Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

ĐẶC điểm GIAO TIẾP của SINH VIÊN TRƯỜNG đại học kỹ THUẬT y dược đà NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.65 KB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ NGA

ĐẶC ĐIỂM GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KỸ THUẬT Y - DƯỢC ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số
: 60310401

LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. PHÙNG ĐÌNH MẪN

HUẾ, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nga



LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS Phùng Đình Mẫn, người thầy đã trực tiếp
hướng dẫn, dìu dắt, chỉ bảo những kiến thức chuyên
môn và kiến thức khoa học quý báu.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo Khoa Tâm lý
- Giáo dục, Phòng Quản lý sau Đại học, các Giáo sư, Tiến
sĩ đã giảng dạy lớp cao học Tâm lý học khóa XXII trường
Đại học Sư phạm - Đại học Huế; Ban Giám hiệu, giảng
viên, sinh viên, trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà
Nẵng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới
người thân, bạn bè đã quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt
khóa học.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Nga

iii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................5
2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................7
3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................7
4. Giả thuyết khoa học...........................................................................................7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................................7

6. Phạm vi nghiên cứu...........................................................................................7
7. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................8
8. Đóng góp của đề tài...........................................................................................8
9. Cấu trúc của luận văn.........................................................................................8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIAO TIẾP..............................9
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về giao tiếp.......................................................9
1.1.1. Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học nước ngoài......................................9
1.1.2. Nghiên cứu về giao tiếp ở Việt Nam...................................................11
1.2. Những vấn đề lý luận chung về giao tiếp..................................................13
1.2.1. Khái niệm chung về giao tiếp.............................................................13
1.2.2. Cấu trúc của giao tiếp........................................................................17
1.2.3. Chức năng của giao tiếp......................................................................19
1.2.4. Phân loại giao tiếp..............................................................................20
1.2.5. Giao tiếp và sự hình thành, phát triển nhân cách................................22
1.3. Những phương tiện tâm lý cơ bản của giao tiếp.......................................24
1.3.1. Nhu cầu giao tiếp................................................................................24
1.3.2. Kỹ năng giao tiếp................................................................................27
1.3.3. Nội dung giao tiếp..............................................................................29
1.4. Giao tiếp trong hoạt động y học................................................................31
1.4.1. Hoạt động y học..................................................................................31
1.4.2. Vai trò giao tiếp của sinh viên Kỹ thuật Y - Dược...............................32
Tiểu kết chương 1..................................................................................................34
1


CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................35
2.1. Khái quát về trường Đại học Kỹ thuật Y- Dược Đà Nẵng.........................35
2.2. Tổ chức nghiên cứu...................................................................................38
2.3. Các phương pháp nghiên cứu....................................................................38
2.3.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận........................................38

2.3.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.....................................38
2.3.3. Nhóm các phương pháp thống kê toán học.........................................42
Tiểu kết chương 2..................................................................................................44
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................45
3.1. Đặc điểm giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ Thuật Y - Dược
Đà Nẵng...........................................................................................................45
3.1.1. Nhu cầu giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược
Đà Nẵng........................................................................................................45
3.1.2. Nội dung giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y- Dược
Đà Nẵng........................................................................................................50
3.1.3. Kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược
Đà Nẵng........................................................................................................58
3.2. Biện pháp nâng cao năng lực giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ
thuật Y - Dược Đà Nẵng...................................................................................70
3.2.1. Nâng cao nhu cầu giao tiếp cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng..............................................................................................70
3.2.2. Tăng cường trang bị và củng cố cho sinh viên hệ thống tri thức về tâm
lý học nói chung và giao tiếp nói riêng.........................................................71
3.2.3. Tổ chức, hướng dẫn sinh viên thường xuyên và tích cực rèn luyện kỹ
năng giao tiếp...............................................................................................73
3.2.4. Trang bị cho sinh viên hệ thống cách thức tự đánh giá nội dung, nhu
cầu và kỹ năng giao tiếp của bản thân..........................................................77
3.2.5. Tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực, có
khả năng phát huy mạnh mẽ vai trò chủ dộng, sáng tạo, tạo điều kiện cho
sinh viên rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho bản thân......................................78
2


3.3. Thực nghiệm các biện pháp nâng cao năng lực giao tiếp của sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng....................................................79
3.3.1. Mô tả các biện pháp tác động.............................................................79

3.3.2. Kết quả thử nghiệm............................................................................81
Tiểu kết chương 3..................................................................................................83
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ........................................................................84
1. Kết luận............................................................................................................ 84
2. Khuyến nghị.....................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................88
PHỤ LỤC

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

KN

2

KNGT

Kỹ năng giao tiếp

3


NCGT

Nhu cầu giao tiếp

4

TLH

5

X

Kỹ năng

Tâm lý học
Số trung bình cộng

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là mặt đặc trưng nhất trong hành vi của con người, nhà triết học lỗi lạc
L. Phơbách đã viết về vai trò của giao tiếp đối với sự biểu hiện bản chất của con
người rằng “bản chất người chỉ biểu hiện trong giao tiếp, trong sự thống nhất của
con người với con người, trong sự thống nhất dựa trên tính hiện thực của sự khác
biệt giữa tôi và bạn”[1] là một nhu cầu không thể thiếu được và tồn tại cùng với hoạt
động góp phần tạo nên những mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội, trong “Bản thảo kinh
tế - triết học” (1894), K. Marx đã viết “Giao tiếp trực tiếp với những người khác đã

trở thành khí quan biểu hiện sinh hoạt của tôi và một trong những phương thức
chiếm hữu sinh hoạt của con người”, là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình
thành và phát triển nhân cách của cá nhân. A.V.Zapôrôjet từng khẳng định “Giao tiếp
là nguồn quan trọng nhất của sự phát triển tâm lý con người trong quá trình phát
sinh cá thể của nó”. Qua giao tiếp, những kinh nghiệm lịch sử - xã hội được các thế
hệ truyền lại cho nhau, làm phong phú thêm nền văn hoá của cộng đồng, của dân tộc
và của chính mỗi con người. V.M.Becherev cho rằng “Nếu không có bắt chước thì có
lẽ không có nhân cách như một cá thể xã hội, chính giao tiếp với những người khác
là nguồn tư liệu của bắt chước, và nhờ sự hợp tác giữa con người với con người mà
người này có ảnh hưởng đến người khác và người này ám thị được người khác” [11].
Trong giao tiếp hằng ngày, con người phải ứng phó với biết bao tình huống
muôn màu, muôn vẻ, muôn sắc, muôn diện… có khi dễ dàng xử lý, có lúc rơi vào
bế tắc, khó xử. Giao tiếp, ứng xử khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả “là cả một
nghệ thuật mà không phải ai cũng nắm được, bất kì ai cũng phải học điều đó”
(I.Cvapilic) [2]. Nắm được nghệ thuật này là sở hữu một trong những bí quyết thành
công trong cuộc sống, trong quan hệ giữa con người với con người nói chung và đặc
biệt là trong sự hình thành năng lực nghề nghiệp của cá nhân nói riêng.
Đối với mọi ngành nghề nói chung và nghề thầy thuốc nói riêng, giao tiếp không
chỉ có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách mà còn là một
bộ phận cấu thành hoạt động nghề thầy thuốc, một thành phần chủ đạo trong cấu
trúc năng lực của người thầy thuốc. Nghề thầy thuốc là một trong những nghề
5


