Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

TÁC ĐỘNG của tín DỤNG VI mô đối với hộ NGHÈO tại VIỆT NAM GIAI đoạn 2012 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.38 KB, 75 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


HÀ THỊ PHI HƯỜNG

TÁC ĐỘNG CỦA TÍN DỤNG VI MÔ ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012-2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
QUẢN LÝ KINH TẾ ỨNG DỤNG

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2017


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


HÀ THỊ PHI HƯỜNG

TÁC ĐỘNG CỦA TÍN DỤNG VI MÔ ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012-2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
QUẢN LÝ KINH TẾ ỨNG DỤNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN HỮU TUẤN

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông
tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Luận văn không sao chép bất
kỳ một công trình nghiên cứu nào.

Tác giả luận văn

HÀ THỊ PHI HƯỜNG

3


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, động
viên từ nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Trần Hữu Tuấn, Phó Khoa
Trưởng Khoa Du lịch, Đại học Huế, là người hướng dẫn khoa học trực tiếp đã tận
tâm trong việc hướng dẫn tôi suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Trường Đại học Kinh tế Huế đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, đã hỗ trợ và cung cấp cho tôi những tư liệu
quý báu liên quan đến luận văn. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến
TS. Phạm Thị Thanh Xuân, giảng viên đã có những lời khuyên, góp ý cho tôi trong
thời gian nghiên cứu
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo các khoa chuyên ngành, phòng
Sau Đại học, trường Đại học Kinh tế Huế đã tận tình dạy dỗ, hướng dẫn, động viên
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Tuy có nhiều cố gắng nhưng một vài lý do khách quan, chủ quan...nên luận
văn vẫn còn những bất cập là điều không thể tránh khỏi. Kính mong quý thầy cô
giáo, các chuyên gia, đồng nghiệp tiếp tục đóng góp những ý kiến để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn.

Tác giả luận văn

Hà Thị Phi Hường

4


TÓM LƯỢC LUẬN VĂN
Họ và tên học viên: HÀ THỊ PHI HƯỜNG
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế

Định hướng đào tạo: Ứng dụng

Mã số

Niên khoá

: 60 34 04 10

: 2015-2017

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS TRẦN HỮU TUẤN
Tên đề tài: TÁC ĐỘNG CỦA TÍN DỤNG VI MÔ ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012-2014

Mục đích và Đối tượng nghiên cứu:
-

Mục đích nghiên cứu của nghiên cứu này là làm rõ mối quan hệ giữa tín dụng vi mô và
đời sống của các hộ nghèo trong giai đoạn 2012-2014 từ đó đề ra những biện pháp nâng

-

cao hiệu quả tín dụng vi mô cho việc xóa đói giảm nghèo tại vùng miền này.
Đối tượng nghiên cứu là: Tín dụng vi mô và tác động của nó đến thu nhập và chi tiêu của
các hộ gia đình nghèo có tham gia các chương trình tín dụng vi mô tại Việt Nam

-

Các phương pháp nghiên cứu đã sử dụng:

-

Phương pháp thu thập số liệu.

-

Phương pháp xử lý và phân tích số liệu.

-

Phương pháp nghiên cứu tài liệu

-


Phương pháp so sánh tương đối tuyệt đối và phương pháp diễn giải, quy nạp
Các kết quả nghiên cứu chính và Kết luận:

-

Đánh giá sự tác động tích cực của tín dụng vi mô lên cả thu nhập lẫn chi tiêu trung
bình của các hộ vay vốn.

-

Phân tích sự cần thiết cũng như khó khăn trong việc phát triển một cách hiệu quả tín
dụng vi mô tại Việt Nam hiện nay
Kết luận: Luận văn đã đánh giá lại tác động của tín dụng vi mô đối hộ nghèo
tại Việt Nam giai đoạn 2012-2014 dựa trên mô hình DID cho ra những kết quả tích
cực về loại hình tài chính dành cho hộ nghèo; từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao,
mở rộng và hỗ trợ phát triển tín dụng vi mô tại Việt Nam trong tương lai.
Tác giả luận văn

Hà Thị Phi Hường

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
MTQG
NHCSXH
UBND
TDVM
NH
CTTDVM

NN& PTNT
QTDND
ADB
GDP
NGO
VHLSS

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Mục tiêu quốc gia
Ngân hàng chính sách xã hội
Ủy ban nhân dân
Tín dụng vi mô
Ngân hàng
Chương trình tín dụng vi mô
Nông nghiệp & Phát triển nông thôn
Quỹ tín dụng nhân dân
Ngân hàng Phát triển Á Châu (Tiếng Anh: The Asian Development Bank)
Tổng sản lượng quốc nội (Tiếng Anh: Gross Domestic Product

Tổ chức phi chính phủ
Bộ dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình (Tiếng Anh: Vietnam

VNFWG

Household Living Standard Survey)
: Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (Vietnam Microfinance
Working Group)

