cực đối với từng phần trong từng bài học, từng môn học.
Lúc này, lưu ý nhiệm vụ của giáo viên nòng cốt là dẫn dắt tập trung, chỉ đạo
chuyên môn có định hướng. Nhất là những đột phá mới trong việc ứng dụng phương
pháp tích cực thể hiện ở tiết dạy không gò bó, sắp đặt hay rập khuôn. Việc thực hành
cuả học sinh sẽ thoải mái, phấn khởi hơn.
Cần lưu ý xây dựng kế hoạch thao giảng chuyên đề. Trong năm học phải tập
trung đầu tư sâu hơn trong tiến trình uốn nắn và tập hợp những biện pháp nâng cao chất
lượng phổ biến đến mỗi giáo viên. Đồng thời khối trưởng phải phát huy tính chủ động,
tính dân chủ trong việc xây dựng kế hoạch thao giảng. Khối trưỡng phải phát huy khả
năng của mình tự phát hiện thêm những điểm chung của từng môn, từng phân môn. Rồi
đề ra kế hoạch thao giảng chuyên đề phù hợp với năng lực giáo viên khối mình. Tuy
nhiên ban giám hiệu phải có định hướng chung cho mỗi khối. Và xây dựng kế hoạch
bồi dưỡng cụ thể cho giáo viên trung bình, yếu.
Mở các chuyên đề tập trung đầu tư sâu hơn trong tiến trình giảng dạy từng dạng
bài, áp dụng từng phương pháp một cách có hiệu quả, phát huy tính chủ động sáng tạo
của giáo viên, đồng thời giáo viên biết hướng dẫn cho học sinh tự học.
Thường xuyên kiểm tra đột xuất để thúc đẩy sự đầu tư chuẩn bị của giáo viên
còn lơ là trong công tác giảng dạy, cho giáo viên còn rụt rè tiếp xúc, cọ sát nhiều để họ
mạnh dạn hơn.
22


3.5.Tích luỹ kinh nghiệm:
Khi dự giờ, thao giảng chúng ta phải vận dụng kinh nghiệm mình có được, tập
hợp tất cả các ý kiến của các đồng chí chung quanh, lắng nghe cả những giáo viên

mình cho là yếu nhất để rồi thống nhất phương pháp chung, phát huy yếu tố tốt nhất
trong tiết dạy. Kết luận của người quản lí, chỉ đạo cũng có sự phản biện, nhận xét
ngược lại của tập thể, nhất là giáo viên có kinh nghiệm lâu năm và cả những vướng
mắc chưa thấu đáo của giáo viên còn trẻ, ít kinh nghiệm trong giảng dạy.
Không chỉ góp ý chung bằng lời, cán bộ quản lí phải chỉ ra được những điểm
hay, những thiếu sót của giáo viên. Công việc này không chỉ một lần vì giáo viên khi
giảng dạy một môn, một tiết đã có thói quen từ lâu, cán bộ quản lí lãnh đạo cần tích cực
tham gia góp ý một cách cụ thể như góp ý về phong thái sư phạm, cách trình bày bảng,
trình bày và sử dụng đồ dùng trực quan, việc áp dụng phương pháp tích cực, tập trung
vào học sinh, hình thức tổ chức….Điều chủ chốt là làm thế nào để học sinh hoạt động
tích cực, tự giác, sáng tạo và có thái độ ứng xử, có hành vi tốt phát huy tiềm năng mỗi
cá nhân, tiết thu tốt các tiết học và hiệu quả nhất là qua đó giúp giáo viên tự nâng cao
trình độ của mình.
Tóm lại:
Phát triển, nâng cao chất lượng chuyên môn giáo viên trong giai đoạn hiện
nay là đáp ứng việc dạy học có hiệu quả chương trình tiểu học mới. Muốn vậy,
người cán bộ quản lí phải dân chủ hoá quản lí nội bộ trường học gắn liền với sự
hình thành và hoạt động tích cực của các tổ chức tự quản của giáo viên và học sinh.
Phát huy tính chủ động theo chức năng và nhiệm vụ của các tổ chức chính trị – xã
hội trong nhà trường, tham gia vào các hoạt động của trường. Người giáo viên tiểu
học cần rèn luyện năng lực chuyên môn vững vàng dựa trên phương pháp học tập
tích cực của mỗi giáo viên với sự hướng dẫn của ban giám hiệu và đồng nghiệp.
Tác động chuyển hoá nhận thức về phương pháp dạy và học trong đội ngũ
giáo viên là việc làm cơ bản. Trong đó người cán bộ quản lí nếu biết phát huy tiềm
năng của giáo viên, tạo được điều kiện để giáo viên trong nhà trường tự giác, điều
chỉnh học hỏi để tiến bộ. Đây là một quá trình phức tạp, phải tạo ra cách tiếp cận
cho đội ngũ giáo viên, loại bỏ tư tưởng cầm chừng, bình quân, chủ nghĩa hình
thức…Giáo viên phải ý thức việc thao giảng, dự giờ, tích luỹ kinh nghiệm cho bản
thân mình là trách nhiệm cá nhân với tinh thần tự giác cao. Trách nhiệm cộng đồng
cùng giúp nhau tiến bộ, xây dựng không khí sư phạm thân ái làm việc.