nghiệp có liên quan rất nhiều và trực tiếp đến tính mạng con người. Nghề thầy
thuốc sẽ mất hết ý nghĩa nếu không có giao tiếp giữa thầy thuốc và bệnh nhân, thầy
thuốc với người nhà bệnh nhân… Hơn nữa đối tượng giao tiếp ở đây chủ yếu là
người bệnh và người nhà người bệnh. Những đối tượng này luôn mang tâm trạng
buồn, lo lắng, đau đớn, chán nản...nên thành công trong giao tiếp là rất khó, đòi hỏi
người thầy thuốc không chỉ có trình độ về chuyên môn mà cần phải có kỹ năng, có

nghệ thuật. Tuy nhiên, năng lực giao tiếp của người thầy thuốc không phải tự nhiên
mà có, là cái không có sẵn để có thể truyền từ người này sang người khác. Trái lại,
sự hình thành và phát triển nó là một quá trình hoạt động học tập, rèn luyện lâu dài
trong Nhà trường Kỹ thuật Y - Dược, bệnh viện, các cơ sở Y tế… và tiếp tục rèn
luyện trong suốt cả cuộc đời của một con người. Cho nên, rèn luyện để nâng cao
năng lực giao tiếp là một trong những nhiệm vụ đào tạo nghề của nhà trường Kỹ
thuật Y - Dược nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp cho sinh viên. Mặt khác,
trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng là nơi đào tạo nghề cho những người
thầy thuốc tương lai phục vụ cho công tác xây dựng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu của xã hội. Hành trang của sinh viên khi bước vào cuộc sống nghề thầy thuốc
ngoài tư cách, phẩm chất đạo đức tốt còn phải vững về chuyên môn và giỏi về
nghiệp vụ nghề thầy thuốc - trong đó, có năng lực giao tiếp. Vì vậy, cần thiết phải
nâng cao năng lực giao tiếp cho sinh viên Kỹ thuật Y - Dược. Muốn nâng cao năng
lực giao tiếp cho sinh viên, cần phải nắm được đặc điểm giao tiếp của họ.
Tuy nhiên, trên thực tế, ở trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng chưa quan
tâm đúng mức đến công tác rèn luyện năng lực giao tiếp cho sinh viên. Việc rèn
luyện chưa thực sự dựa trên cơ sở khoa học, chưa căn cứ vào đặc điểm giao tiếp của
sinh viên, do đó, hiệu quả rèn luyện chưa cao. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm, bởi
nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Song, từ trước đến nay, vẫn chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về đặc điểm giao
tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y- Dược Đà Nẵng
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi đã chọn
nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng ”
6


2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, phân tích thực trạng về các đặc điểm
giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng, luận văn đề
xuất các biện pháp nhằm nâng cao năng lực giao tiếp của sinh viên.

3. Đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
Khách thể khảo sát là 220 sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
4. Giả thuyết khoa học
Giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng có những
đặc điểm riêng. Có sự khác biệt về giới, ngành học, khoá học trong giao tiếp của họ.
Nếu đề xuất được các biện pháp tác động phù hợp thì sẽ nâng cao được năng lực
giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Khái quát cơ sở lý luận về giao tiếp của sinh viên
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về các đặc điểm giao tiếp của sinh
viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
5.3. Đề xuất các biện pháp nâng cao năng lực giao tiếp của sinh viên trường
Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
6. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện thời gian cho phép, đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các vấn đề sau:
- Về không gian: Chỉ nghiên cứu giao tiếp trong nhà trường của sinh viên trường
Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
- Về thời gian: Từ tháng 01đến tháng 09 năm 2015
- Về mức độ tiếp cận đối tượng: Chỉ nghiên cứu ba phương diện của giao tiếp là
nội dung giao tiếp, nhu cầu giao tiếp (NCGT) và kỹ năng giao tiếp (KNGT) của trên
220 sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng

7


7. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp
nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Bao gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh… nhằm xây
dựng cơ sở lý luận về vấn đề giao tiếp của sinh viên
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Gồm các phương pháp: trắc nghiệm tâm lý (test), điều tra bằng phiếu hỏi
(anket), quan sát, phỏng vấn, thực nghiệm, nhằm khảo sát, thu thập thông tin về
thực trạng đặc điểm giao tiếp và thực nghiệm các biện pháp tác động để nâng cao
năng lực giao tiếp của sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Bao gồm các phương pháp tính tỉ lệ phần trăm, trung bình cộng, hệ số tương
quan, kiểm định giả thiết… nhằm xử lý kết quả nghiên cứu.
8. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu giúp nhận diện đặc điểm giao tiếp của sinh viên trường Đại
học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng, tạo cơ sở cho việc đề xuất biện pháp nâng cao
năng lực giao tiếp, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giao tiếp với bệnh nhân,
người nhà bệnh nhân… của người thầy thuốc.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương là:
Chương 1: Cơ sơ lý luận của vấn đề giao tiếp
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIAO TIẾP