6


MỤC LỤC
Lời cam đoan.............................................................................................................. i
Lời cảm ơn................................................................................................................ii
Tóm lược luận văn...................................................................................................iii
Danh mục các chữ viết tắt........................................................................................iv
Mục lục...................................................................................................................... v
Danh mục bảng......................................................................................................viii
Danh mục sơ đồ, hình, đồ thị....................................................................................ix
PHỤ LỤC

7


DANH MỤC CÁC BẢNG

8



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH, ĐỒ THỊ

9


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một trong những rào cản lớn làm giảm khả năng phát triển con
người, cộng đồng và từ đó, hạn chế sự phát triển của quốc gia. Xóa đói, giảm nghèo
toàn diện và bền vững, vì thế, luôn được xác định là một mục tiêu quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và được cụ thể hóa thành nhiệm vụ cụ
thể trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo của quốc gia[10].
25 năm trước, 1990, Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế
giới. Đến nay, sau một quá trình áp dụng các biện pháp, triển khai các giải pháp
xóa đói giảm nghèo, tỷ lệ đói nghèo giảm mạng từ 60% năm 1990 xuống còn 4,5
% năm 2015 (theo chuẩn nghèo quốc tế là 1,25$/người/ngày PPA 2005). Việt Nam
đã đạt được những tiến bộ rất ấn tượng trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ và đã hoàn thành một số mục tiêu. Một trong những mục tiêu
thành công nhất là mục tiêu xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói.
Việt Nam cũng là nước được đánh giá tốt nhất, tạo hiệu quả trong việc sử dụng
nguồn vay vốn từNgân hàng thế giới cho các hoạt động xóa đói giảm nghèo (Ngân
hàng Thế giới, 2013).
Một trong những công cụ đóng vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc
giảm nghèo và phát triển, đặc biệt là tại khu vực nông nghiệp nông thôn Việt Nam
là tín dụng vi mô. Chương trình tín dụng vi mô đã được áp dụng hàng chục năm trở
lại đây và đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Nhiều hộ dân nghèo đã tham gia vay
vốn và thoát khỏi cảnh đói nghèo, ổn định kinh tế, tự chủ trong sản xuất kinh doanh,
nâng cao thu nhập. Tín dụng vi mô đã mang lại những thành công nhất định trong
công cuộc xóa đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề mang tính xã hội[9].
Dù thực tiễn đã khẳng định vai trò to lớn của tín dụng vi mô trong công cuộc

xóa đói giảm nghèo nhưng thành tựu của hoạt động này còn nhạt nhòa, hoạt động
tín dụng vi mô còn nhiều mặt hạn chế. Tín dụng vi mô có thực sự là một công cụ
hữu hiệu để xóa đói giảm nghèo hay không – vẫn là nội dung đang tranh luận giữa
người chính sách và giữa các nghiên cứu. Một số nghiên cứu định lượng đã được
triển khai để tìm bằng chứng khoa học về minh chứng về hiệu quả của tín dụng vi

10


mô, củng cố cho sự phát triển cần thiết của mảng tài chính này trong nền kinh tếViệt
Nam. Tuy nhiên, các bằng chứng tìm được chưa đồng bộ, thậm chí trái chiều. Trần
Thị Thanh Tú và Hoàng Hữu Lợi (2012) [7] khẳng định các khoản cho vay nhỏ và
ngắn dưới 1 năm không có tác động đến thu nhập và chi tiêu của hộ vay vốn ở Tây
Bắc giai đoạn 2010 – 2012. Phan Thị Nữ (2012)[6] khẳng định, tín dụng vi mô đã
có tác động tích cực lên phúc lợi của hộ nghèo thông qua tăng chi tiêu cho đời sống
của họ nhưng không có tác động cải thiện thu nhập cho người nghèo.
Cho dù vậy, chúng ta vẫn đang tiếp tục phát triển các chương trình này vì
mục tiêu an sinh xã hội tiến tới phát triển bền vững. Chúng ta đang bước vào những
năm cuối của chương trình hành độngTín dụng vi mô 2011-2020.Đặc biệt đây cũng
đang ở giai đoạn nền kinh tế tiến tới hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế. Câu hỏi
về tính hiệu quả của tín dụng vi mô càng càng trở nên cấp thiết cần có câu trả lời rõ
ràng, làm cơ sở để tìm giải pháp thúc đẩy, phát huy hiệu quả hoạt động trong những
năm về đích này.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài “Tác động của Tín dụng vi mô đối
với hộ nghèo tại Việt Nam giai đoạn 2012-2014” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của nghiên cứu này là làm rõ mối quan hệ giữa tín dụng vi mô
và đời sống của các hộ nghèo trong giai đoạn 2012-2014 từ đó đề ra những biện pháp

-


nâng cao hiệu quả tín dụng vi mô cho việc xóa đói giảm nghèo tại vùng miền này.
Mục tiêu cụ thể
Hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về tín dụng vi mô và tác động của nó

-

lên đời sống của hộ nghèo;
Nghiên cứu thực trạng của hoạt động tín dụng vi mô tại Việt Nam giai đoạn 2012-

