Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN đóng góp của trung quốc và việt nam trong việc phát triển lý luận về chủ nghĩa xó hội khoa học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.05 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển tư tưởng của nhân loại, cho đến nay chưa có
một học thuyết nào có thể sánh được với chủ nghĩa xã hội khoa học về độ dài
thời gian của thời kỳ “thai nghén”. Điều đó chứng tỏ, chủ nghĩa xã hội khoa
học là một trong những giá trị nổi bật nhất của nhân loại trong suốt quá trình
tiến hóa, và trong mỗi bước tiến của lịch sử, nó dân dần chín muồi để tự
khẳng định như thước đo, kết quả, động lực của sự tiến hóa. Hơn một thế kỷ
rưỡi tồn tại và phát triển, chủ nghĩa xã hội khoa học đã đương đầu và vượt
qua từ thử thách đén thử thách khác, có lúc rất khốc liệt để chứng minh sức
sống, tính khoa học và cách mạng của mình. Cũng giống như các hình thái ý
thức xã hội khác, sự phát triển của lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học cũng
tất yếu phải thông qua các vấn đề có tính quy luật; trong đó có quy luật: sự
phát triển của lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học vừa mang tính phổ biến,
vừa mang tính đặc thù quốc gia, dân tộc là một trong những quy luật cơ bản,
có vị trí hết sức quan trọng. Đúng như Lê-nin đẵ khẳng định: “ Tất cả các dân
tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ
nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa
những đặc điểm dân tộc mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế
độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ
này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác
nhau của đời sống xã hội”1. Cố nhiên, bởi đây là một vấn đề tương đối lớn,
cho nên, tác giả chỉ lựa chọn nội dung đóng góp của Trung Quốc và Việt
Nam trong việc phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay
làm tiểu luận môn Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
NỘI DUNG
1

V.I.Lênin, Toàn tập, t30,, Nxb Tiến bộ, M.1981, tr.160.


2



1. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc về chủ nghĩa
xã hội và hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
1.1. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc về chủ nghĩa
xã hội
Đặng Tiểu Bình từng nói: “Một đảng, một nhà nước, một dân tộc nếu
xuất phát từ tư tưởng cứng nhắc, mê tín thịnh hành sẽ không thể phát triển
được, sức sống ngưng trệ, đảng sẽ tan, nước sẽ mất”. Nhìn lại lịch sử tiến bộ
xã hội và phát triển kinh tế của Trung Quốc trong những năm qua thì những
trở ngại chủ yếu đối với sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa chính là
những quan niệm sai trái, phiến diện, giản đơn về chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản, về chế độ công hữu và tư hữu, đặc biệt là về chủ nghĩa Mác.
Những quan niệm này đến nay có chỗ đã thay đổi, có chỗ đang dần dần thay
đổi, cũng có chỗ đang thu hút sự chú ý của mọi người; sự phân tích dưới đây
sẽ chứng minh điều đó.
Đối với nhận thức hình thái xã hội, phải chuyển biến từng trọng điểm
đơn nhất sang thống nhất về lý luận toàn diện và lý luận trọng điểm. Quan
điểm về hình thái xã hội của chủ nghĩa Mác, ít nhất có hai góc độ cơ bản: một
là chế độ xã hội, hình thái kinh tế - xã hội; hai là lực lượng sản xuất. Vấn đề
lực lượng sản xuất và chế độ xã hội của hình thái xã hội đều là vấn đề được
chú ý. Nhưng từ trước tới nay, Trung Quốc chỉ coi trọng góc độ lực lượng sản
xuất mà coi nhẹ một cách nghiêm trọng góc độ chế độ xã hội, chủ yếu nhìn
hình thái xã hội qua lực lượng sản xuất. Dường như vấn đề chủ nghĩa hoặc
chế độ xã hội chính là toàn bộ hình thái xã hội. Thực tế, đó là quan niệm
phiến diện, chế độ xã hội là hình thức của hình thái xã hội, mà phát triển lực
lượng sản xuất mới là nội dung của hình thái xã hội.


3


Ngày nay, tuy Trung Quốc đã xây dựng chế độ cơ bản của chủ nghĩa
xã hội, song từ góc độ hình thái kỹ thuật xã hội, xét về tổng thể vẫn chỉ là
đang trong quá trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp. Nhiệm vụ của Trung Quốc là thực hiện hiện đại hóa đất nuớc, chế độ
xã hội chủ nghĩa cũng là phục vụ mục đích này. Do đó Trung Quốc phải chú ý
hơn đến góc độ hình thái kỹ thuật xã hội để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy Trung Quốc phát triển về cơ bản.
Chuyển đổi từ mô hình chỉ coi trọng về chế độ sang xu hướng coi
trọng giá trị. Lâu nay Trung Quốc luôn chú ý lý giải chủ nghĩa xã hội là một
chế độ xã hội, hơn nữa chế độ xã hội này dường như có mô hình cố định bất
biến nào đó. Cho dù thực tế có thay đổi, phát triển như thế nào cũng không
thể làm thay đổi mô hình đó, nếu không sẽ bị coi là đi ngược lại chủ nghĩa xã
hội . Về vấn đề này, một đóng góp quan trọng của lý luận Đặng Tiểu Bình là
đưa ra suy luận về bản chất của chủ nghĩa xã hội, tức là: “giải phóng lực
lượng sản xuất, xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giai cấp, cuối cùng đạt được
cùng giàu có”.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật chỉ rõ: chế độ xã hội mà quan hệ sản
xuất thống nhất với kiến trúc thượng tầng là do lực lượng sản xuất và quần
chúng nhân dân quyết định, phục vụ sự phát triển của lực lượng sản xuất và
nhân dân. Có thể nói xu hướng giá trị, khoa học hợp lý được xây dựng trên cơ
sở qui luật chung của sự phát triển xã hội là điều căn bản bởi nó đại diện cho
giá trị thực tế, ý nghĩa thực chất của chủ nghĩa xã hội. Chế độ xã hội xã hội
chủ nghĩa tất nhiên là vô cùng quan trọng, song chung qui phục vụ nhân dân
vẫn là mục đính đầu tiên.