1.1. Tổng quan các nghiên cứu về giao tiếp
1.1.1. Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học nước ngoài
Cùng với hoạt động, giao tiếp là phạm trù nền tảng của tâm lý học (TLH). Từ
xưa, vấn đề này đã được nhiều khoa học quan tâm nghiên cứu. Vào thời cổ đại ở Hy
Lạp, nhà triết học Socrat (469 - 399 TCN) và Platon (437 - 377 TCN) đã đề cập đến
phương pháp đối thoại, phương pháp trò chuyện như là sự giao tiếp để đi đến chân
lý. Việc nghiên cứu để tìm ra bản chất của giao tiếp và vai trò của giao tiếp đối với
sự hình thành nhân cách con người chưa được đề cập đến.
Thế kỷ XIX, giao tiếp được xem như là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt đối với sự
hình thành nhân cách con người và cuộc sống xã hội loài người. Trong “bản thảo kinh
tế - triết học” (1894), K. Marx cũng xét đến vai trò giao tiếp trong hoạt động xã hội
và tiêu dùng xã hội: Theo Marx, thông qua giao tiếp với người khác là chiếc gương
cho mỗi người tự soi mình. Ông đã dùng đến khái niệm “giao tiếp vật chất” để chỉ
mối quan hệ sản xuất thực tiễn của con người. Sản xuất vật chất và tái sản xuất sức
lao động xã hội đã buộc con người phải giao tiếp với nhau. Con người chỉ trở thành
người khi nó có những quan hệ hiện thực với những người khác, có giao tiếp trực tiếp
với những người khác.
Trong TLH thế giới và TLH Xô Viết, một trong những người đặt nền móng đầu
tiên cho vấn đề giao tiếp là V.M. Becherev - người sáng lập ra cái gọi là “phản xạ học
tập thể” - đã đưa ra nguyên tắc nghiên cứu so sánh các quá trình nhận thức trong
những điều kiện hoạt động riêng lẻ của cá nhân và những điều kiện giao tiếp của cá
nhân đó với người khác.
Trong học thuyết các chức năng tâm lý cao cấp, L.X. Vưgotxki coi giao tiếp có
vai trò to lớn. Khi bàn đến khách thể và đối tượng nghiên cứu của TLH, Ananhiev
nhấn mạnh rằng con người là chủ thể của lao động, nhận thức và giao tiếp. Ông cho
rằng, giao tiếp là điều kiện quan trọng nhất và là nhân tố phát triển tâm lý trong suốt
cuộc đời của một cá nhân.

9



Vấn đề giao tiếp được nghiên cứu mạnh mẽ vào những năm 20, 30 (thế kỷ XX),
sau đó, sự quan tâm đến nó bị giảm sút. Nhưng từ những năm 50, cùng với sự ra đời
của khoa học điều khiển đã tác động, ảnh hưởng đến các nghiên cứu về giao tiếp. Các
nhà TLH hành vi, tâm thần học đã vận dụng lý thuyết điều khiển học, lý thuyết thông
tin, lý thuyết hệ thống vào nghiên cứu giao tiếp như là mối quan hệ qua lại giữa các
nhân cách. Theo những tác giả này, giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên
diễn ra giữa con người với nhau, quá trình này tích hợp nhiều loại hành vi - hành vi
ngôn ngữ, hành vi cử chỉ, hành vi điệu bộ, không gian giữa những người giao tiếp với
nhau, ngữ cảnh xảy ra giao tiếp. Đến đây, bắt đầu hình thành một nhánh mới, đó là
khoa học về giao tiếp gắn liền với lịch sử lý thuyết thông tin và điều khiển học.
Vào thập niên 70, giao tiếp được đặc biệt chú ý đến và được xem như một phạm
trù trung tâm của TLH hiện đại. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu “Về giao tiếp,
những đặc trưng của nó trong công việc với con người” của A.A. Bodaliov (1972);
“Tâm lý học giao tiếp” của A.A. Leonchiev (1974). Giao tiếp được phân tích khá chi
tiết dưới góc độ TLH đại cương trong chuyên khảo:“Vấn đề giao tiếp trong Tâm lý
học” (1981) của B.Ph. Lomov. Tiếp sau đó, hàng loạt các công trình nghiên cứu giao
tiếp với nhân cách của A.A. Bodaliov, Plotnhicova, Kancalich, Sukanova, Slavskaia,
M.L. Bonheva… giao tiếp với sáng tạo của I.A. Ponomarev, với Tâm lý xã hội của
Andreeva, Parưghin… với quản lý hành chính và quản trị kinh doanh của F.M.
Taylor, Elton Mayơ, Kurt Lewin… Đặc biệt, trong bốn năm (1970 - 1973) đã có 3 hội
nghị khoa học lớn bàn về giao tiếp, được tổ chức tại Lêningrat lần thứ nhất vào tháng
12 năm 1970, lần thứ hai vào tháng 3 năm 1973 và lần thứ ba được tổ chức tại Alma
Ata vào tháng 5 năm 1973. Các hội nghị này đã bàn đến giao tiếp dưới nhiều bình
diện quan trọng như: phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu giao tiếp, cơ chế
giao tiếp, mô hình hoá quá trình giao tiếp, những sai lệch và vi phạm loại hình giao
tiếp …
Như vậy, khi bàn đến vấn đề giao tiếp, các tác giả trên không chỉ nghiên cứu
những vấn đề lý luận chung mà còn đi sâu nghiên cứu dưới góc độ chuyên sâu từng
khía cạnh, từng chuyên ngành khác nhau. Song, dù nghiên cứu giao tiếp ở những cấp

độ nào, trên những bình diện nào đi chăng nữa, các nhà nghiên cứu đều gặp nhau
10


trong cách nhìn nhận về vai trò quyết định của giao tiếp đối với đời sống xã hội và sự
hình thành, phát triển nhân cách con người. Và hơn thế, các công trình nghiên cứu
này đã đưa giao tiếp thực sự trở thành một trong những đối tượng nghiên cứu trung
tâm của khoa học tâm lý. Ngày nay, việc nghiên cứu giao tiếp đã thực sự trở thành
một hệ thống, theo một ngành riêng - ngành tâm lý học giao tiếp.
1.1.2. Nghiên cứu về giao tiếp ở Việt Nam
Ở Việt Nam, Tâm lý học là một ngành khoa học còn non trẻ. Vấn đề giao tiếp
được bắt đầu chú ý đến vào khoảng thập niên 60 - 70 (thế kỷ XX), mở đầu bằng bài
viết “Karl Marx và phạm trù giao tiếp” của Đỗ Long (1963). Đặc biệt vào thập niên
80, giao tiếp đã trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng được đánh dấu bằng hàng loạt các
bài viết, các công trình nghiên cứu của các tác giả như “Giao tiếp, tâm lý, nhân
cách” (1981) của Trần Trọng Thủy,“Giao tiếp và sự phát triển nhân cách của trẻ”
(1981), “Bàn về phạm trù giao tiếp” (1981) của Bùi Văn Huệ, “Giao tiếp sư phạm”
(1987) của Ngô Công Hoàn. Ngoài ra, có hẳn một hội nghị bàn về giao tiếp, được tổ
chức năm 1981 bởi Ban Tâm lý học của Viện Triết thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội
với chủ đề “Hoạt động và giao tiếp” bàn đến những nội dung như: 1) quan hệ giữa
hoạt động và giao tiếp; 2) vai trò, vị trí và ý nghĩa của giao tiếp trong sự hình thành
tâm lý; 3) hoạt động giao tiếp trong dạy học và giáo dục. Tiếp sau đó cũng có nhiều
nghiên cứu về giao tiếp với các công trình tiêu biểu như: năm 1992 có “Vấn đề giao
tiếp” của Nguyễn Văn Lê; năm 1993 có “Tâm lý học giao tiếp”, đến năm 1995 có
“Khoa học và nghệ thuật giao tiếp” của Trần Tuấn Lộ; năm 1995 còn có “Giao tiếp
sư phạm” của Hoàng Anh và Vũ Kim Thanh; năm 1996 có “Nhập môn khoa học
giao tiếp” của Trần Trọng Thủy và Nguyễn Sinh Huy. Như vậy, thời kỳ này chủ yếu
nghiên cứu về mặt lý luận.
Bên cạnh đó, phải kể đến các công trình nghiên cứu thực tiễn, tiêu biểu như nghiên cứu
về kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên (Hoàng Anh), đặc điểm giao tiếp của sinh viên