-

2014;
Đánh giá tác động của tín dụng vi mô lên thu nhập và chi tiêu của các hộ nghèo giai

-

đoạn 2012-2014;
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng vi mô và giải pháp mở rộng thị
trường tín dụng vi mô cho thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu

-

Nguồn dữ liệu: Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp, là bộ dữ liệu khảo sát mức
11


sống dân cư VHLSS thu thập bởi Tổng cục Thống kê, bộ dữ liệu năm 2012 và dữ
liệu thu nhập 2014

- Xử lý số liệu: Số liệu sẽ được phân tích với hai công cụ chính:
 Thống kê mô tả;
 Mô hình khác biệt trong khác biệt (Difference in difference -DID): là mô hình cho
phép đo lường sự khác biệt trong sự khác biệt hay còn là phương pháp sai biệt kép.
Đây là phương pháp phổ biến trong việc nghiên cứu phân tích hiệu quả tác động của
chính sách kinh tế và xã hội, phương pháp sai biệt kép so sánh nhóm tác động và
đối chứng dựa trên những khác biệt trong kết quả ở từng thời kỳ quan sát.
Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng nhằm tổng hợp các lý luận và
bằng chứng thực tiễn về tín dụng vi mô.
Phương pháp chuyên gia được sử dụng nhằm thu thập ý kiến của các chuyên
gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực thảo luận về các vấn đề xung quanh tài chính vi
mô, phục vụ cho các phân tích trong nghiên cứu.
Phương pháp so sánh tương đối tuyệt đối và phương pháp diễn giải, quy nạp
logic được sử dụng nhằm xác định mối quan hệ giữa các thông tin, con số, ý kiến từ
đó tìm điểm thống nhất, điểm phân biệt giữa các nội dung này và quy nạp lại thành
những kết luận có căn cứ cho nghiên cứu này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này là tín dụng vi mô và tác động của nó đến
thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình nghèo có tham gia các chương trình tín

dụng vi mô tại Việt Nam
 Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian: Bộ dữ liệu được điều tra năm 2012 và 2014
Không gian: Thực hiện nghiên cứu trên toàn lãnh thổ Việt Nam
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói, tín dụng vi mô

và tác động của tín dụng vi mô đối với người nghèo

12


Chương 2: Đánh giá tác động của tín dụng vi mô đới với hộ nghèo tại Việt
Nam giai đoạn 2012-2014
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng vi mô và phát
triển thị trường tín dụng vi mô tại Việt Nam

13


PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGHÈO ĐÓI, TÍN
DỤNG VI MÔ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TÍN DỤNG VI MÔ ĐỐI VỚI
NGƯỜI NGHÈO
1.1. ĐỊNH NGHĨA VÀ ĐO LƯỜNG TÌNH TRẠNG ĐÓI,
NGHÈO
1.1.1. Định nghĩa về đói, nghèo
Đói, nghèo là một khái niệm đa chiều vừa dễ và vừa khó để định nghĩa một
cách toàn diện. Có rất nhiều khái niệm về nghèo, đóinhưng,đến nay, phổ biến nhất
là hai khái niệm “ Nghèo tuyệt đối” và “Nghèo tương đối”[4].


Theo nghĩa tuyệt đối thì nghèo là một trạng thái mà các nhân thiếu những nguồn lực
thiết yếu để có thể tồn tại. Khái niệm này nhằm vào phúc lợi kinh tế tuyệt đối của
nghười nghèo, tách rời phân phối phúc lợi của xã hội. Điều này có nghĩa là mức tối
thiểu được xác định bằng ranh giới nghèo khổ, ranh giới nghèo khổ phản ánh mức

độ nghèo khổ của một tầng lớp dân cư nhất định trong thời gian nhất định. Nó thay
đổi cùng với sự phát triển kinh tế và những chính sách điều chỉnh xã hội trong các
kế hoạch chung và dài hạn của quốc gia. Ranh giới nghèo khổ có thể được xếp theo
cách tiếp cận “đáp ứng nhu cầu cơ bản” trong đó chỉ rõ mức dinh dưỡng tối thiểu và

những nhu cầu thực phẩm khác.
• Theo nghĩa tương đối nghèo là tình trạng thiếu hụt câc nguồn lực của các cá nhân
hoặc nhóm trong tương quan của các thành viên khác trong xã hội, tức là so với
mức sống tương đối của họ. Như vậy, nghèo tương đối là tình tạng của một bộ phận
dân cư có mức sống dưới mức trung của cộng đồng tại địa phương xem xét. Khái
niệm này thường được các nhà xã hội học ưa dùng vì nghèo tương đối liên quan đến
sự chênh lệch về những nguồn lực vật chất, nghĩa là về bất bình đẳng được phân
phối trong xã hội. Phương pháp tiếp cận này cho thấy rằng nghèo khổ là khái niệm
thay đổi theo không gian và thời gian, cũng như theo trình độ học vấn và truyền

