Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

SKKN rèn kỹ năng đọc cho hs lớp 1 theo CT công nghệ giáo dục doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.59 KB, 9 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGỌC HỒI
TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM ĐỒNG
------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1 THEO
CHƯƠNG TRÌNH CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC

NGƯỜI THỰC HIỆN: TRẦN THỊ LƯƠNG
TỔ/KHỐI: 1, 2
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM ĐỒNG

1


Năm học: 2014 - 2015
MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
- Hiện nay, trong Trường Tiểu học Kim Đồng, thuộc xã Đăk Ang mà Tôi đang
trực tiếp giảng dạy đa số các em là đối tượng học sinh dân tộc thiểu số vùng sâu vùng
xa, là một Xã đặt biệt khó khăn của huyện Ngọc Hồi nên việc học tập của các em học
sinh cũng gặp nhiều hạn chế.Vì các em còn nhỏ chưa nhận thức được việc học, cha
mẹ thì ít quan tâm đến vấn đề học tập của con em mình. Vì vậy, khả năng đọc của các
em còn nhiều hạn chế, đọc chậm, đa phần là vừa đọc vừa đánh vần, đặc biệt là lứa
tuổi tiểu học. Nguyên nhân là do sự vay mượn tiếng Việt vì phần lớn các tiếng dân
tộc thiểu số đều phải vay mượn tiếng Việt để diễn đạt, thói quen này đã phần nào làm
cho sự phát âm của các em trở nên khó điều chỉnh.Về kỹ năng nói, do ngại giao lưu
và mặc cảm giao tiếp nên kỹ năng nói của học sinh phát triển chậm. Khi nói các em
thường dùng sai cấu trúc hay đảo ngược cấu trúc của tiếng Việt. Và chúng tôi thấy
rằng học sinh mắc lỗi ở tất cảc các bộ phận của chính tả tiếng Việt từ thanh điệu đến


phụ âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối, trong đó lỗi về âm chính là nhiều nhất.
Mà khi phát âm như thế nào thì HS sẽ viết như thế ấy, sự mắc lỗi này thuộc về nhiều
nguyên nhân khách quan cũng có mà chủ quan cũng có.
- Như vậy, làm như thế nào để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1, giúp các em
tự tin, tích cực hơn trong việc học là một nỗi niềm trăn trở của người giáo viên.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Bộ SGK Tiếng Việt Lớp 1 CNGD (3 tập)
- Sách thiết kế Tiếng Việt Lớp 1 CNGD (3 tập)
- Học sinh lớp 1B Trường Tiểu học Kim Đồng.
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lí luận:
- Dạy học chương trình Tiếng Việt lớp 1 – Công nghệ giáo dục là chương trình
hiện đại phù hợp với xu thế phát triển giáo dục. Chương trình này góp phần nâng cao
vai trò, vị trí của người dạy. Sau thời gian triển khai thực hiện chương trình, chất
lượng dạy học Tiếng Việt lớp 1 có chuyển biến đáng kể, tỷ lệ học sinh hoàn thành tốt
tăng, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành giảm rõ rệt.
- Việc tổ chức daỵ học không mang tính áp đặt, học sinh được thực hiện các hoạt
động nên đã phát huy được tính tích cực chủ động của các em. Đặc biệt là dạy học
Tiếng Việt lớp 1 – Công nghệ giáo dục đã đáp ứng vấn đề đổi mới phương pháp dạy
học; “thầy thiết kế – trò thi công”, lấy học sinh làm trung tâm.
- Nhờ thực hiện tốt công tác chỉ đạo nên việc dạy và học Tiếng Việt đã mang lại
những hiệu ứng tích cực. Và điều đặc biệt dạy theo tài liệu Tiếng Việt 1 – CNGD, GV
không phải soạn bài nên dành nhiều thời gian để nghiên cứu, thiết kế bài soạn.
- Các đồ dùng trực quan phục vụ cho giảng dạy cũng đơn giản và dễ kiếm. Tiến
trình giờ dạy nhẹ nhàng, tự nhiên. Về phía HS, học theo chương trình này, HS có cảm
giác học mà chơi, chơi mà học phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi. Các em được học
viết trước, học đọc sau nên HS đọc được chữ mình đã viết.
- Chương trình phát huy được khả năng tư duy của HS, giúp các em mạnh dạn tự
tin tham gia các hoạt động học tập. Các GV trực tiếp giảng dạy nhận thấy HS nắm
2