sư phạm (Trần Trọng Thủy), chủ yếu chỉ nghiên cứu trên đối tượng là sinh viên trường Đại
học Sư phạm Vinh và Đại học Sư phạm Hà Nội I đã thu được kết quả nhất định.
Những công trình nghiên cứu giao tiếp trên đối tượng là trẻ em chủ yếu hướng
vào nhu cầu giao tiếp, tính tích cực giao tiếp, giao tiếp bạn bè tiêu biểu như: Công
11


trình của Nguyễn Ánh Tuyết tìm hiểu về nhu cầu giao tiếp của trẻ em, đặc điểm tâm
lý nhóm giao tiếp bạn bè tuổi mẫu giáo. Nguyễn Thạc và cộng sự nghiên cứu về đặc
điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo đã chú ý tới nhu cầu giao tiếp, xung đột trong giao
tiếp của trẻ em mẫu giáo, một số biện pháp phát triển giao tiếp cho trẻ em. Ngô Công
Hoàn đã nghiên cứu về quá trình xã hội hoá trẻ em, đặc điểm phát triển nhu cầu giao
tiếp trẻ em, vấn đề ứng xử giữa cô giáo và trẻ em. Lê Xuân Hồng đã nghiên cứu tần
số giao tiếp, nội dung giao tiếp, tần số sử dụng phương tiện giao tiếp để xây dựng mô
hình mới - lớp ghép trẻ em với ba độ tuổi (3 đến 6 tuổi), tác giả muốn gián tiếp kết
luận về tính tích cực giao tiếp của trẻ em. Nguyễn Xuân Thức nghiên cứu thực trạng
mức độ phát triển tính tích cực giao tiếp của trẻ em mẫu giáo, một số yếu tố ảnh
hưởng đến tính tích cực giao tiếp của trẻ em, biện pháp phát triển tính tích cực giao
tiếp của trẻ em trong hoạt động vui chơi... Bằng các công trình nghiên cứu giao tiếp
trên đối tượng là trẻ em, các tác giả này đã có những đóng góp quan trọng cho TLH
giao tiếp, TLH lứa tuổi, TLH sư phạm mẫu giáo, đặc biệt là trong công tác chăm sóc và
giáo dục trẻ em qua hoạt động giao tiếp, tổ chức các hoạt động vui chơi đóng vai theo
chủ đề v.v...
Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu về giao tiếp trên đối tượng là sinh viên
Đại học Văn hoá, Đại học và Cao đẳng Sư phạm. Có thể nêu lên một số công trình
như: “Đặc điểm giao tiếp của học sinh Cao đẳng Sư phạm Hà Sơn Bình” của Vương
Đăng Diễn (1982); “Bước đầu tìm hiểu một số đặc điểm giao tiếp của sinh viên Đại
học văn hoá” của Phan Thị Dung (1997); “Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp của sinh viên
dân tộc Bahnar - Jrai trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Gia Lai” của Lâm Thị Thuỳ Nữ
(2003); “Nghiên cứu trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên trường Đại học Sư

phạm Đồng Tháp” của Nguyễn Thị Mộng Hiếu (2004) v.v…
Những công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong và ngoài nước đã tập trung
làm sáng tỏ vấn đề giao tiếp: các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp, tính tích cực
giao tiếp, đến nhu cầu, ấn tượng ban đầu và trở ngại tâm lý trong giao tiếp. Nhưng
trong các nghiên cứu trên không có công trình nào tiến hành trên đối tượng là sinh
viên trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng và từ trước đến nay vẫn chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về đặc điểm giao tiếp
12


của sinh viên trường này. Đề tài của chúng tôi được thực hiện sẽ góp thêm một
“mảng màu” trong bức tranh tổng thể về giao tiếp của sinh viên ngành Kỹ thuật YDược, đồng thời, sẽ đưa đến một cách nhìn toàn diện hơn về giao tiếp của sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
1.2. Những vấn đề lý luận chung về giao tiếp.
1.2.1. Khái niệm chung về giao tiếp
Giao tiếp là một trong những khái niệm cơ bản của TLH. Hiện nay có rất nhiều
cách hiểu khác nhau về khái niệm giao tiếp. Tuy nhiên, từ trên bình diện nhận thức
chung, có thể nêu lên một số cách tiếp cận khái niệm giao tiếp như sau:
Hướng thứ nhất: Các tác giả khi nghiên cứu giao tiếp chỉ nhấn mạnh đến khía
cạnh thông tin trong giao tiếp giữa người và người, như tác giả E.E. Acquyt (Mỹ)
quan niệm “Giao tiếp là sự tác động, sự truyền và tiếp nhận thông báo và sự trao đổi
thông tin của con người” [29].
M.A.Acgain (Anh) “xem giao tiếp như là một quá trình hai mặt của sự thông
báo, thiết lập sự tiếp xúc và trao đổi thông tin” [29].
K.K.Palatonov định nghĩa “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa con người với
nhau, sự trao đổi thông tin này gọi là sự tiếp xúc [29].
T.H.Fischer quan niệm “Sơ đồ về giao tiếp nằm trong một quá trình truyền thông
tin, quá trình này gồm 4 yếu tố khác nhau: điểm phát - biến đổi thông tin thành mã;
kênh thông tin; điểm thu - nhận thông tin; danh mục tín hiệu.
Có thể thấy các quan niệm trên đây có xu hướng thu hẹp khái niệm giao tiếp, đã

xác định chính xác từng mặt của khái niệm giao tiếp, nhưng đồng thời chỉ dừng lại
ở việc mô tả bề ngoài của quá trình giao tiếp, chưa nêu rõ bản chất bên trong của
quá trình này.
Hướng thứ hai: Xem xét bản chất giao tiếp bằng việc xác định vị trí giao tiếp
trong hệ thống các khái niệm, phạm trù tâm lý học. Đại diện là hai nhà tâm lý học
A.A.Leonchiev và B.Ph.Lomov khi bàn về giao tiếp và hoạt động.
A.A.Leonchiev cho rằng “Giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động có đối
tượng vì nó có đầy đủ cấu trúc và đặc điểm cơ bản của hoạt động như: tính chủ thể,
tính đối tượng, tính mục đích và vận hành theo nguyên tắc gián tiếp…trong đó chủ
thể của giao tiếp là “tính cộng đồng” hoặc “người giao lưu”. Còn đối tượng của giao
tiếp không phải là một con người hay một số người cụ thể mà là một tương tác”
hoặc là những quan hệ tâm lý qua lại giữa người này với người khác”…
13