14


thống, đây là cách tiếp cận đối nghèo tập trung vào phúc lợi của tỷ lệ dân nghèo
nhất, có tính đến mức phân phối phúc lợi của toàn xã hội. Từ cách hiểu như trên, có
thể nhận thấy khái niệm về nghèo tương đối phát triển theo thời gian, tùy thuộc vào
mức sống của xã hội.
Ở Việt Nam, khái niệm nghèo đã được cụ thể hóa thành hai nội dung tương
ứng với hai cấp độ: nghèo và đói.
-

Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một phần những
nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung

-


bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo cớ mức sống dưới mức tối thiểu và thu
nhập không đủ đảm bảo như cầu và vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là các hộ dân cư
hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay mượn cộng đồng và thiếu khả
năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không đáng kể, nhà ở dột nát, còn thất học, bình
quân thu nhập dưới 13kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000VND)
Ngày nay, hầu hết các tổ chức quốc tế như NHTG, Liên hiệp quốc đều đã mở
rộng khái niệm đói nghèo, khái niệm này được hiểu gồm các khía cạnh sau[3]:



Trước tiên và trên hết là sự khốn cùng về vật chất, được lo lường theo một tiêu chí

thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng.
• Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế.
• Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia đình hay cá nhân


bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hoặc về sức khỏe.
Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo.
Qua các định nghĩa trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo đói:
“Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều kiện về cuộc
sống như ăn mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các
quyết định của cộng đồng.”
1.1.2. Các thước đo nghèo đói
Để xác định mức nghèo đói, ta dựa vào 3 yếu tố. Thứ nhất, cần lựa chọn một
tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phản ánh phúc lợi. Thứ hai, cần lựa chọn một ngưỡng
nghèo, đó là mức giới hạn mà cá nhân hay hộ gia định nằm dưới mức đó sẽ bị coi là


15


nghèo. Cuối cùng, phải chọn ra một thước đo đói nghèo được sử dụng để phản ánh
cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư [3].
1.1.2.1. Xác định chỉ số phúc lợi
Những khía cạnh cơ bản của đói nghèo được phản ánh bằng tiền tệ và phi
-

tiền tệ, nó được hiểu như sau:
Khía cạnh tiền tệ: được phản ánh chủ yếu qua mức chi tiêu bình quân đầu người và
số liệu về thu nhập, trong đó số liệu về chi tiêu được sử dụng nhiều hơn vì nó liên

-

quan chặt chẽ đến phúc lợi.
Khía cạnh phi tiền tệ: được dùng để đo tình trạng thiếu thốn về y tế, giáo dục, sự
kém tự tin, sự bất an. Khía cạnh này dựa trên sự đánh giá chủ quan của các cá nhân.
1.1.2.2. Lựa chọn và ước tính ngưỡng nghèo
Ngưỡng nghèo là ranh giới để phân biệt giữa người nghèo và người không
nghèo, nó có thể được tính bằng tiền tệ hoặc phi tiền tệ.
Có hai ngưỡng nghèo:

a) Ngưỡng nghèo tuyệt đối

Là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân
hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh, bao gồm hai loại:
-

Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm: là số tiền cần thiết để mua lương thực, thực


-

phẩm hàng ngày
Ngưỡng nghèo chung: là số tiền cần để mua lương thực thực phẩm và cả pần chi

tiêu cho các sản phẩm phi lương thực.
b) Ngưỡng nghèo tương đối
Được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong cả nước.
Nó phản ánh một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng.
1.1.2.3. Đo đói nghèo
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, có thể tính toán một số thước đo để
mô tả qui mô, độ sâu và độ nghiêm trọng của đói nghèo. Ba thước đo thông dụng
nhất phản ánh các khía cạnh đó lần lượt là chỉ số đếm đầu (hay còn gọi là tỉ lệ đói
nghèo), khoảng nghèo và bình phương khoảng nghèo, ba thước đo đó đều có thể
được tính bằng công thức chung như sau:
=
16


Trong đó
M: số người nghèo
N: Tổng dân số
z: Ngưỡng nghèo
đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa những người nghèo.
mức chi tiêu ( hoặc mức thu nhập) tính trên đầu người.
1.1.2.4. Chuẩn nghèo của Việt Nam
Chuẩn nghèo của Việt Nam giai đoạn 2011-2015
Quyết địnhSố: 09/2011/QĐ-TTg do Thủ tướng chính phủban hành về chuẩn
hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 như sau:[5]

1. Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
2. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
3. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
4. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Chuẩn nghèo của Việt Nam giai đoạn 2016-2020
Tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020
gồm tiêu chí về thu nhập, mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.
Tiêu chí về thu nhập, chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn là 700.000
đồng/người/tháng; khu vực thành thị 900.000 đồng/người/tháng. Chuẩn cận nghèo
khu vực nông thôn là 1.000.000 đồng/người/tháng; khu vực thành thị 1.300.000
đồng/người/tháng. Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, bao
gồm 5 dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin. Chỉ số đo
lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ số: Tiếp cận các dịch
vụ y tế; BHYT; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất
lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà
tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
Quyết định cũng quy định rõ chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống
trung bình áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ
17


đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ
700.000 đồng trở xuống; thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng
đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Thu

nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống; Thu nhập bình quân
đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 3 chỉ số đo
lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Hộ cận nghèo khu vực nông thôn là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng
trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 3 chỉ số đo lường mức độ
thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Hộ cận nghèo khu vực thành thị là hộ có
thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu
hụt dưới 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hộ có mức sống trung bình ở khu vực nông thôn là hộ có thu nhập bình quân
đầu người/tháng trên 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng. Hộ có mức sống trung
bình ở khu vực thành thị là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.300.000
đồng đến 1.950.000 đồng. Mức chuẩn nghèo trên là căn cứ để đo lường và giám sát
mức độ thiếu hụt về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; là
cơ sở xác định đối tượng để thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội;
hoạch định các chính sách kinh tế-xã hội khác trong giai đoạn 2016-2020.

1.2. TÍN DỤNG VI MÔ CHO NGƯỜI NGHÈO
1.2.1. Hiểu về tín dụng vi mô
1.2.1.1 Tín dụng vi mô là một bộ phận của tài chính vi mô
Một cách khái quát, tín dụng vi mô bao gồm các hoạt động cung cấp dịch vụ
tài chính cho những người có thu nhập thấp và những người nghèo lao động tự do.
Hoạt động tín dụng vi mô hướng vào mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, tăng phúc lợi
xã hội hơn là vì mục tiêu lợi nhuận.

18


Quan điểm này khởi đầu từ phát biểu của Otero (1999), đến nay được công
nhận là quan điểm chính thức của Ngân hàng Thế giới. Những hoạt động tài chính
vi mô không đơn giản chỉ là các nghiệp vụ ngân hàng mà phải là công cụ hỗ trợ

phát triển kinh tế xã hội[15]. Tài chính vi mô thường gắn các dịch vụ tín dụng, tiết
kiệm, bảo hiểm cho những người nghèo và rất nghèo – đối tượng có nhu cầu rất lớn
đối với các sản phẩm tài chính, nhưng không tiếp cận được các thể chế tài chính
chính thức [15]. Ở phạm vi hẹp hơn và gắn với thực tiễn của thị trường Việt Nam,
Nhóm công tác Tài chính vi mô tại Việt Nam (VNFWG) cho rằngtài chính vi mô là
việc cấp cho các hộ gia đình rất nghèo các khoản vay rất nhỏ, nhằm mục đích giúp
họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh
nhỏ[20]. Schreiner và Colombettính thêm việc tiếp cận các khoản tiền gửi nhỏ vào
hệ sản phẩm của tài chính vi mô, cụ thể, “Tài chính vi mô là các nỗ lực để cải thiện
khả năng tiếp cận các khoản tiền gửi nhỏ và khoản vay nhỏ đối với người nghèo mà
bị các ngân hàng từ chối”[16]. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đề cập rất chi
tiết rằng tài chính vi mô là việc cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính bao gồm gửi
tiền, cho vay, thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm cho người nghèo và các hộ gia
đình và các hoạt động kinh doanh nhỏ của họ[13].
1.2.1.2 Tín dụng vi mô theo quy định hiện hành của Việt Nam
Theo Pháp luật hiện hành của Việt Nam “Tín dụng vi mô: là khoản cho
vay có giá trị nhỏ, có hoặc không có tài sản bảo đảm đối với các hộ gia đình,
cá nhân có thu nhập thấp để sử dụng vào các hoạt động tạo thu nhập và cải
thiện điều kiện sống”[11].
Tín dụng vi mô thường là khoản vay dành cho cá nhân, không cần tài sản thế
chấp hoặc thông qua việc cho vay theo nhóm”[20].
Trong thực tiễn, tín dụng vi mô được cụ thể hóa rõ nét hơn, cho từng mục
tiêu cho vay cụ thể tương ứng với từng đối tượng vay vốn cụ thể. Tiêu biểu như:
• Chương trình cho vay giải quyết việc làm nhằm hỗ trợ các hộ gia đình thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ, từ đó tạo thêm việc làm cho người lao động tại
địa phương, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở Việt Nam.

19





Chương trình tín dụng phụ nữ nhằm hỗ trợ vốn nhỏ, linh hoạt cho chị em phụ nữ
phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.2. Đối tượng, mục tiêu và nguyên tắc của tín dụng vi mô
Theo [2], [6], [7] các chương trình tín dụng vi mô đều có những đặc điểm sau:
1.2.2.1. Về đối tượng của tín dụng vi mô
Đối tượng cho vay: cá nhân hoặc hộ gia đình nghèo, có thu nhập thấp.
Đối tượng ưu tiên: Phụ nữ. Phần lớn, theo thống kê của các chương trình tín
dụng vi mô được thực hiện ở các nước trên thế giới thì 70% [2], [8],[18] khách hàng
của chương trình là phụ nữ. Những khoản vay và các hoạt động kinh doanh mà
người vay là phụ nữ đã làm cho họ mạnh dạn hơn, giúp họ phương tiện để tự nuôi
sống mình, thoát nghèo, phá vỡ sự phân biệt đối xử trong xã hội và sự bất công
trong gia đình.
1.2.2.2. Mục đích của tín dụng vi mô