4

Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội vẫn còn
non trẻ, chủ nghĩa xã hội vẫn đang trong thực tiễn, đang trong quá trình hình

thành và không có khuôn mẫu của chủ nghĩa xã hội hiện hành, không cung
cấp cho Trung Quốc mô hình nhất định để thực hiện. Khuôn mẫu của chủ
nghĩa xã hội này đang đòi hỏi sự sáng tạo và tìm kiếm lâu dài, gian khổ của
nhân loại, trong đó có cả nhân dân Trung Quốc. Do đó, không thể coi những
giả tưởng nguyên tắc về chủ nghĩa xã hội tương lai trong điều kiện người đi
trước không có kinh nghiệm thực tiễn và cũng không thể coi một số quan
niệm về chủ nghĩa xã hội được hình thành trong điều kiện trình độ phát triển
của chúng ta vừa thấp, vừa phong kiến là điều vô cùng chính xác, không thể
thay đổi. Tuy chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng chế độ này
còn rất non trẻ, chưa định hình, điều quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội là
chọn hướng giá trị, tức thực hiện giàu có và hạnh phúc cho nhân dân. Chế độ
và thể chế của chủ nghĩa xã hội đều phục vụ mục đích này.
Chuyển đổi từ đối lập tuyệt đối các chế độ xã hội khác nhau sang nhìn
thẳng vào đa dạng hóa xã hội. Thời đại ngày nay, khi xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản. Báo cáo Đại hội 17 và một số văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản
Trung Quốc đều nhấn mạnh: Thế giới đa dạng phong phú, chế độ xã hội khác
nhau và con đường phát triển khác nhau nên tôn trọng lẫn nhau, cùng tồn tại
lâu dài, trong cạnh tranh phải lấy chỗ mạnh bổ sung chỗ yếu, cùng phát triển
trong “tìm điểm đồng, gác bất đồng”. Điều này đòi hỏi phải thẳng thắn thừa
nhận chế độ tư bản sẽ tồn tại lâu dài, và thừa nhận chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội có những mạnh yếu riêng, từ đó mới có thể lấy ưu bổ khuyết và
tìm ra được tính tất yếu và khả năng cùng phát triển. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
nhiều lần nhấn mạnh cần bảo vệ tính đa dạng của thế giới và đa dạng hóa mô
hình phát triển, kiên trì giao lưu và đối thoại bình đẳng, đề xướng quan điểm


5

văn minh và tiếp thu có chọn lọc để các nền văn minh khác nhau có thể dùng

điểm mạnh bổ sung cho điểm yếu trong cạnh tranh, trong phát triển chung. Tư
tưởng này khác xa với những quan niệm giản đơn trước đây là: “chủ nghĩa xã
hội tiên tiến, chủ nghĩa tư bản lạc hậu”, “chủ nghĩa tư bản thối nát, giãy
chết”, “chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là quan hệ đối lập tuyệt đối”.
Chuyển đổi từ chỉ coi trọng quan hệ sản xuất sang coi trọng phát triển
lực lượng sản xuất. Về vấn đề chế độ công hữu, lâu nay nhiều người hình
thành tư duy coi chế độ công hữu là vấn đề căn bản nhất, nội dung quan trọng
nhất của chủ nghĩa xã hội, dường như có chế độ công hữu là có chủ nghĩa xã
hội, chế độ công hữu càng nhiều, càng lớn tức là chủ nghĩa xã hội càng chín
muồi. Đây là quan niệm sai lầm, xa rời lực lượng sản xuất, bàn luận một cách
chủ quan, duy ý chí về chế độ sở hữu và chủ nghĩa xã hội.
Về mặt lý luận, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác về vấn đề sở
hữu là tiêu chuẩn của lực lượng sản xuất, cho rằng tất cả chế độ sở hữu có lợi
cho lực lượng sản xuất đều là hợp lý và tiến bộ, còn tất cả chế độ sở hữu cản
trở sự phát triển của lực lượng sản xuất đều là lạc hậu, thậm chí phản động.
Trung Quốc phải thay đổi từ chỗ quan tâm thái quá “là công hay tư” sang
quan tâm trước tiên chế độ sở hữu “là tốt hay xấu”, tức là có lợi cho phát
triển lực lượng sản xuất hay không. Điều đó mới khoa học, có ý nghĩa thực tế
và phù hợp với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác.
Thực tiễn của Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã
chứng minh, chế độ công hữu ít nhất có hai loại: một là, chế độ công hữu
trong suốt thời kỳ dài không có lợi ích và hiệu quả; hai là, chế độ công hữu có
lợi ích và hiệu quả. Như vậy, có thể thấy rằng không thể đánh dấu bằng giữa