chắc được cấu tạo ngữ âm, phân tích ngữ âm đúng và có kỹ năng ghi mô hình nhanh,
chính xác và thành thạo.
- Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu
còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em đọc
đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng,
từ, câu mà các em viết.
- Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của
kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện ban đầu là nhận
biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái
với vần thành tiếng ,đọc từ và kết quả khi học sang quyển 3 HS có khả năng đọc câu
sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một đoạn thơ ngắn vv…
2. Thực trạng vấn đề:
- Trong phạm vi cơ sở trường học và tình hình đia phương nơi công tác, tôi đã
gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
* Giáo viên:
- GV, CBQL được tập huấn chương trình CNGD lớp 1, quán triệt chủ trương đưa
công nghệ Tiếng Việt vào lớp Một là hoàn toàn đúng đắn.
- Các cấp lãnh đạo (Phòng, Sở) và BGH nhà trường quan tâm chỉ đạo, dành mọi
điều kiện tốt nhất cho khối lớp 1 (đội ngũ, CSVC) thường xuyên kiểm tra, tổ chức
chuyên đề, hội thảo, giao lưu rút kinh nghiệm các trường trong cụm chuyên môn.
- Giúp GV nâng cao trình độ và năng lực nghiệp vụ sư phạm.
- Giúp GV đổi mới phương pháp một cách triệt để.
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức
bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức
những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay,
những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
* Học sinh:

- HS rất hứng thú với chương trình công nghệ, các em nghe và hiểu được hiệu
lệnh, hiểu được lời nói của GV. Nhiều em trả lời được rành mạch, nói đủ câu rõ ràng.
- HS có khả năng giao tiếp, mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập và thực hành cũng
như giao tiếp với thầy cô và bạn bè.
- HS nắm chắc về ngữ âm, về luật chính tả, đọc tốt, viết tốt.
b. Khó khăn:
- Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó
khăn sau:
* Giáo viên:
- Do bất đồng ngôn ngữ giữa giáo viên và học sinh.
- Do đổi mới chương trình SGK mới nên giáo viên cũng gặp khó khăn trong việc
nghiên cứu nội dung bài dạy và việc truyền đạt kiến thức trên lớp.
- Giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy học nhằm phát huy tính tích cực lấy học
sinh làm trung tâm ở môn Tiếng Việt 1 CNGD. Khi tổ chức dạy học sinh ở phân môn
này còn lúng túng chưa mang lại hiệu quả cao.
- Chưa định hướng cách học cho học sinh nên khi tìm hiểu về vần học sinh chưa
có cách học chủ động, tích cực và sáng tạo, chưa có nhiều thời gian cho HS rèn kỹ
3


năng nói, đọc ... Điều này làm hạn chế kết quả nhận thức của HS, đặc biệt là học sinh
dân tộc.
* Học sinh:
- 100 % HS đều là con em dân tộc thiểu số. Vốn Tiếng việt của các em còn hạn
chế.
- Bất đồng ngôn ngữ giữa GV và HS nên trong quá trình tiếp thu bài học sinh còn
gặp khó khăn.
- Các em từ trường mầm non lên nên chưa thuộc hết bảng chữ cái, chưa bắt nhịp
được môi trường học tập mới. Các em còn rụt rè, chưa đọc thông viết thạo.
- Trước đây, học hết 16 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép vần thành