Đáp ứng nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh, cải thiện cuộc sống, phù hợp với đặc



điểm của từng cá nhân/hộ gia đình.
Nâng cao năng lực làm việc, sản xuất kinh doanh của các thành viên tham gia
chương trình, tạo thêm việc làm cho xã hội.
1.2.2.3. Nguyên tắc cho vay

-

Không đề cao tài sản đảm bảo

Đại đa số những hộ gia đình vay vốn đều thuộc diện có thu nhập thấp hoặc
nghèo. Chuẩn nghèo được qui định tuỳ theo từng vùng, khu vực tại Việt Nam hoặc
theo tiêu chuẩn do tổ chức cho vay qui định. Không cần thế chấp hoặc không cần tài
sản để bảo đảm là một trong những nguyên tắc của tín dụng vi mô. Nếu yêu cầu thế
chấp bảo đảm về tài sản cho các khoản vay tín dụng của người nghèo thì có thể cản
trở các nổ lực phát triển đời sống của họ.
Bên cạnh đó, khách hàng của tín dụng vi mô thường không có tài sản ký quỹ
- tài sản thế chấp cho cá khoản vay. Do vậy, thông thường đối với các chương tình
tín dụng vi mô hay các sản phẩm vi mô thì tài sản thế chấp sẽ được thay thế bằng tín
chấp và tiết kiệm bắt buộc.

20


-

Thủ tục cho vay đơn giản, dễ thực hiện
Chỉ có thủ tục cho vay đơn giản mới tạo điều kiện vay cho người nghèo, học
vấn thấp, hay tự ti mặc cảm mạnh dạn tiếp cận với nguồn vốn tín dụng vi mô.
Thực tế cho thấy, thủ tục càng phức tạp càng làm cho những người nghèo
thực sự muốn vay có tâm lý e ngại, cảm thấy mình bị phân biệt đối xử khắt khe và
kết quả là họ không muốn tiếp cận để vay vốn.
Thủ tục càng đơn giản thì càng tạo tin tưởng cho người dân để họ chủ động
vay, xoá bỏ tâm lý bị coi thường do không hiểu thủ tục, những qui định rườm rà khó
hiểu của bên cho vay đề ra.
Do vậy, thủ tục cho vay đơn giản chính là một trong những nguyên tắc thu
hút người nghèo mạnh dạn vay vốn.

-


Cung cấp các khoản vay có giá trị nhỏ
Đây là một nguyên tắc đương nhiên cần phải có vì đúng với tên gọi của nó là
tín dụng vi mô.
Người đi vay là người nghèo, người chưa có khả năng sử dụng các nguồn
vốn một cách hiệu quả cao hay nói đúng hơn là nếu cho họ vay quá nhiều tiền thì họ
chưa chắc đã biết cách sử dụng. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ chủ yếu
là đơn lẻ, ít vốn thường là hình thức cá nhân và hộ gia đình, khoản vay của họ có
quy mô thấp hơn rất nhiều so với tín dụng thông thương, ngoài ra, do tâm lý khoản
vay lớn thì đè nặng gánh nặng lo trả nợ.
Nếu như các nhà cung cấp vốn vay cung cấp các khoản vay có giá trị lớn
hoặc vừa thì các nguyên tắc về đối tượng vay, điều kiện thế chấp, thủ tục vay phải
thay đổi. Vì vậy, có thể nói nguyên tắc này là tiền đề của các nguyên tắc đã nêu. Có
nghĩa là khi giá trị khoản tiền cho vay thay đổi theo chiều hướng tăng lên thì một số
nguyên tắc cho vay theo đó sẽ thay đổi theo.
Chính vì vậy có thể nói nguyên tắc này là nguyên tắc chủ đạo được nhấn
mạnh hàng đầu.

-

Lãi suất áp dụng cho các khoản tín dụng vi mô thường cao hơn lãi suất cho vay
thông thường áp dụng của NHTM