6

chế độ công hữu và chủ nghĩa xã hội. Có chế độ công hữu không nhất định có
chủ nghĩa xã hội.
Trước khi Trung Quốc cải cách mở cửa, chế độ công hữu chiếm trên

99% nền kinh tế quốc dân, nếu như lấy chế độ công hữu làm tiêu chuẩn thì
dường như Trung Quốc giống chủ nghĩa xã hội hơn bây giờ. Vậy mà lúc đó
Trung Quốc lại lâm vào tình trạng nước yếu dân nghèo. Sau khi bước vào thời
kỳ cải cách, Đảng và nhà nước ta điều chỉnh cơ cấu chế độ công hữu quá đơn
nhất, cho phép và động viên nền kinh tế phi công hữu phát triển, giảm một
cách thích đáng tỉ trọng chế độ công hữu, đặc biệt là nền kinh tế quốc hữu.
Biện pháp này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất, quốc lực tổng hợp và đời sống
nhân dân nâng cao rõ rệt, được tuyệt đại đa số cán bộ và quần chúng nhân dân
ủng hộ, trên thực chất rất gần với chủ nghĩa xã hội.
Đối với chế độ sở hữu, chuyển biến từ "Phương pháp nhị phân hẹp"
sang cách nhìn nhận bao quát hơn. Về vấn đề sở hữu, trong suốt thời gian dài
Trung Quốc vẫn quen dùng “phương pháp nhị phân” công và tư để phân tích,
dường như chế độ sở hữu không phải “công” thì là “tư”. Trên thực tế, chế độ
sở hữu có hình thức “lập thể” về động thái, nhận thức chế độ sở hữu còn
nhiều góc độ khác nhau.
Trên thực tế, trước đây quan điểm của Trung Quốc coi chế độ sở hữu
nhà nước là hình thức cao nhất của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, là có rất
nhiều thiếu sót. Xu hướng chủ yếu của sự phát triển chế độ sở hữu đương đại
là chế độ sở hữu hỗn hợp, coi chế độ cổ phần là hình thức thực hiện, nó cùng
dung nạp cả công hữu, tư hữu, quốc hữu, dân hữu, có ưu thế “tạp giao” nhất
định.


7

Hiện nay, Trung Quốc đang tiến hành điều chỉnh mang tính chiến lược
nền kinh tế mang tính quốc hữu vì đã thấy được tính hạn chế của sở hữu nhà
nước, vì thế đó chính là lựa chọn hợp lý với xu hướng phát triển của xã hội.
Xu thế phát triển của chế độ sở hữu, phương hướng cơ bản của chế độ
sở hữu là thích nghi với yêu cầu sản xuất không ngừng của xã hội hóa.Trung

Quốc không chỉ phải chú ý phát huy tác dụng của tư bản, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người sở hữu, mà còn phải chú trọng bảo vệ lợi ích của người lao
động, từng bước thực hiện: “người lao động có phần của mình”, “người
người có phần của mình”. Vừa phải chú ý thực hiện quyền sở hữu, vừa phải
chú ý quyền thu nhập thực tế, bởi quyền thu nhập thực tế là thực hiện mục
đích cuối cùng của quyền sở hữu.
Nghiên cứu tầng lớp giai cấp, thay đổi từ góc độ quan hệ sản xuất
đơn thuần sang thiên về góc độ lực lượng sản xuất. Về phương diện đánh giá
các giai cấp và giai tầng, không ít đảng viên lấy quan hệ sản xuất làm tiêu chuẩn,
tức là căn cứ vào một giai cấp và giai tầng có phải tư nhân chiếm hữu tư liệu sản
xuất, có phải bóc lột hay không bóc lột để phân định họ tiến bộ hay phản động.
Trung Quốc phải thay đổi lý luận về tiêu chuẩn quan hệ sản xuất này
bằng tiêu chuẩn lực lượng sản xuất. Bởi giai tầng và giai cấp chủ yếu là một
quan hệ xã hội đặc biệt, là phạm trù quan hệ sản xuất. Ví dụ như: phân biệt
các quan hệ sản xuất có hợp lý hay không, phải giống như lấy lực lượng sản
xuất làm tiêu chuẩn căn bản, phân định các giai cấp phản động hay tiến bộ
cũng phải liên hệ với lực lượng sản xuất, xem tác dụng khác nhau của chúng
với lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa Mác cũng đã từng khẳng định, trong lịch sử giai cấp tư sản
cũng đã từng có tác dụng rất cách mạng, đã từng làm giai cấp lãnh đạo của