âm, tiếng, từ học sinh chỉ đọc bài dài 21 tiếng. Nay hết 16 tuần, học sinh đã phải đọc
những bài dài tới 90 tiếng. Với những lớp có học sinh chưa hoàn thành, giáo viên rất
vất vả nếu chẳng may bị ốm phải nghỉ một vài buổi thì sẽ không nắm được.
3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
- Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện
pháp sau:
3.1: Phân loại đối tượng học sinh:
+ Chuẩn bị nghiên cứu kĩ phần kế hoạch dạy học là việc làm không thể thiếu đối
với bất cứ giáo viên nào khi đứng lớp, tuy nhiên giáo viên cần phải nghiên cứu, nắm
vững mục tiêu bài dạy, bám sát vào Phân phối chương trình, lịch báo giảng. Đặt ra
các hoạt động hợp lí thể hiện rõ hoạt động của giáo viên - học sinh, có hoạt động cho
đối tượng học sinh khá, giỏi, TB, yếu.
+ Chuẩn bị đồ dùng dạy học bám sát yêu cầu bài dạy, hệ thống câu hỏi phải rõ ý,
chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu.
+ Phân loại đối tượng HS theo nhóm và đặt tên nhóm khi tổ chức trò chơi.
+ Sắp xếp chỗ ngồi của học sinh trong lớp hợp lí.
+ Quan tâm khích lệ học sinh thường xuyên, tạo cơ hội để học sinh được chủ động
tích cực thông qua giờ học và thực hành.
3.2 Các điều kiện giúp học sinh đọc tốt :
- Có thể nói môn Tiếng Việt 1 CNGD là một môn học mới giúp học sinh nắm bắt
được vần trong Tiếng Việt, trong phần âm, vần là công cụ hỗ trợ đắc lực và không thể
thiếu chiếm tỉ lệ trọng yếu khi học môn Tiếng Việt. Vậy học sinh cần phải thuộc tất
cả các chữ cái, thì các em mới ghép và đọc được vần, tiếng, từ, câu, ngoài ra tạo cơ
hội cho học sinh có khả năng tư duy sáng tạo trong các tiết học, lấy học sinh làm
trung tâm, các em sẽ là người chủ động trong các tiết học như đọc trơn, đọc hay, phân
tích tốt.
- Do vậy khi dạy về phần vần giáo viên phải thực hiện được theo 4 việc thì học
sinh sẽ học được cách làm việc theo trí óc, khi thực hiện được theo 4 việc giáo viên
có thể huấn luyện kĩ năng viết cho học sinh theo 4 mức độ. Viết được, viết đúng, viết
đẹp, viết nhanh, học đâu chắc đó.

Việc 1: Học vần /oai/
1a. T giới thiệu vần mới
1b. Phân tích vần /oai/
1c. Tìm tiếng mới có vần /oai/
Việc 2: Viết
4


2a. Viết bảng con
2b. Viết vở “Em tập viết-CGD lớp 1”, tập hai.
Việc 3: Đọc.
Đọc chữ trên bảng lớp.
Đọc sách “Tiếng Việt – CNGD lớp 1”, tập hai.
Việc 4: Viết chính tả.
Viết bảng con.
Viết vở chính tả.
Ví dụ: Khi học mẫu 4 vần /oai/
Vần /oai/ học sinh phân biệt đâu là nguyên âm ? đâu là phụ âm ?.
Biết phân biệt đâu là âm đệm, đâu là âm chính, đâu là âm cuối: âm đệm /o/
chính /a/, âm cuối /i/.
Biết thêm âm đầu và kết hợp với các dấu thanh (có thể kết hợp với 6 thanh) : Kết
hợp với các dấu thanh để có các tiếng tương tự: xoai, xoài, xoái, xoải, xoãi, xoại.
Khi đọc các câu, từ (trong phần đọc ứng dụng) phải đọc trơn (giỏ nhà ai quai nhà
ấy, oai oái, khoan khoái, thoai thoải… hoặc là Bài: Sư Tử, Cáo và các loài thú),
không đánh vần từng tiếng, nếu học sinh không đọc được là do học phần trước không
kỹ, phải quay về các thao tác như những bài đầu.
* Khi dạy, bắt buộc giáo viên phải phát âm chuẩn, dùng từ chuẩn: khi nói các
em đọc âm.., vần.., tiếng…các em viết con chữ.., viết chữ..; âm cờ được ghi bằng con
chữ cờ (c), con chữ ka (k), con chữ cu (q); đánh vần: /ca/ - cờ -a - ca; /ke/ - cờ- eke ; /cua/ - cờ - ua - cua; /qua/ - cờ - oa - qua…
* Phân loại hệ thống cấu trúc vần gắn với luật chính tả:

- Ở giai đoạn này, học sinh được học cấu trúc vần - chữ theo nguyên tắc: phụ âm
ghép với nguyên âm để tạo thành tiếng (ma, mà, má, mạ…). Gồm 22 phụ âm và 11
nguyên âm (chỉ nguyên âm đơn, riêng khi dạy ở âm cờ có xuất hiện âm đệm u là
điểm để phân biệt với vần sau này), dạy Viếng Việt là dạy chữ ghi âm, nghe sao viết
vậy, học sinh phải được nhìn, nghe và luyện phát âm đúng (khi giáo viên phát âm
mẫu), điểm ngoại lệ là dạy những âm được ghi bằng hai, ba chữ cái: ch, kh, ng, ngh,
gh, nh, ph, th…(thường được dạy liền nhau để dễ phân biệt và gắn liền với luật
chính tả: c - ch; g - gh; ng - ngh), nếu học sinh không nhớ giáo viên phải nói ra các
âm được ghi bằng hai, ba chữ cái đồng thời thường xuyên cho học sinh nêu lại luật
chính tả: g/gh, ng/ngh: tương tự cấu trúc như với c và k, riêng đối với những trường
hợp như tr/ch; v/d/gi; r/d; s/x và các dấu thanh, đọc từ phiên âm tiếng nước ngoài,
cũng bắt đầu được dạy từ giai đoạn này (sẽ đề cập ở phần sau). Về các giai đoạn sau
này, nội dung dạy học cũng luôn được lặp lại, yêu cầu học sinh nhắc lại thường xuyên
khi học các mẫu 2,3,4,5.
- Về luật chính tả e,ê và i :
- Âm /cờ/ đứng trước âm /e/, /ê/ và /i/ đều phải ghi bằng con chữ k ( đọc là chữ cờ
ca ). VD: kí, kem, kiện, kể….
- Âm /gờ/ đứng trước âm /e/, /ê/ và /i/ đều phải ghi bằng con chữ gh ( đọc là chữ
gờ kép ). VD: ghi, ghé, ghền, ….
- Âm /ngờ/ đứng trước âm /e/, /ê/ và /i/ đều phải ghi bằng con chữ ngh ( đọc là chữ
ngờ kép ). VD: nghỉ, nghé, nghệ , ….
- Về luật chính tả âm đệm:
5


- Âm /cờ/ đứng trước âm đệm theo luật chính tả phải ghi bằng con chữ q ( đọc là
chữ cờ cu) và âm đệm viết bằng chữ u. VD: Vần /oa/ khi đi với con chữ /q/ khi đó sẽ
viết âm đệm là âm u và được tiếng /qua/ nhưng khi đọc vẫn đọc là /cờ/ - /oa/- /qua/
- Về luật chính tả nguyên âm đôi /iê/, /uô/,/ưa/:
- Nguyên âm đôi /iê/: khi vần không có âm cuối viết là /ia/ còn khi vần có âm cuối