21


Lãi suất hợp lý trả dần khoản nhỏ, tiết kiệm nhỏ và rút một món tiền lớn hơn,
đó là đặc điểm thứ ba của sản phẩm tín dụng này. Nếu lãi suất quá thấp thì tổ chức
gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Ngược lại, với lãi suất cao, người nghèo
đi vay gặp khó khăn trong việc trả nợ. Vì vậy tổ chức cần có mức lãi suất phù hợp
vừa uy trì được mức an toàn cho hoạt động vừa không gây khó khăn cho người

nghèo, người nghèo thì thu nhập hàng tháng hàng tuần của họ tương đối thấp vì vậy
mà việc trả nợ có được trả dần bằng khoản nhỏ, để không gây áp lực nợ nần.
Nguyên tắc này có những tác dụng sau đây:
+ Ngăn chặn người vay vốn không sử dụng đúng mục đích vay mà lấy tiền
vay được từ chương trình tín dụng vi mô đem gửi tiết kiệm ở ngân hàng thương mại
để lấy lời, hoặc ít nhất là không phải chịu trả khoản lãi, hoặc vay với mục đích cuối
cùng là để dành tiền sử dụng trong trường hợp cần thiết.
+ Là cách thức sàng lọc tự nhiên, để những người tham gia chương trình vay
thực sự là những người cần vốn.
+ Nguyên tắc này đảm bảo cho chương trình tín dụng vi mô tồn tại bền vững,
kinh doanh có lãi, giúp tái tạo nguồn vốn để phát triển qui mô của chương trình làm
cho nhiều người có thể được vay và hưởng lợi từ chương trình tín dụng vi mô.
1.2.3. Vai trò, tác động của tín dụng vi mô


Tín dụng vi mô góp phần làm tăng chất lượng cuộc sống, phản ánh qua hai tiêu chí:
tăng chi tiêu và tăng thu nhập của cá nhân, hộ gia đình. Tín dụng vi mô có tác dụng
tích cực đến việc kích thích khả năng kinh doanh nhỏ của người vay, đặc biệt là phụ
nữ. Để sử dụng vốn vay hiệu quả người vay phải tự mình tính toán, thu chi hợp lý
để mang lại năng suất trong kinh doanh. Tuy nhiên tác động này còn hạn chế bởi
năng suất là công nghệ của các hộ kinh doanh chỉ ở mức thấp do họ chỉ chăn nuôi



và làm thủ công.
Việc thoát khỏi cảnh nghèo, nâng cao thu nhập với sự hỗ trợ của tín dụng sản xuất
kinh doanh nhỏ (vi mô) còn chậm và không đồng đều. Người nghèo không phải
nhanh chóng thoát nghèo chỉ nhờ một hay vài khoản vốn vay tạo thu nhập: thậm chí
một nguồn vốn vay kinh doanh ổn định vẫn có thể là chưa đủ đáp ứng.


22




Bất kỳ một tình trạng tăng thu nhập cải thiện đời sống nào xảy ra cũng đều mong
manh và có thể dễ dàng bị đảo ngược tới thu nhập, chi phí hoặc cả thu nhập và chi
phí của các hộ gia đình. Để đạt được kết quả bền vững thì tín dụng vi mô cần phải
kết hợp với một sự tiếp cận lâu dài tới một loạt dịch vụ tài chính - Tiết kiệm tự
nguyện, nhận tiền gửi tiết kiệm bắt buộc, đại lý chuyển tiền, đại lý bảo hiểm, thu hộ,
chi hộ cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp. Đó chính là dịch vụ tài chính
ngân hàng được qui định trong Nghị định số 28/2005/NĐ-CP về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức tín dụng vi mô tại Việt Nam được Thủ tướng chính phủ ban

-

hành vào ngày 9/3/2005[11].
Với nhu cầu về vốn, người nghèo có thể tham gia mượn vốn để sản xuất kinh
doanh. Việc mượn vốn cho phép người nghèo có thêm cơ hội phát triển kinh tế, ổn
định cuộc sống. Khuyến khích, phát triển khả năng quản lý cũng như bình ổn tài
chính giúp người nghèo thoát nghèo và dần dần cải thiện đời sống.
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ TÍN DỤNG VI MÔ
TRONG VIỆC GIẢM NGHÈO
Ngày nay tầm quan trọng của TDVM đã được coi trọng, được các tổ chức quốc
tế đứng ra vận động để lấy năm 2005 làm năm TÍN DỤNG VI MÔ của thế giới và các
nhà tổ chức đang khẩn trương chuẩn bị một hội nghị thượng đỉnh về tín dụng vi mô.
Trong nền kinh tế đang hội nhập, những thay đổi của nền tài chính bên ngoài có tác
động trực tiếp đến nền tài chính nước ta, thậm chí cả về tổ chức, thể chế, chính sách...
TDVM đang là vấn đề đang được các lãnh đạo hàng đầu thế giới quan tâm,
nó có thể là một dạng của viện trợ kinh tế nhưng lại giúp cấu trúc sự phát triển bền

vững của nước nhận viện trợ, giúp đỡ trên cơ sở lợi ích song phương.
Số liệu về các hoạt động của các tổ chức TDVM được công bố và xuất bản
rất nhiều bởi các tổ chức khác nhau. Để nghiên cứu về TDVM thì các số liệu này rất
hữu ích. Việc phân tổ các số liệu thu được theo các tiêu chí: số người nghèo được
vay tiền, giới tính người vay, số nợ đã trả, những món nợ chưa trả, số dư tiết
kiệm.v.v cho từng loại tín dụng, địa phương, khu vực, vùng... Tập hợp của các
thông tin này sẽ giúp cho chúng ta thấy được mỗi loại TDVM đang phục vụ bao