8

cách mạng. Căn cứ của nó chính là trong thời kỳ lịch sử nhất định, giai cấp tư
sản đại diện cho yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đối với các giai cấp khác cũng nên đánh
giá theo cách như vậy, nói một cách cụ thể, nên căn cứ vào các giai cấp và
giai tầng có cần thiết cho yêu cầu của lực lượng sản xuất lúc đó hay không để
nhận định họ tiến bộ hay phản động. Phàm là giai tầng và giai cấp mà sản

xuất xã hội yêu cầu đều thuộc lực lượng tiến bộ xã hội.
Từ đối lập đơn giản giữa giai cấp và giai tầng chuyển sang bổ trợ hợp
tác cùng có lợi. Trong quá khứ, khi phân tích về giai cấp và giai tầng, có
khuynh hướng chú trọng vào sự khác biệt về lợi ích, thậm chí vào sự xung
đột. Điều đó đã có tính hợp lý lịch sử nhất định. Ngày nay, sự khác biệt khách
quan giữa giai cấp và giai tầng cũng không thể phủ nhận. Nhưng khi xem xét
sự khác biệt giữa giai cấp và giai tầng thì cũng phải nhìn nhận sự đồng nhất
giữa giai cấp và giai tầng. Nếu chỉ nhìn sự khác biệt thì điều đó là phiến diện
và trên thực tế là có hại.
Có thể lấy mối quan hệ giữa người công nhân và người chủ xí nghiệp:
Họ chiếm hữu bao nhiêu tài sản? Thu nhập bao nhiêu? Chi phí như thế nào?
Giữa họ có sự khác biệt và mâu thuẫn, đồng thời lại có tính bổ trợ rất lớn.
Biểu hiện chủ yếu là người chủ xí nghiệp tạo ra điều kiện sản xuất và cơ hội
việc làm cho người công nhân, sức lao động của người công nhân được báo
đáp thích ứng, mà người chủ xí nghiệp nhờ có tiền vốn và tài trí quản lý mà
thu được lợi nhuận nhất định.
Trong nội bộ nhân dân, khái niệm hợp tác, tương hỗ, hai bên cùng có
lợi này đã có sự chuyển đổi. Thực tế này bao hàm một sự chuyển đổi về quan
niệm, từ đối lập giản đơn giữa giai cấp và giai tầng đến chuyển đổi hài hòa


9

cùng có lợi. Đương nhiên người lao động có địa vị yếu thế, lợi ích thường bị
tổn hại, chúng ta phải chú ý bảo vệ lợi ích chính đáng của họ.
Sự khác biệt giữa giai cấp và giai tầng trong giai đoạn lịch sử hiện nay
là không thể tránh được và cũng không thể triệt tiêu hoàn toàn. Hơn nữa, bản
thân của sự phân công lao động đã thể hiện rõ sự khác nhau giai cấp và giai
tầng là không thể san lấp, biểu hiện rõ quan hệ tương hỗ và hợp tác giữa họ
với nhau. Chính vì vậy, từ quan niệm này Trung Quốc đã có sự chuyển đổi, nỗ

lực xây dựng xã hội hài hòa, cùng xây dựng, cùng hưởng thụ.
Từ lý luận bản vị sang bảo vệ thực tiễn. Phải dùng chủ nghĩa Mác
đang phát triển để chỉ đạo thực tiễn mới, khái niệm này được nhấn mạnh ở hai
ý nghĩa: Một là, kiên trì chủ nghĩa Mác, đó là tôn trọng lịch sử, tôn trọng khoa
học, cũng là yêu cầu thực tiễn hiện nay. Hai là, dựa vào chủ nghĩa Mác cũng
chưa thể đầy đủ, chủ nghĩa Mác tất yếu phải phát triển. Vì Mác sống cách đây
hơn 120 năm, lý luận của ông đưa ra trong thời điểm hoàn cảnh lịch sử lúc
bấy giờ là phù hợp; hơn 120 năm nay, thế giới và Trung Quốc đã có sự biến
đổi to lớn, nên không thể tuân theo một cách giản đơn chủ nghĩa Mác.
Tuân theo chủ nghĩa Mác là tuân theo quan điểm thực tiễn. Lý luận ra
đời từ thực tiễn, lấy thực tiễn kiểm nghiệm lý luận, dựa vào phát triển của
thực tiễn mà thay đổi, hơn nữa cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Thực tiễn tình
hình là “thực địa”, lý luận là “bản đồ”, “địa hình” thay đổi “bản đồ” cũng
phải thay đổi theo. Không thể lấy “bản đồ” để thay đổi “thực địa”. Kiên trì
quan điểm thực tiễn như vậy, dựa vào quan điểm thực tiễn và lý luận chính là
kiên trì quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác.
Từ phục tùng cá nhân lãnh đạo cách mạng chuyển đổi sang tuân thủ
chân lý phổ biến. Chỉ có chân lý phổ biến mới giành được sự ủng hộ của nhân


10

dân, mới có thể chuyển đổi từ đời này sang đời khác, cuối cùng giành thắng
lợi. Điều chủ yếu của chủ nghĩa Mác là thế giới quan và phương pháp luận,
đồng thời các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác cũng từ đây mà ra. Không
thể coi những kết luận cụ thể và phán đoán khác của Mác, Ăngghen, Lênin là
những tư tưởng chỉ đạo của Trung Quốc.
Giống như các khoa học khác, chủ nghĩa Mác không có biên giới,
cũng không bị hạn chế bởi tư tưởng của người lãnh đạo. Chỉ cần đó là điều
đúng đắn thì cho dù trong kinh điển của chủ nghĩa Mác chưa đề cập đến thì