Xây dựng kế hoạch, chương trình tự học một cách cụ thể về các hoạt động
chuyên môn, xây dựng được các tiết chuẩn trong đổi mới cách dạy là cần thiết. Và
phải biết rút ra điều gì chung, đút rút các vấn đề gì còn vướng mắc cần tháo gỡ,
thống nhất điều gì là đặc trưng riêng biệt của từng phần, từng tiết học hoặc từng
môn học.
Phải đẩy mạnh phong trào thao giảng, dự giờ trong toàn trường mang tính
phát triển, đại trà, liên tục,…Không chỉ dừng lại trong một năm mà năm này qua
năm khác. Có tích luỹ và bổ sung, có đút rút qua sơ kết, tổng kết. Ngoài ra cũng cần
chú ý đến điều kện thực tế tại đơn vị ( cơ sở vật chất, điều kiện học sinh, trình độ

23


giáo viên, sự phố hợp giữa nhà trường với phụ huynh học sinh,…) để bồi dưỡng,
nâng cao chất lượng chuyên môn có khoa học.
4. Quản lí chỉ đạo việc tự học, tự đào tạo.
Muốn hoàn chỉnh kiến thức, năng lực chuyên môn cho giáo viên, cán bộ chỉ
đạo không thể tự làm được mà phải tạo điều kiện và động viên giáo viên tự học hoặc
tham gia các khoá đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân là điều rất
cần thiết.
Yếu tố đầu tiên quyết định đến trình độ của người giáo viên là trình độ học vấn.
Vì vậy người giáo viên trước hết phải tự nâng cao trình độ học vấn của mình, sau đó
nâng cao năng lực sư phạm bằng nhiều biện pháp như:
4.1.Học qua sách vở, tài liệu có sẵn:
Việc học tuy đơn giản nhưng phải có kế hoạch và có thể hiện qua sổ tự học tự
rèn. Việc tự học được thực hiện qua việc nghiên cứu các tài liệu chuyên môn, các
chuyên đề mới, các báo giáo dục thời đại. Giáo viên phải ghi chép lại những điều mình
học hỏi một cách cẩn thận cả về kiến thức văn hoá lẫn chuyên môn nghiệp vụ. Các văn
bản sát thực tế ban giám hiệu cần gợi ý cho giáo viên nghiên cứu.
Khuyến kích giáo viên nối mạng để khai thác các thông tin trên mạng phục

vụ cho công tác tự học và giảng dạy của mình.
Do đặc tính đào tạo và cả đặc tính địa phương, giáo viên có thể chưa biết ứng
dụng những việc đổi mới phương pháp giảng dạy vào tiết dạy. Do đó cần phải có sự
giúp đỡ để giáo viên biết điều gì cần ứng dụng.
Chẳng hạn: Sau khi triển khai các chuyên đề về nội dung, chương trình sách
giáo khoa của từng khối lớp. Tôi trực tiếp cho giáo viên xem băng hình minh hoạ tất cả
các dạng bài đặc trưng của từng môn. Quá trình chiếu băng hình minh hoạ giáo viên cả
trường cùng xem, sau đó trao đổi, bàn bạc có đối chiếu với đặc trưng của môn học đó ở
các khối lớp. Có sự so sánh giữa các khối lớp và đối chiếu với điều kiện thực tế của
trường mình xem cái nào có thể áp dụng, vận dụng được và vận dụng như thế nào để
thể hiện một cách linh hoạt và đạt hiệu quả cao. Ơû đây một cá nhân hay ban giám hiệu
không thể nào nhìn ra hết trọn vẹn những điểm nổi bật, sự đối chiếu để đi đến thống
nhất những điều cần lưu tâm học hỏi, ứng dụng. Điều cần thiết là có sự thắc mắc của
nhiều giáo viên đang trực tiếp đứng lớp, kể cả những giáo viên có nhiều kinh nghiệm
trong nghề đều phải có những buổi thảo luận cụ thể và thiết thực.
Mỗi giáo viên yêu cầu phải có một quyển sổ nghiên cứu chuyên môn để ghi
chép những điều mình học được, học như thế nào, những đúc rút kinh nghiệm qua
những lần thao giảng, dự giờ. Phải thường xuyên rèn chữ viết để trình bày hồ sơ và
bảng. Thực hiện viết chữ theo mẫu chữ mới chuẩn để áp dụng vào giảng dạy và rèn học
sinh thực hiện phong trào “Vở sạch chữ đẹp”.
Với các kiến thức khác, thông qua sách giáo viên và sách giáo khoa giáo viên
nghiên cứu kĩ để thực hiện giảng dạy có hiệu quả. Kết hợp với các kiến thức bên ngoài,
các tài liệu tham khảo giáo viên phải biết vận dụng vào giảng dạy để thực hiện tiết dạy
sinh động và cụ thể hơn.
4.2.Tự học qua trao đổi và thực tế:
Việc trao đổi thường xuyên của khối qua các buổi sinh hoạt, các hoạt động tập
thể giúp cho giáo viên gắn bó nhau hơn và những góp ý tự nhiên, nhẹ nhàng đó là hiệu
quả giúp cho giáo viên tự bổ sung, hoàn thiện cho mình.
24