B.Ph.Lomov cho rằng, không nên coi hoạt động là “siêu phạm trù”, là phạm trù
quan trọng nhất trong TLH. Không nên coi giao tiếp là dạng đặc biệt của hoạt động
mà phải xem xét nó như một phạm trù tương đối độc lập trong TLH, bên cạnh phạm
trù hoạt động. Ông viết “Hoạt động và giao tiếp là hai mặt của sự tồn tại xã hội của
con người, của lối sống. Hai mặt này luôn gắn liền với nhau trong lối sống thống
nhất, hơn nữa giữa chúng luôn tồn tại sự chuyển biến từ cái này sang cái kia” [1].
Ông còn cho rằng phạm trù hoạt động phản ánh mối quan hệ “chủ thể - khách thể”,
còn phạm trù giao tiếp phản ánh mối quan hệ “chủ thể - chủ thể” [1, tr.23].
Các nhà tâm lý học A.A.Bodaliop, D.B.Enconhin cho rằng: cả hai trường phái
trên có những điểm chưa hợp lý: A.A.Leonchiev lý giải chưa thỏa đáng về đối
tượng, động cơ và chủ thể hoạt động này. Còn B.Ph.Lomov quá nhấn mạnh phạm
trù giao tiếp nên khó giải thích khi giao tiếp có cơ chế như một hoạt động và khi
giao tiếp tham gia vào hoạt động có đối tượng như là điều kiện của hoạt động.
Theo các nhà tâm lý học trên, giao tiếp và hoạt động là hai khái niệm ngang
bằng nhau có mối quan hệ gắn bó với nhau trong phạm trù hoạt động, là hai mặt

thống nhất của cuộc sống con người, của sự phát triển tâm lý.
Hướng thứ ba: Các tác giả xác định rõ bản chất của giao tiếp thông qua việc
phân biệt khái niệm giao tiếp với các khái niệm liên quan như thông tin, quan hệ xã
hội, ứng xử, đại diện có các tác giả A.K.Uledovva, E.D.Giarcopva…
Giao tiếp và thông tin: Hai khái niệm này đều có khía cạnh thông tin nhưng
khác nhau ở ba điểm là: 1) khái niệm giao tiếp rộng hơn khái niệm thông tin, giao
tiếp là sự tiếp xúc tâm lý chứa đựng cả nội dung thông tin, thông báo, thông tin là
một mặt cơ bản không thể thiếu được của giao tiếp; 2) khác nhau ở tính chất của
mối liên hệ cơ bản tham gia vào hệ thống tác động qua lại. Thông tin là mối liên hệ
thông báo của của chủ thể với các đối tượng khác nhau: con người, động vật, máy
móc. Còn giao tiếp chỉ quan hệ chủ thể - chủ thể trong đó có sự tác động lẫn nhau
và sự điều khiển nhau; 3) thông tin chỉ số lượng các quá trình thông báo, sự chuyển
giao thông báo này hay khác, còn giao tiếp có nội dung, tính chất thực tiễn, vật chất
và cả tính chất tinh thần, thông báo. Rõ ràng là trong giao tiếp có chứa đựng một
nội dung thông tin còn thông tin là một mặt, một nội dung, một yếu tố của giao tiếp.
Giao tiếp và quan hệ xã hội: Đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Quan hệ
xã hội là các quan hệ khách quan, phi nhân cách. Bản chất nó không phải là quan hệ
14


giữa các nhân cách cụ thể. Nó không phải là quan hệ người - người một cách thuần
túy mà đại diện cho các nhóm người có quan hệ với nhau. Quan hệ xã hội gồm có:
quan hệ sản xuất, quan hệ vật chất, quan hệ chính trị, quan hệ hệ tư tưởng…còn
giao tiếp là sự tiếp xúc giữa các nhân cách cụ thể, là sự hiện thực hóa các quan hệ
xã hội. Giao tiếp diễn ra trong môi trường xã hội, trong các mối quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội chỉ được biểu hiện qua quá trình giao tiếp. Mặc dù giao tiếp và quan
hệ xã hội là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Giao tiếp và ứng xử: “Ứng xử” là phản ứng của cơ thể đối với các tác động bên
ngoài thể hiện thái độ hành động theo một cách nào đó đối với người khác trong
hoàn cảnh cụ thể nhất định. Theo M.Reuchlin: “Ứng xử là toàn bộ những hành động

được đặc trưng bằng tổ chức đặt ra cho chúng mục đích cuối cùng mà có thể theo
đuổi hữu thức hoặc vô thức, duy lý hoặc phi lý” [16].
Giao tiếp và ứng xử có những điểm chung là được thực hiện bởi những cá nhân
khác nhau trong các mối quan hệ xã hội, chịu sự chế ước bởi chuẩn mực xã hội. Tuy
nhiên, chúng cũng có những điểm khác nhau như: Khái niệm giao tiếp rộng hơn
khái niệm ứng xử, giao tiếp là một quá trình, còn ứng xử mang tính chất tình huống
nằm trong quá trình giao tiếp. Trong giao tiếp, người ta chú ý đến nội dung và mục
đích của công việc, thước đo của giao tiếp là hiệu quả công việc. Còn ứng xử chú ý
đến nội dung tâm lý biểu hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, thước đo của ứng xử là
thái độ của cá nhân và “thuật” biểu hiện thái độ qua hành vi giao tiếp. Trong giao
tiếp chú ý nhiều đến yếu tố ý thức còn trong ứng xử vừa có yếu tố ý thức vừa có yếu
tố vô thức.
Nhìn chung, các cách tiếp cận trên đây có những hạt nhân hợp lý cơ bản là: 1)
giao tiếp là khái niệm độc lập trong tâm lý học; 2) giao tiếp là mối quan hệ, liên hệ
có ý thức giữa con người với nhau trong cộng đồng xã hội loài người; 3) trong giao
tiếp diễn ra sự tiếp xúc tâm lý giữa các nhân cách, biểu hiện ở sự trao đổi thông tin,
bày tỏ thái độ cảm xúc và tác động lẫn nhau; 4) giao tiếp có mục đích phối hợp
hành động giữa các cá nhân, bảo đảm cho sự thống nhất hoạt động chung có kết quả
và tạo ra sự biến đổi ở chủ thể.
Ở Việt Nam, các tác giả quan niệm về giao tiếp như sau:
Trong từ điển tâm lý học: “Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát triển tiếp xúc
giữa các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Giao tiếp bao gồm hàng
15


loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược hoạt động thống nhất và
tìm hiểu người khác. Giao tiếp có ba khía cạnh chính: Giao lưu, tác động tương hỗ
và tri giác” [7, tr.83].
Trong từ điển Xã hội học: “Giao tiếp là một dạng căn bản của hành vi con người
trong xã hội. Đó là cơ chế để các liên hệ của con người tồn tại và phát triển. Trong

xã hội, mỗi người tác động qua lại với người khác như một người đối thoại (hay đối
tác, đối thủ) của mình. Những tác động qua lại ấy được thực hiện trực tiếp hoặc gián
tiếp (qua những phương tiện kỹ thuật) chủ yếu bằng ngôn ngữ” [34].
Trong tâm lý học đại cương, tác giả Phạm Minh Hạc đã đồng nhất khái niệm giao
tiếp với giao lưu và cho rằng: “giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ
người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa người ta với nhau” [11].
Ngô Công Hoàn định nghĩa “giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với
con người nhằm mục đích trao đổi tình cảm, tư tưởng, vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp” [13].
Như vậy, các tác giả trên có nhiều cách định nghĩa về giao tiếp khác nhau nhưng
không mâu thuẫn với nhau mà mỗi một khái niệm đều dựa trên hạt nhân hợp lý và
đứng trên các góc độ khác nhau.
Từ các cách tiếp cận trên, có thể thống nhất chọn định nghĩa về giao tiếp trong
cuốn giáo trình “Tâm lý học đại cương” của các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Trần
Hữu Luyến, Trần Quốc Thành, xuất bản năm 1999 làm khái niệm công cụ. Theo đó,
giao tiếp “là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người thông qua đó con người trao
đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại
với nhau. Hay nói khác đi, giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này và chủ thể khác” [33]. Sở
dĩ chúng tôi chọn khái niệm này vì nó đã nêu lên được đặc trưng tâm lý của giao
tiếp, nêu lên được sự tác động hai chiều của quan hệ có ý thức giữa con người với
nhau, nêu được mục đích của giao tiếp, và đây cũng là một khái niệm được nhiều
người thừa nhận, được sử dụng trong các tài liệu chính thống để giảng dạy cho sinh
viên, học viên cao học…
1.2.2. Cấu trúc của giao tiếp
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc giao tiếp, sau đây nêu lên một số
điểm cơ bản:
16


Các ngành điều khiển học xem giao tiếp như một hiện tượng tâm lý - xã hội có

tổ chức cao. Bao gồm các thành tố như ở sơ đồ 1.1.[12]
Bộ phát

Mã hóa

Thông báo

Kênh

Giãi mã

Bộ thu

Phản hồi
Sơ đồ 1.1. Cấu trúc của giao tiếp theo Shanon
Trong đó:
* Bộ phát là người gửi thông điệp đi
* Bộ thu là người nhận thông tin hay bản thông điệp
* Thông điệp là nội dung giao tiếp cần phải trả lời: Bộ phát muốn nói và đã nói
được gì? Bộ thu đã nghe, hiểu, nhớ và vận dụng được gì? Ngôn ngữ trong thông
điệp phải thống nhất giữa bộ phát và bộ thu, phải rõ ràng để tránh hiểu lầm.
* Kênh là đường truyền tải thông tin giữa bộ phát và bộ thu. Nếu giao tiếp trực
tiếp thì kênh là nghe, nhìn, nói, bắt tay, trang phục v.v… Nếu giao tiếp gián tiếp thì
kênh là thư, văn bản, điện thoại, email, fax v.v…
* Mã hóa là quá trình lựa chọn, sắp xếp thông tin để có thể gửi đi được.
* Giãi mã là quá trình diễn dịch thông điệp nhận được.
* Phản hồi là quá trình người nhận đáp lại, phản ánh lại về thông điệp
Ngoài ra, các tác giả khác đã đề cập đến 7 yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp.
* Yếu tố con người: con người với tư cách chủ thể dẫn dắt quá trình giao tiếp sẽ
mang đến cho quá trình này mục đích, nội dung, nhiệm vụ giao tiếp rõ ràng. Họ sử

dụng toàn bộ tri thức, hiểu biết, nhận thức, quan điểm, nhu cầu, tình cảm, trí tuệ,
vốn sống, kinh nghiệm và cả nghệ thuật vốn có của mình, hướng vào mục đích giao
tiếp. Con người với tư cách đối tượng giao tiếp là người nhận tin và xử lý thông tin
để có phản ứng, hành vi kịp thời nhằm đảm bảo mục đích giao tiếp có hiệu quả. Con
người trong giao tiếp có nhiều trường hợp với tư cách đồng thời là chủ thể vừa là
đối tượng để đạt mục đích giao tiếp.
* Mục đích giao tiếp: Bất kỳ một thông báo nào phát ra đều có mục đích cụ thể.
Có rất nhiều mục đích giao tiếp khác nhau, giao tiếp nhằm mục đích về chính trị,
kinh tế, văn hóa, nhận thức, hiểu biết lẫn nhau, chia sẽ tình cảm…
* Nội dung giao tiếp thể hiện ở thông tin cần truyền đạt, bản thông điệp nói gì,
viết gì. Nội dung thể hiện ý nghĩa của tin truyền đi theo sự sắp đặt dựa vào mục
đích giao tiếp.
17


* Phương tiện giao tiếp: Các phương tiện được sử dụng trong quá trình giao tiếp
như ngôn ngữ nói, viết, cử chỉ, điệu bộ, hành vi… Các phương tiện công cụ kỹ thuật
tham gia vào quá trình giao tiếp như micrô, máy điện thoại, máy fax, máy vi tính…
* Hoàn cảnh giao tiếp: Bao gồm các yếu tố không gian, thời gian giao tiếp,
khoảng cách giữa đối tượng và chủ thể giao tiếp. Bối cảnh xã hội, tự nhiên, con
người tại không gian và thời gian giao tiếp v.v… Đây là những yếu tố khách quan
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả của quá trình giao tiếp.
* Kênh giao tiếp: Là các đường liên lạc truyền dẫn và tiếp nhận thông tin như
các giác quan: mắt, tai, xúc giác, vị giác… Căn cứ vào kênh giao tiếp mà chuẩn bị
tốt cho quá trình giao tiếp. Ví dụ: Giao tiếp qua kênh thính giác như điện thoại thì
cần phải nói rõ, gọn, rút gọn từ…; thư thì viết rõ, dễ đọc, đúng ngữ pháp…
* Quan hệ giao tiếp: Chính là tương quan về vai trò và vị trí, tuổi tác, nghề
nghiệp v.v.. giữa đối tượng và chủ thể giao tiếp. Chủ thể có vai trò và vị trí, tuổi
tác…cao hơn, thấp hơn hoặc ngang bằng với đối tượng giao tiếp. Tùy từng mối
tương quan mà có cách thức giao tiếp khác nhau.