chúng ta cứ theo cái đúng mà làm. Lênin đã từng nói: chủ nghĩa Mác hoàn
toàn khác với “chủ nghĩa bè phái”, nó không phải là học thuyết bất biến
cứng nhắc, giẫm chân tại chỗ, xa rời với sự phát triển văn minh thế giới.
Xét từ góc độ vĩ mô của văn minh thế giới, về chính thể, chủ nghĩa
Mác là chân lý song không phải là “sự toàn diện” của chân lý, mà là một bộ
phận quan trọng của chân lý nhân loại. Không ít nước tuy không dùng chủ
nghĩa Mác làm chủ đạo, song về tổng thể cũng đang phát triển và tiến bộ. Lý
luận tư tưởng của họ cũng bao hàm nhiều thành phần của khoa học, bao gồm
trình độ thực tiễn tương đối cao. Những lý luận tư tưởng của các nước phát
triển về văn hóa, kinh tế ở trình độ cao cũng là điều đáng để chúng ta học tập.
Có thể thấy chủ nghĩa Mác là tư tưởng chỉ đạo của Trung Quốc, bắt
nguồn từ Mác, song không chỉ giới hạn ở Mác, trên tổng thể chúng ta phải kế
thừa, điều chỉnh và phát triển.
Chuyển đổi từ tiêu chuẩn "Trích dẫn" sang tiêu chuần tinh thần cơ
bản. Tiêu chuẩn cơ bản kiên trì hay xa rời chủ nghĩa Mác, tức là có tôn trọng
qui luật khách quan, đặc biệt là trên cơ sở qui luật xã hội hay không, mưu cầu
cho đại đa số nhân dân, bao gồm mỗi cá nhân trong đó. Trong đó tôn trọng


11

khách quan là tiền đề và cơ sở, nó thể hiện tính khoa học của chủ nghĩa Mác,
mà mưu cầu lợi ích cho tuyệt đại đa số nhân dân lại là mục đích, nó thể hiện
tính nhân dân của chủ nghĩa Mác. Không có tinh thần cống hiến cho lợi ích
tuyệt đại đa số nhân dân thì không phải là chủ nghĩa Mác chân chính.
Hiểu rõ tiêu chuẩn này giúp chúng ta lý giải chủ nghĩa Mác sâu sắc
hơn, có ý nghĩa quan trọng trong việc phán đoán kiên trì hay đi ngược lại chủ
nghĩa Mác. Thực chất của cái gọi là “trung thành với chủ nghĩa Mác” là
trung thành với khoa học, trung thành với nhân dân, chứ không phải trung
thành với cá nhân Mác và những trích dẫn của ông. Nắm vững tinh thần cơ

bản này đó là kiên trì chủ nghĩa Mác.
1.1. Hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có một số
quan điểm cơ bản có liên quan như sau:
1.1.1 Đường lối tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc là phải giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, tiến cùng thời đại. Theo đó,
thực sự cầu thị là cách nói rõ ràng nhất về đường lối. Tiến cùng thời đại là bản
chất lý luận chủ nghĩa Mác. Giải phóng tư tưởng là bảo bối lớn trong quá
trình phát triển. Chỉ có kiên trì tư tưởng, đường lối đổi mới, mới mãi mãi phát
triển, làm cho chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc ngày càng sâu sắc và rộng
mở.
1.1.2. Về giai đoạn phát triển và chiến lược phát triển của chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc. Hiện Trung Quốc vẫn ở vào giai đoạn đầu của chủ
nghĩa xã hội. Giai đoạn này, theo Đặng Tiểu Bình, ít nhất hàng trăm năm. Nếu
như vậy, 20 năm đầu thế kỷ này là xây dựng xã hội khá giả Trung Quốc.
Trong quá trình xây dựng và thực hiện Chiến lược phát triển đất nước, phải
căn cứ vào tình hình cơ bản của đất nước.


12

1.1.3. Về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - cải cách và mở cửa.
Trung Quốc cho rằng, cải cách và mở cửa là một cuộc cách mạng mới, là con
đường tất yếu xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; do đó, quá
trình thực hiện cải cách mở cửa thì phải kết hợp với kế thừa, sử dụng thành
quả văn minh của các nước để xây dựng xã hội văn minh Trung Quốc.
1.1.4. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là phát triển sức sản xuất, giải
phóng tư tưởng, tiêu diệt bóc lột,... , tất cả cùng tiến lên. Nhiệm vụ căn bản
của chủ nghĩa xã hội là tập trung phát triển lực lượng sản xuất xã hội, đưa
phát triển sức sản xuất lên hàng đầu, toàn tâm, toàn ý mưu cầu cho phát triển.
1.1.5. Về chế độ kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung

Quốc: kiên trì chế độ công hữu làm chủ thể, dẫn dắt các thành phần kinh tế
phi công hữu cùng phát triển; chế độ sở hữu đa dạng cùng phát triển, nhưng
không lay chuyển chế độ công hữu. Hình thành cục diện mới về kinh tế, các
chế độ sở hữu cạnh tranh, bình đẳng, cùng phát triển.
1.1.6. Đường lối đổi mới phát triển, nhấn mạnh phát triển là đạo lý.
Nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước là chấn hưng đất nước.... xây
dựng đời sống nhân dân giàu có, môi trường sinh thái tốt lành, xây dựng xã
hội phát triển thân thiện với môi trường, lấy con người làm gốc... phát triển
hài hòa và bền vững. Phải kiên trì phương châm: vừa tốt, vừa nhanh.
1.1.7. Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc với phát triển khoa học.
Khoa học - kỹ thuật là lực lượng sản xuất vật chất hàng đầu, phát triển lực
lượng sản xuất không tách rời khoa học - kỹ thuật. Xây dựng và phát triển
kinh tế phải dựa vào khoa học và tố chất con người.