4.3.Tự học qua việc tham gia các lớp đào tạo:
Khuyến khích và tạo điều kiện để giáo viên tham gia học các lớp ĐHTX, ĐHTC,
CĐLT, chứng chỉ Vi tính, Anh văn, các lớp sơ cấp, trung cấp Chính trị để tự nâng cao
chuẩn.
Trong những năm vừa qua, PGD-ĐT đã cử một số lượng giáo viên đáng kể đi
học các lớp CĐLT, ĐHTC, ĐHTX, Trung cấp chính trị và đã cử nhiều cán bộ quan lý
đi bồi dưỡng Cán bộ quản lý.
Nhà trường cũng đã liện hệ với Trung tâm Giáo dục thường xuyên, Trung tâm tin
học, ngoại ngữ mở các lớp Anh văn, Vi tính tại chỗ để kêu gọi, lôi cuốn giáo viên đi
học nâng cao trình độ của mình.
Hiện tại: trường có 7 giáo viên đang theo học ĐHTH hệ tại chức.
9 giáo viên đang theo học ĐHTH hệ từ xa.
9 giáo viên đang theo học chứng chỉ A vi tính.
5 giáo viên đang theo học chứng chỉ A anh văn.
Tóm lại: Nhu cầu phát triển đòi hỏi người giáo viên và nhà trường phải phấn
đấu nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên trường
mình cũng như của bản thân. Nhưng không phải một lúc mà hoàn thành tất cả chất
lượng chuyên môn đào tạo một cách thống nhất. Đồng thời cũng khó thay đổi năng
lực chung của nhiều thế hệ, nhiều hệ đào tạo trong nhà trường. Người cán bộ quản
lí phải biết vận dụng điều kiện thực tế của trường mình nhằm giúp đỡ đội ngũ tự
hoàn thiện mình, nâng cao dần tính đồng bộ chuyên môn nghiệp vụ.
Giải pháp đào tạo bồi dưỡng giáo viên trong nhà trường cần có kế hoạch để
tất cả giáo viên nâng lên đạt chuẩn và trên chuẩn là một việc làm thường xuyên.
Giáo viên phải luôn tự ý thức nâng dần trình độ chuyên môn của mình. Ban giám
hiệu phải xây dựng được kế hoạch bồi dưỡng trước mắt và lâu dài căn cứ vào đặc
điểm đội ngũ giáo viên, nhằm khắc phục những thiếu sót, mặt yếu của mỗi một giáo
viên, hoàn thiện dần kế hoạch bồi dưỡng. Việc làm này phải thường xuyên và có
chú ý đến trình độ, nhu cầu của cá nhân để xác định nội dung, hình thức, phương
pháp tiến hành bồi dưỡng. Phải có nhiều hính thức bồi dưỡng: nề nếp chuyên môn;

kèm cặp rèn nghề; hội thi; báo cáo chuyên đề; tự học có định hướng; trong sinh
hoạt chuyên môn; qua các phong trào dự giờ, thao giảng, thi giáo viên giỏi, thi hồ
sơ tốt,…Khuyến khích, động viên và tham mưu để giáo viên theo học các lớp tập
trung.
Tham gia học tập, bồi dưỡng và sinh hoạt các chuyên đề là việc làm thường
xuyên nhằm không ngừng nâng cao nâng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phấn
đấu, rèn luyện để hoàn thiện mình, đáp ứng được yêu cầu về chất lượng giảng dạy
và giáo dục
5. Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh việc bồi dưỡng:
Ban giám hiệu luôn có kế hoạch kiểm tra, đánh giá và đề ra các biện pháp thích
hợp để uốn nắn, bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Phát hiện mặt tốt, khắc phục yếu kém.
Từng bước nâng cao năng lực mọi mặt cho giáo viên.
Cần có kế hoạch kiểm tra cụ thể mọi hoạt động của đội ngũ giáo viên trong hoạt
động dạy học ở trường. Theo dõi sát việc thực hiện nội dung chương trình, kế hoạch
dạy học, thời khoá biểu, quỹ thời gian lên lớp, tiến độ thực hiện việc tự điều chỉnh và
đổi mới phương pháp. Ngoài ra còn theo dõi việc xây dựng nề nếp cho học sinh, thực
25


×