Tất cả các yếu tố tham gia vào giao tiếp luôn hiện hữu trong quá trình giao tiếp.
Chúng có quan hệ mật thiết, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau và cùng chi phối, quyết
định hiệu quả mọi cuộc giao tiếp.
1.2.3. Chức năng của giao tiếp
Có nhiều cách phân loại chức năng giao tiếp.
Theo B.Ph.Lômôv và A.A.Bôdavilôv, giao tiếp có 3 chức năng cơ bản sau:
- Chức năng thông tin: Chức năng này có cội nguồn sinh học. Để thông báo
cho nhau tin tức gì đó động vật thường phát ra những tín hiệu để tự vệ, tín hiệu
tìm gặp nhau. Ở người chức năng thông tin đa dạng và phức tạp hơn nhiều. Con
người có phương tiện ngôn ngữ, phi ngôn ngữ và nhiều phương tiện khoa học kỹ
thuật hỗ trợ để đảm bảo chức năng thông tin này.
- Chức năng điều chỉnh, điều khiển: Trong quá trình giao tiếp muốn đạt được
mục đích giao tiếp thì chủ thể phải biết tự chủ xúc cảm, thái độ hành vi của mình
để thay đổi theo điều kiện, hoàn cảnh, biết lựa chọn phương tiện ngôn ngữ phù
hợp để tác động đến đối tượng giao tiếp. Khi chủ thể điều khiển, điều chỉnh cảm
xúc, thái độ, hành vi của mình trong giao tiếp cũng chính là nhằm tác động, điều
khiển, điều chỉnh hành vi, thái độ của đối tượng giao tiếp.
18


- Chức năng đánh giá: Trong quá trình giao tiếp, bao giờ con người cũng bộc
lộ những hiểu biết, những tình cảm, thái độ, thế giới quan, nhân sinh quan,
những nhu cầu, hứng thú… ra bên ngoài. Chính vì vậy. thông qua một số lần tiếp
xúc, giao tiếp với người nào đó, chúng ta có thể nhận xét, đánh giá được tâm lý,
ý thức, nhân cách của họ. Thông qua giao tiếp với người khác, chúng ta mới biết
soi mình vào người khác để tự đánh giá mình.
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn [28, tr49], có thể nêu lên 5 chức năng cơ bản
sau đây của giao tiếp giữa con người và con người:
- Chức năng thông tin, nhận thức: Qua giao tiếp, người ta trao đổi, học tập, tiếp
thu tri thức, kinh nghiệm các giá trị chuẩn mực của xã hội…

- Chức năng cảm xúc: Qua giao tiếp không chỉ bộc lộ mà còn tạo ra những ấn
tượng, cảm xúc giữa các chủ thể.
- Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau: Qua giao tiếp, con người không
chỉ nhận thức và đánh giá người khác mà còn tự nhận thức, tự đánh giá bản thân.
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Trên cơ sở nhận thức, đánh giá lẫn nhau, qua
giao tiếp, mỗi chủ thể có thể có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình cũng như có
thể tác động đến động cơ, mục đích và việc quyết định hành động ở chủ thể khác.
- Chức năng phối hợp hành động: Nhờ có quá trình giao tiếp, con người đã liên
kết, hợp tác với nhau, phối hợp hành động, hoạt động để cùng nhau giải quyết
nhiệm vụ nào đó đạt tới mục tiêu chung.
1.2.4. Phân loại giao tiếp
Có nhiều cách phân loại giao tiếp khác nhau dựa trên các tiêu chí không giống
nhau, trong tâm lý học thường sử dụng các cách chia sau:
* Căn cứ vào khoảng cách giao tiếp, có thể phân chia giao tiếp thành:
Giao tiếp trực tiếp: Là giao tiếp mặt đối mặt, chủ thể trực tiếp phát và nhận tín
hiệu với nhau. Trong giao tiếp trực tiếp, nhiều phương tiện được sử dụng truyền tin
như: ngôn ngữ nói, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nụ cười, tiếng khóc, các trang phục,
trang sức…
Giao tiếp gián tiếp: Là loại giao tiếp được thực hiện thông qua các phương tiện
truyền tin trung gian như: thư tín, sách báo, phim ảnh, fax… Hiện nay, giao tiếp
gián tiếp được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, nó đòi hỏi thông tin phải ngắn gọn, súc
tích. Việc truyền tin và nhận tin qua giao tiếp gián tiếp phải tuân theo những yêu
cầu, quy định nhất định về ngôn ngữ nói và viết cũng như kỹ thuật, máy móc…
19


Bênh cạnh đó còn có các hình thức giao tiếp trung gian, vừa là giao tiếp trực
tiếp vừa là giao tiếp gián tiếp như giao tiếp qua điện thoại, chát, v.v… là những hình
thức đang ngày càng phổ biến và phát triển mạnh nhờ sự tiến bộ mạnh mẽ của lĩnh
vực công nghệ thông tin và truyền thông.

* Căn cứ theo quy cách, có thể chia giao tiếp thành hai loại:
Giao tiếp chính thức: là giao tiếp nhằm thực hiện nhiệm vụ chung theo chức
trách, quy định, thể chế. Ở loại này, vai trò của ngôn ngữ nói và viết rất quan trọng,
được sử dụng một cách rõ ràng, mạch lạc, khúc chiết… như các cuộc họp, các
chuyến đi thăm của đoàn đại biểu Nhà nước, Nhà trường, Đảng, Đoàn…
Giao tiếp không chính thức: Là giao tiếp giữa những người hiểu biết rõ về nhau,
không câu nệ vào thể thức mà theo kiểu thân tình, nhằm mục đích chính là thông
cảm, đồng cảm với nhau.
* Căn cứ vào các phương tiện giao tiếp, có thể phân chia giao tiếp thành các
loại giao tiếp sau:
- Giao tiếp bằng ngôn ngữ: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của
con người. Bằng ngôn ngữ con người có thể truyền đi bất cứ loại thông tin nào
nhằm diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả, sự vật, hiện tượng… Có hai loại ngôn
ngữ, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ nói được sử dụng phổ biến trong
giao tiếp xã hội, thường được rút gọn, rất cụ thể và sinh động nhờ vào hoàn cảnh
giao tiếp và những cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, giọng nói… hỗ trợ. Ngôn ngữ viết ra
đời muộn hơn ngôn ngữ nói, tác động của ngôn ngữ viết không bằng âm vị mà
bằng từ vị (ký tự) - hệ thống ký hiệu tượng trưng cho ngôn ngữ. Ngôn ngữ viết
phụ thuộc vào ý nghĩ, nhu cầu, tình cảm và trình độ nhận thức của chủ thể giao
tiếp. Để cho đối tượng hiểu được đòi hỏi ngôn ngữ viết phải tuân theo các quy
tắc nghiêm ngặt về ngữ pháp, tu từ và phải viết sao cho rõ ràng, mạch lạc, dễ
hiểu. Bài viết thường xuyên được chủ thể giao tiếp có ý thức lựa chọn từ, ý và
thường dài dòng và trau chuốt hơn ngôn ngữ nói.
- Giao tiếp phi ngôn ngữ: Là giao tiếp bằng cách sử dụng các phương tiện phi
ngôn ngữ như nét mặt, ánh mắt, giọng nói, cử chỉ, điệu bộ…
+ Giao tiếp qua nét mặt: Mỗi cá nhân có một nét riêng, sự cấu tạo về hình dáng,
khoảng cách không gian, sự vận động của các bộ vị như mắt, trán, lông mày, lông
mi, miệng, môi, cằm…sự phối hợp tất cả các bộ vị trên được gọi chung là nét mặt.
Đa số sự thay đổi nét mặt diễn ra một cách vô thức. Tuy nhiên, ở một số nghề
20