13

1.1.8. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc. Vấn đề
không phải là kế hoạch nhiều hơn hay thị trường nhiều hơn, mà xây dựng thể
chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là làm cho thị trường phát huy vai trò
trong việc phân phối tài nguyên, các nguồn lực theo sự chỉ đạo của Nhà nước
và nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.1.9. Tư tưởng nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung
Quốc. Dân chủ là sức mạnh. Kiên trì phát triển đường lối chính trị, kiên trì sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân làm chủ, hoạt động theo luật pháp, tiến hành cải
cách hành chính, xây dựng đất nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.
1.1.10. Xây dựng văn hóa tiên tiến đặc sắc Trung Quốc. Chủ nghĩa xã
hội không chỉ có văn minh vật chất mà còn có văn minh tinh thần cao độ.
Kiên trì xây dựng hệ thống chính trị cốt lõi, phát triển của văn hóa xã hội chủ
nghĩa, văn hóa sáng tạo... nâng cao sức mạnh của văn hóa quốc gia, làm cho

quyền lợi văn hóa, sinh hoạt văn hóa của nhân dân ngày càng tăng lên.
1.1.11. Xây dựng xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc. Đó là xã hội
hài hòa gắn bó khăng khít với hạnh phúc, an khang của nhân dân, đáp ứng các
yêu cầu: dân chủ, giá trị, tín nghĩa, yên ổn, có trật tự... theo nguyên tắc tồn tại
cùng phát triển, thúc đẩy xây dựng xã hội hài hòa.
1.1.12. Chiến lược ngoại giao quốc tế đặc sắc Trung Quốc. Ổn định và
phát triển là hai chủ đề lớn trên thế giới hiện nay. Trung Quốc kiên trì chính
sách độc lập, tự chủ, hòa bình, luôn coi trọng con đường giải quyết hòa bình
để phát triển; xây dựng phát triển thế giới hài hòa cùng phát triển phồn vinh.
1.1.13. Xây dựng quốc phòng và quân đội xã hội chủ nghĩa đặc sắc
Trung Quốc chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thể sự nghiệp chủ nghĩa


14

xã hội đặc sắc Trung Quốc. Kiên trì sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với quân đội.
Thực hiện yêu cầu cụ thể: kỷ luật nghiêm minh, tăng cường xây dựng lực
lượng...
1.1.14. Sự nghiệp thống nhất Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung
Quốc, kiên trì nguyên tắc một Trung Quốc, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia, bảo vệ lợi ích căn bản của dân tộc Trung Hoa. Giữ gìn sự ổn
định phồn vinh lâu dài của Hồng Kông, Ma Cao... , thể hiện ưu thế của Trung
Quốc.
1.1.15. Về lực lượng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc. Quần chúng nhân dân là nguồn lực, là gốc của thắng lợi, là căn
bản của hoạt động nhà nước, phải luôn luôn bảo đảm lợi ích căn bản của
người lao động đó là điểm xuất phát của Đảng và nhà nước. Phát triển dựa
vào dân, vì nhân dân và do nhân dân.
1.1.16. Hạt nhân lãnh đạo của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc là Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc là hạt

nhân lãnh đạo kiên cường của sự nghiệp chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc. Đảng cần lấy tinh thần cải cách sáng tạo tăng cường tự xây dựng mình,
không ngừng mở ra cục diện mới trong xây dựng và phát triển đất nước.

2. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc quá độ
lên chủ nghĩa xã hội theo con đường “phát triển rút ngắn”
Ngay khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân
tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là
đường lối tiến hành cách mạng nhất quán suốt hơn 80 năm qua của Đảng ta.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là qua thực tiễn của gần 25 năm


15

thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã không ngừng đổi mới
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tại Đại hội IX - Đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI, dựa trên tổng
kết lý luận và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta đã khẳng định: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại"2.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương
thức thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Đó là bước phát triển quan
trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Trước hết, đây là sự vận

dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội, về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và phương thức
thực hiện con đường đó. Hơn nữa, đó còn là sự tổng kết thực tiễn của toàn bộ
công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta, nhất là thực tiễn công cuộc đổi mới
đất nước.
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tưởng Hồ Chí Minh về
“con đường rút ngắn”
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, khi đưa ra dự báo về khả năng
thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở tất cả các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển, đã nhiều lần bàn tới khả năng thắng lợi của cuộc
cách mạng này không phải ở những nước tư bản phát triển, mà ở những
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H.2001, tr.84


16

nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển hơn. Khi tiến hành phân tích hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, Mác khẳng định, sự phát triển của
những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, song
không phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các
hình thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách
quan và chủ quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó. Mác còn lưu ý rằng, một
xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên trong sự vận động
của nó, cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay
dùng sắc lệnh để xóa bỏ chúng, nhưng chúng có thể được rút ngắn và
được làm dịu bớt những "cơn đau đẻ". Trong Lời bạt viết cho tác phẩm Về
vấn đề xã hội ở Nga, Ăng-ghen đã khẳng định, nước Nga có thể "rút ngắn

một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội chủ
nghĩa và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu
tranh mà ở Tây Âu... phải trải qua" 3. Hơn nữa, Người còn cho rằng, "con
đường phát triển rút ngắn như vậy... không chỉ đúng với nước Nga, mà
với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ
nghĩa"4.
Vậy là, trong khi dự báo về khả năng thắng lợi đồng thời của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, Mác và Ăngghen đã đưa ra những dự báo về khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng đó
không phải ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, mà ở các nước kém phát
triển, thậm chí ở các nước đang trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ
nghĩa và về con đường phát triển rút ngắn không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa của các nước này.
3
4