23


nhiêu người nghèo đang vay, số phụ nữ vay, số nợ chưa trả, đã trả, các khoản tiết
kiệm.v.vloại hình tín dụng nào hoạt động có hiệu quả hơn, giúp đỡ người nghèo
nhiều hơn có thể được quan tâm phát triển và nhân rộng, biết được các loại tín dụng
đang gặp khó khăn cần phải được trợ giúp để cải tiến phương thức hoạt động của
nó. Việc sử dụng các thông tin này sẽ giúp ích rất nhiều cho các nhà hoạch định
chính sách, ở góc độ nghiên cứu việc phân tích nó sẽ cho ta nhiều thông tin ở mức
độ sâu sắc hơn.
Các nhà tài trợ quốc tế cho chương trình TDVM luôn muốn biết các thông
tin để lựa chọn loại hình tài trợ, các thông tin đó là: số khách hàng của từng loại
chương trình, số người nghèo nhất trong toàn bộ khách hàng, số khách hàng nghèo
nhất là phụ nữ, số khách hàng đã thoát ra khỏi diện nghèo. Điều này cũng rất quan
trọng đối với những nhà hoạch định chính sách.
1.3.1. Ngân hàng Grameen ở Bang-la-det
Trong các chương trình TDVM thì chương trình của ngân hàng Grameem được
gọi là chương trình tín dụng Grameen, đã có nhiều thành công lớn lao, được xem là bài
học cho những tổ chức muốn tiến hành hoạt động của chương trình TDVM.
Chương trình tín dụng vi mô Grameencó những đặc trưng sau đây:[1],
[12], [19]
1) Đề xướng việc được tiếp nhận tín dụng như là một quyền của con người.

2) Nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ các gia đình nghèo, giúp họ tự mình giảm
nghèo và thoát nghèo. Nó hướng tới người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo.
3) Nét đặc trưng nhất của tín dụng Grameen là nó không được đặt trên cơ sở
của các hợp đồng ràng buộc hay có tính áp đặt mang tính pháp lý. Nó dựa trên sự
tín nhiệm, không dựa trên hệ thống và các thủ tục pháp lý.
4) Được đưa ra để tạo việc làm liên quan đến hoạt động nâng cao thu nhập,
nhà ở cho người nghèo chứ không phải là cho tiêu dùng.
5) Nó được xem là một thách thức đối với các ngân hàng thường từ chối
cung cấp tín dụng cho người nghèo bởi vì coi họ là những người không đáng tin cậy

24


trong hoạt tín dụng. Kết quả là nó đã bác bỏ được phương pháp lý thuyết cơ bản của
ngân hàng và tạo ra một phương pháp hoạt động riêng của nó.
6) Nó cung cấp dịch vụ tận nhà cho người nghèo trên nguyên tắc “người dân
không phải tới ngân hàng, ngân hàng phải tới với người dân”.
7) Để nhận được các khoản vay thì người vay phải tham gia nhóm những
người vay.
8) Khoản vay mới có thể được chấp nhận trong chu kỳ kế tiếp nếu họ đã trả
được khoản vay trước.
9) Tất cả các khoản vay phải được trả theo định kỳ (tuần, tháng).
10) Một người vay có thể vay được nhiều hơn một khoản vay tại cùng một
thời điểm.
11) Người vay phải tham gia cả chương trình tiết kiệm tự nguyện và bắt buộc.
12) Thông thường, những khoản vay được tiến hành thông qua các tổ chức
phi lợi nhuận hoặc các tổ chức trên nguyên tắc chương trình được quản lý bởi người
vay, nếu chương trình được tiến hành thông qua các tổ chức phi lợi nhuận không
được quản lý bởi người vay thì những nỗ lực được tạo ra là để giữ lãi suất vay mức
độ gần sát với mức thị trường để duy trì sự bền vững của chương trình hơn là mang

lại một khoản thu nhập hấp dẫn cho nhà đầu tư.
Nguyên tắc cơ bản của tín dụng Grameen là giữ lãi suất gần với lãi suất thị
trường, phổ biến trong khu vực ít có sự hoạt của các ngân hàng thương mại, và nếu
có thể thì không cần có sự trợ giúp vật chất nào khác. Đạt được sự tự đứng vững là
một mục đích trực tiếp của chương trình. Chương trình cần phải đạt sự tự đứng
vững càng sớm càng tốt, vì vậy chương trình phải mở rộng phạm vi của nó mà
không cần giới hạn nguồn vốn.
13) Chương trình tín dụng Grameen đã đề cao ưu tiên trong việc xây dựng
nguồn vốn xã hội. Nó được thúc đẩy thông qua việc hình thành các nhóm, các trung
tâm, phát triển năng lực chất lượng đội ngũ lãnh đạo thông qua bầu cử lãnh đạo
nhóm và trung tâm hàng năm, lựa chọn các thành viên hội đồng khi tổ chức được
làm chủ bởi người vay. Phát triển chương trình mục tiêu xã hội quản lý bởi những

25


×