viết là /iê/.VD: kia, đĩa, nia - chiến, tiết, miền….
- Nguyên âm đôi /uô/: khi vần không có âm cuối viết là /ua/ còn khi vần có âm
cuối viết là /uô/.VD: lúa, đũa, cua - khuôn, nuốt, chuột,….
- Nguyên âm đôi /ưa/: khi vần không có âm cuối viết là /ưa/ còn khi vần có âm
cuối viết là /ươ/.VD: lừa, nhựa, mưa - lươn, thướt, trượt,….
- Luật chính tả về phiên âm:
- Khi phiên âm tên người hoặc riêng nước ngoài phải viết hoa chữ đầu của tiếng
thứ nhất, giữa các tiếng co dấu gạch ngang. VD: Tên nước: Mat - xcơ - va, Oa – sinh
– tơn, Cam – pu – chia,…Tên người : Anh – xtanh, Tuốc – ghê – nhép, …..
- Nếu nắm chác được luật chính tả thì kĩ năng đọc và viết của HS sẽ thành thạo và
HS sẽ không bị lúng tung khi đọc và viết.
- Khi học giáo viên phải chú ý dạy phát âm đúng các vần (chủ yếu là cặp vần cùng
một bài), các tiếng chứa vần (những bài có số vần cần học nhiều chủ yếu là để học
sinh dễ so sánh, nhận biết, giáo viên có thể giãn ra thành nhiều tiết nhưng phải dạy
liền nhau).
- Như vậy, sau khi học 4 việc, học sinh đã được cung cấp bộ công cụ Tiếng Việt
(về kiến thức về cấu trúc ngữ âm, luật chính tả) và hình thành kỹ năng đọc và sử dụng
Tiếng Việt. Từ đó giúp các em đọc tốt hơn và sẽ thể hiện rõ nét khi HS được học sang
quyển tập 3.
3.3 Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh:
a. Thường xuyên thay đổi các hình thức học tập cho học sinh:
- Việc đổi mới phương pháp dạy học có thành công, hiệu quả hay không là một
phần phải có hình thức tổ chức học tập phong phú và đa dạng. Hình thức phải xây
dựng phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Do đó hình thức phù hợp thì tạo
nên tiết học sinh động, đạt hiệu quả cao và phát huy được tính cực tự học, chủ động
và tự sáng tạo của học sinh.
b. Kiểm tra, đánh giá, sửa sai trực tiếp cho HS:
- Ngoài việc nhận xét, đánh giá qua các bài kiểm tra định kỳ của HS. Giáo viên
nhận xét, sửa sai trực tiếp cho học sinh ngay tại lớp, trong các buổi học vừa giúp các
em nhận ra được lỗi sai, đồng thời giúp các em khắc phục những điểm chưa tốt, phát

huy được những điểm mạnh của mình.
c. Làm các dạng bài tập như điền phụ âm hoặc điền vần:
- Đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để giúp các em phát âm tốt
hơn.
Bài tập 1: Điền l hay n.
….o….ắng; …..o.....ê; ….í….ẽ; …..áo….ức.
Bài tập 2: Điền r, d, gi
….ộn….ã; …..ập….ờn; tháng….iêng.
Bài tập 3: Điền vần ăc, ăt hay ăp
m…..trời; m….áo; đôi m…..
6


- Với một số dạng BT như trên, sau khi HS điền xong, GV kiểm tra bằng cách cho
HS đọc lại. Nếu HS đọc sai GV sửa sai trực tiếp kịp thời uốn nắn như vậy sẽ giúp các
em đọc bài tốt hơn.
d. Tổ chức các hoạt động vui chơi lồng ghép :
- Có thể nói đây là một kỹ năng rất quan trọng giúp cho người giáo viên nắm bắt và
đo được kết quả học tập của học sinh qua một quá trình dạy học.
- Qua hoạt động vừa chơi vừa học các em biết chia sẻ với nhau kinh nghiệm học
tập, các em biết tự mình kiểm tra kết quả học tập của mình và giúp nhau cùng tiến bộ.
Các em không những ham thích đến trường mà còn dần yêu thích môn học này.
- Qua 1 tiết học có thể tổ chức cho các em chơi trò chơi.
4. Hiệu quả của SKKN:
- Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho
học sinh lớp 1. Tôi đã thu nhặt được những kết quả đáng khích lệ sau:
Số học sinh chưa hoàn thành và số HS hoàn thành tốt tăng dần trong năm học:
* Đầu năm: (Kiểm tra bằng định tính)
Học sinh không biết chữ cái nào : 0 em
Biết 5, 6 chữ cái