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t22, Nxb. CTQG, H.1995, tr. 632.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Sđd, t22, tr.632


17

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Lê-nin khi phân tích chủ nghĩa
tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - giai đoạn phát triển độc quyền
của nó, và với việc phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và
chính trị của chủ nghĩa tư bản, đã đi đến kết luận về khả năng thắng lợi
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một số nước tư bản chủ nghĩa, thậm chí
ở một nước, và hơn nữa, đó có thể là nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển
nhất. Và, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga ba năm, tức vào
năm 1920, Lê-nin đã nói đến con đường phát triển không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không

phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của các nước lạc hậu,
tiểu nông, chậm phát triển. Khi đặt vấn đề các dân tộc lạc hậu hiện đang
trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã có một bước tiến bộ, liệu
có nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa không? Lênin đã khẳng định : "Chúng tôi cho rằng không đúng... Với sự giúp đỡ của
giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ
Xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa
cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa"5.
Với kinh nghiệm của những năm thực hiện Chính sách Kinh tế mới,
Lê-nin đã đi đến kết luận, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có
những hình thức khác nhau ; điều đó tùy thuộc vào trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Theo Người, hình thức quá độ trực tiếp là con đường
phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ; còn hình thức
quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, phát triển bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa - con đường từ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong quan niệm của V.I. Lê-nin, tất cả
các loại hình khác nhau của sự phát triển xã hội - phát triển tuần tự hay
5

V.I.Lênin, Toàn tập, t41, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.295.


18

phát triển rút ngắn - đều phải tuân theo quy luật khách quan và đều là con
đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Và, trong sự phát triển tuần tự cũng có
thể có khả năng rút ngắn nào đó, nghĩa là con đường phát triển này không
nhất thiết phải trải qua toàn bộ sự phát triển đầy đủ của chủ nghĩa tư bản rồi
mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nước Nga với Chính sách Kinh tế mới chính
là một trường hợp như vậy và, theo V.I. Lê-nin, đó chính là con đường phát
triển rút ngắn trong tuần tự. Con đường phát triển rút ngắn không trong

tuần tự lại khác. Ở con đường phát triển rút ngắn này không diễn ra sự phát
triển tuần tự, mà diễn ra theo kiểu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội từ các quan hệ phong kiến hay tiền tư bản chủ nghĩa.
Lê-nin còn nói tới con đường quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp với
tư cách là những phương thức, cách thức phát triển khác nhau. Ông cho
rằng, phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là con
đường quá độ trực tiếp. Và, như chúng ta đều biết, cho đến nay, con đường
phát triển này vẫn chỉ mới là một khả năng, một xu hướng phát triển mà cả
Mác, Ăng-ghen và Lê-nin đều đã dự báo. Con đường quá độ gián tiếp lên
chủ nghĩa xã hội, trong quan niệm của Lê-nin, là con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa hay từ chủ nghĩa tư bản
phát triển chưa đầy đủ - con đường phát triển rút ngắn bằng phương thức
quá độ gián tiếp.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường phát triển của cách mạng
Việt Nam là rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã
hội, và con đường phát triển đó là tất yếu, phù hợp với xu thế khách quan
của lịch sử. Theo Người, chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa bởi đó
là chế độ áp bức, bóc lột và nô dịch con người. Song, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ mọi thành tựu văn hóa, văn minh mà
nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản ; những thành tựu đó cần


19

được tiếp thu, khai thác vì sự thành công của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Người cho rằng, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa là không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Và,
với trình độ phát triển của Việt Nam thì đó là tiến dần, từ từ, từng bước
một, từ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ quan trọng
nhất là "xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội...,

cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm
vụ chủ chốt và lâu dài"6.
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, con đường phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát
triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển
tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên
của cách mạng Việt Nam.
Từ những điểm nói trên và từ thực tiễn sinh động của gần 25 năm tiến
hành đổi mới đất nước, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, con
đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc quá độ
lên chủ nghĩa xã hội theo con đường “phát triển rút ngắn”
Với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường phát triển tất yếu, khách quan,
hợp quy luật. Và, về thực chất, đó là con đường phát triển rút ngắn theo
phương thức quá độ gián tiếp nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, t10, Nxb. CTQG, H.1996, tr13.


20

tất cả các lĩnh vực, nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng
nền kinh tế hiện đại.
Khi nói quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
là con đường phát triển rút ngắn, trước hết cần phải xác định rõ rút ngắn là

thế nào và có thể rút ngắn giai đoạn nào trong quá trình phát triển ấy.
Chúng ta biết, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại được quy định bởi sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất là một quan hệ sản xuất phù hợp. Sự ra đời của
quan hệ sản xuất mới trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất là tất yếu,
khách quan và toàn bộ các nội dung của quan hệ sản xuất này hợp thành cơ
sở kinh tế của xã hội mà trên đó, dựng lên một thượng tầng kiến trúc pháp
lý và chính trị với những hình thái ý thức xã hội tương ứng. Nói cách khác,
ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử nhân loại là một
hình thái kinh tế - xã hội cụ thể. Sự vận động đi lên của xã hội loài người
được quy định bởi các quy luật khách quan, trong đó quy luật nền tảng là
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Trên phạm vi toàn thế giới, sự thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Song ở phạm vi một quốc gia dân tộc, do quy luật phát triển không đều về
kinh tế, chính trị, do cách mạng xã hội có thể có những bước phát triển đột
biến, nhảy vọt, nên có thể diễn ra sự bỏ qua hay rút ngắn một hình thái kinh
tế - xã hội nào đó, kể cả việc bỏ qua hay rút ngắn một giai đoạn phát triển
nào đó trong một hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dù là phát triển tuần
tự hay phát triển rút ngắn thì cũng đều là sự phát triển liên tục của lực lượng
sản xuất, nghĩa là không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra


21

sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Và, do
vậy, về thực chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn
hay bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,

với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ sản xuất, trình
độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con
người được tăng lên đáng kể. Điều đó cho phép con người có thể rút ngắn
các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự phát triển lực lượng
sản xuất. Song, theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sự phát triển của lực
lượng sản xuất tất dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản xuất. Và do vậy, một
khi đã không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất trong tiến
trình phát triển rút ngắn, thì về nguyên tắc, cũng không thể bỏ qua được các
quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển ấy của lực lượng sản xuất.
Nhưng, trong tiến trình phát triển rút ngắn, nhờ có sự phát triển vượt bậc,
nhờ tạo ra được sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất mà người ta
có thể làm biến đổi các quan hệ sản xuất, thậm chí còn có khả năng xuất
hiện những quan hệ sản xuất mới, tiên tiến trong mỗi bước nhảy vọt ấy của
lực lượng sản xuất.
Như vậy, có thể nói, trong tiến trình của sự phát triển rút ngắn, sự
phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất là cái quy định sự ra đời của một
hệ thống các quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển ấy của
lực lượng sản xuất. Hệ thống các quan hệ sản xuất này, ngoài những quan hệ
sản xuất của hình thái kinh tế - xã hội đang hướng tới, còn có cả những quan
hệ sản xuất thuộc hình thái kinh tế - xã hội đã qua nhưng vẫn còn có tác
dụng phối hợp, điều tiết các mối quan hệ của con người và qua đó, có khả
năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tương ứng với một cơ sở kinh


22

tế như vậy là một kiến trúc thượng tầng đảm bảo cho sự vận hành và phát
triển của xã hội theo hướng hiện thực hóa hình thái kinh tế - xã hội đang
hướng tới.

Chính vì vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa theo phương thức phát triển rút ngắn là nhằm mục tiêu tạo ra sự phát
triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất trên cơ sở một hệ thống các quan hệ
sản xuất mà trong đó, các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dần chiếm vị trí
chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Bỏ qua ở đây là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Nhưng, chúng ta
không thể bỏ qua được sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất và
những thành tựu văn hóa, văn minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, nhất là những thành tựu khoa học và công nghệ.
Đảng ta hoàn toàn đúng khi xác định mục tiêu của cách mạng Việt
Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, chúng ta đang ở giai
đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường phát triển rút ngắn nhằm
mục tiêu phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại
trong bối cảnh đất nước vẫn còn trong tình trạng của một nước kém phát
triển và toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành xu thế khách quan; khoa học và
công nghệ có bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi
bật trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy, chúng ta
không thể không đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa để đạt được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên cơ sở phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại,


23

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo
con đường phát triển rút ngắn ở Việt Nam hiện nay chính là quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo phương thức "rút ngắn thời gian,
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt"7. Thực hiện bước quá

độ này nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực
là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, "cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ"8. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận
thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Và thực tiễn của gần 25 năm đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã
tiến những bước quan trọng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.

7
8

Văn kiện đã dẫn, tr.91.
Văn kiện đã dẫn, tr.85.


24

KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ
nghĩa xã hội đến nay vẫn còn nguyên giá trị, những tư tưởng này đã được vận
dụng trong thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở hầu hết các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây và đã chứng minh rõ bản chất ưu việt hơn hẳn so với chủ
nghĩa tư bản. Tuy nhiên, trong thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội, do vận
dụng thiếu sáng tạo, rập khuôn máy móc ở các nước, cho nên có nhiều hạn
chế. Do vậy, hiện nay các Đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa đã xác
định mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cụ thể phù hợp với điều kiện cụ thể
của quốc gia dân tộc mình như chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, hay mô
hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường phát triển rút ngắn ở Việt

Nam. Chính vì thế, sự nghiệp cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam
đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Theo đó, trên cơ sở vận dụng
sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết thực
tiễn và phát triển lý luận về chủ nghĩa khoa học để tiếp tục chỉ đạo toàn bộ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Đó là những đóng góp to lớn
trong việc bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin; đồng thời, cũng chứng minh tính đúng đắn và tồn tại khách
quan của quy luật: sự phát triển của lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học vừa
mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù quốc gia, dân tộc.
Sinh thời, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác- Lênin đã căn dặn:
“Chúng tôi không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và
bất khả xâm phạm; trái lại, chúng tôi tin rằng, lý luận chỉ đặt nền móng cho
môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa
về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Do đó,
hơn bao giờ hết và hơn ai hết, chúng ta – những người cộng sản chân chính,
cần thấu triệt sâu sắc lời dạy trên trong việc bổ sung, phát triển lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay.



×