nghiệp, trong hoàn cảnh đặc biệt như diễn viên, điệp viên, phát thanh viên, các
chính sách, chính trị gia… phải luôn kiểm soát nét mặt của mình, lúc nào cần cười,
lúc nào cần ngạc nhiên, lúc nào cần lo lắng hay buồn bực v.v.
+ Giao tiếp bằng mắt: “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Tần số nhìn vào mắt
người khác biểu lộ thái độ đối với người đó. Cái nhìn có thể là tín hiệu của tình
thương yêu nhưng cũng có cái nhìn giận dữ, cái nhìn khinh bỉ…Thông qua ánh mắt,
có thể điều chỉnh hành vi của đối tượng giao tiếp.
+ Giọng nói: Sự lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh, thay đổi ngữ điệu câu…
đều là các tín hiệu giao tiếp. Giọng nói phản ánh các thông tin về cá tính bản thân
người nói, tính hướng nội hay hướng ngoại.
Ngoài các tín hiệu phi ngôn ngữ trên thì các cử chỉ như: lắc đầu, gật đầu, bắt tay,
vẩy tay, tư thế ngồi, đứng hay quỳ… đều có những nội dung tâm lý nhất định trong
giao tiếp, đều phản ánh một thái độ, trạng thái xúc cảm nào đó, cách trang phục,
kiểu cách, quần áo, đầu tóc… đều có ý nghĩa tín hiệu tâm lý trong giao tiếp.
- Giao tiếp vật chất: là loại giao tiếp thông qua hành động với vật thể. Đây là
loại hình giao tiếp đã xuất hiện từ xa xưa, khi ngôn ngữ của con người chưa phát
triển. Giao tiếp bằng vật chất tùy thuộc điều kiện lịch sử, xã hội, nền văn hóa. Vật
thể vốn vô tri, vô giác nhưng khi con người sử dụng nó, hành động với nó trong
giao tiếp thì đã “thổi” vào nó một cái “hồn” nhất định, một bức thông điệp mang
một ý nghĩa nhất định. Hành động với vật chất trong giao tiếp mang những ý nghĩa
rất phong phú. Để sử dụng được phương tiện này một cách có hiệu quả, đòi hỏi chủ
thể phát thông điệp và chủ thể tiếp nhận bức thông điệp phải có những hiểu biết,
kinh nghiệm giao tiếp và sự tinh tế, nhạy cảm trong giao tiếp, đôi khi cần học tập
cách sử dụng nó. Ở nước ta, trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, định hướng giá
trị vật chất ngày càng chiếm vị trí trọng yếu trong hệ thống giá trị mà cá nhân
hướng tới. Giao tiếp vật chất ngày càng trở nên cần thiết và phổ biến trong xã giao
hằng ngày. Vì vậy, giao tiếp vật chất cần được chú ý đến.
1.2.5. Giao tiếp và sự hình thành, phát triển nhân cách.

Giao tiếp có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
con người. Tâm lý học hiện đại đã khẳng định: Tâm lý người là sản phẩm của hoạt
động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội. C. Mác viết “bản
chất con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại đối với từng cá nhân riêng
21


biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội”. Giao tiếp đặc trưng cho tâm lý con người.
Ở con người, giao tiếp được hình thành, vận hành trong quá trình sống trong xã
hội loài người. Những đứa trẻ sinh ra vì một lý do nào đó phải sống cách ly khỏi xã
hội loài người, có khi do động vật nuôi ở trong rừng, thì không thể có giao tiếp và
không thể trở thành người.
Tâm lý, nhân cách con người là kinh nghiệm lịch sử - xã hội chuyển thành kinh
nghiệm của bản thân thông qua hoạt động và giao tiếp. Có thể khẳng định nhân
cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong
mối quan hệ giao tiếp với những nhân cách khác. Bởi mỗi người khi mới sinh ra
đều có tiềm năng để trở thành người theo đúng nghĩa của nó. Chỉ thông qua giao
tiếp với những người xung quanh mới có thể “xã hội hóa: mới có thể hình thành và
phát triển nhân cách. Trong diễn biến của xã hội, những hành vi xã hội thích hợp và
hiểu được tác dụng, ý nghĩa của những kinh nghiệm, hành vi đó trong điều kiện xã
hội mà họ đang sống. Mọi phẩm chất nhân cách con người chỉ có thể hình thành và
phát triển thông qua giao tiếp với mọi người. Những phẩm chất như khiêm tốn,
trung thực, kiên trì, nhẫn nại, nhân hậu, tôn trọng mọi người… con người có được
nhờ học tập và rèn luyện thông qua hoạt động và giao tiếp, nhờ con người gia nhập
vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội.
Qua quan hệ giao tiếp, chúng ta được tăng trưởng về tri thức, hiểu thấu đáo hơn về
“thế thái nhân tình”, giúp ta hiểu mình hơn, hình thành được cá tính theo hướng tích
cực, tạo ra sự hài hòa cân đối trong đời sống vật chất và tinh thần. Mỗi khi giao tiếp
tương tác với người khác, chúng ta có dịp quan sát, ghi nhận các phản ứng, các thái

độ phản hồi của họ, nhờ đó mà biết cách tự tìm hiểu, nhìn nhận, đánh giá mình.
Khó có thể hình dung sự phát triển nhân cách của mỗi người nếu không tạo ra
được sự phát triển song song các phẩm chất, năng lực của cá nhân và của người
khác trong mối quan hệ giao tiếp. Trong quá trình phát triển, con người dần lĩnh hội,
học tập, rèn luyện và khẳng định năng lực của mình qua hoạt động vui chơi, học
tập, lao động. Đồng thời, qua giao tiếp cá nhân được đánh giá, nhìn nhận theo quan
hệ xã hội và đóng góp các giá trị phẩm chất nhân cách của mình cho người khác,
cho xã hội. Chính nhân cách được hình thành và phát triển, bộc lộ trong hoạt động
22


×