: 2 em
Nhận biết gần hết
: 26 em
* Cuối HKI:
Học sinh đọc trơn : 20 em
Học sinh đánh vần : 8 em
- Đây là một kết quả thật đáng mừng cho cả giáo viên và học sinh.
- Và sau nhiều năm triển khai thí điểm chương trình CNGD môn Tiếng Việt lớp
Một và là 1 giáo viên trực tiếp giảng dạy, được tiếp xúc trực tiếp với chương trình
CNGD bản thân Tôi nhận định dạy học theo chương trình CNGD có rất nhiều ưu
điểm thể hiện qua những kết quả cụ thể như:
+ Phần âm: HS tiếp thu tương đối tốt, nhận biết được nguyên âm, phụ âm, luật
chính tả; HS làm quen ngay về cách đọc trơn tiếng, từ, bài đọc; HS biết vẽ mô hình
tiếng nguyên, tiếng tách thành hai phần, biết đánh vần theo hai bước, ôn cũ học mới
theo từng việc.
+ Phần vần: HS nắm được vần có âm đầu, âm chính, âm đệm, âm cuối, biết đưa
các vần vào mô hình tiếng; HS được đọc nhiều từ, nhiều bài, đọc trơn sớm hơn, tốt
hơn chương trình cũ.
+ Phần đọc: HS được đọc nhiều bài, tốc độ đọc trơn nhanh hơn, HS được đọc
nhiều, biết trả lời các câu hỏi gợi ý.
+ Phần viết: HS sớm làm quen với chính tả nghe viết, HS viết đúng con chữ, tiếng,
từ; chữ viết đúng quy định, đúng tốc độ, GV không phải đánh vần. So với chương
trình cũ, phần viết đến cuối năm chỉ yêu cầu HS tập chép.
IV. KẾT LUẬN:
- Rèn kỹ năng đọc cho học sinh là đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài
vv……Đọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, đọc còn
yêu cầu các em phát âm chuẩn, chính xác các con chữ… để khi viết các em không
nhầm lẫn dẫn đến sai lỗi chính tả.

7



- Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp 1 có kết quả cao. Giáo viên chủ
nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như
chính con mình, biết rõ mặt mạnh,mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
- Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ
cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn
nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó
là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích
học, đọc bài. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên
thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học.
- Giáo viên cần dẫn dắt HS đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em sự tin
cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc mẫu giáo viên
nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách đọc tránh đọc
sai để ảnh hưởng đến học sinh. Và khi học sinh đọc giáo viên cần theo dõi sửa sai cho
học sinh kịp thời.
- Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý
thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em hàng
ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau 1
năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Muốn đạt
được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đấu, quyết tâm
giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với
các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các
em đọc sai lỗi, với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn
kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv… để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở
hôm nay và mai sau.
V. ĐỀ XUẤT:
- Đối với nhà trường: cần bổ sung thêm bộ chữ cái mẫu cho môn Tiếng việt để
phục vụ việc dạy học giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn.
- Đối với giáo viên: Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và cần

tổ chức các hoạt động vui chơi tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học
để giúp các em có hứng thú khi học và thích đi học.
- Về phía học sinh: Tham gia đầy đủ các buổi học, không nghỉ học trừ các trường
hợp chính đáng và mong được sự phối hợp chặt chẽ của phu huynh HS để việc học
tập của HS ngày càng tốt hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn và lắng nghe mọi ý kiến đóng góp giúp đỡ để sáng
kiến của tôi được hoàn chỉnh.
Đắk Ang, ngày ... tháng ....năm 2014
Người viết

Trần Thị Lương

8


MỤC LỤC

NỘI DUNG

Trang

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

2

II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2

III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


2

1.Cơ sở lí luận

2-3

2.Thực trạng vấn đề

3-4

3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
3.1: Phân loại đối tượng HS
3.2: Các điều kiện giúp HS đọc tốt
3.3: Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho HS

4
4
4-5-6
6

a. Thường xuyên thay đổi các hình thức học tập cho HS

6

b. Kiểm tra, đánh giá, sửa sai trực tiếp cho HS

6

c. Làm các dạng BT như điền phụ âm hoặc vần


6-7

d. Tổ chức các hoạt động vui chơi lồng ghép
4. Hiệu quả của SKKN
IV. KẾT LUẬN
V. ĐỀ XUẤT

7
7
7-8
8

9



×