NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
1. Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
*. Ý nghĩa phương pháp luận.
Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan
điểm thực tiễn yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người,
xuất phát từ thực tiễn địa phương, ngành, đất nước.
Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với
hành.
Ba là, chú trọng công tác tổng kết thực tiễn đểbổ sung hoàn thiện phát
triển lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách. Phải lấy thực tiễn làm
tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh
nghiệm (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực
tiễn, coi thường, hạ thấp lý luận) và bệnh giá điều (khuynh hướng tư tưởng và
hành động tuyệt đối hóa lý luận, coi thường hạ thấp kinh nghiệm thực tiễn; hoặc
vận dụng kinh nghiệm của người khác, địa phương khác, nước khác không tính
tới điều kiện thực tiễn cụ thể của mình).
Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói
đi đôi với làm” tránh nói một đằng, làm một nẻo; nói nhiều làm ít; nói mà
không làm, v.v...
* Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận:
+ Việc nhận thức các vấn đề đã xuất phát từ nhu cầu thực tế cần nhận thức
của bản thân hoặc từ nhu cầu của đơn vị, địa phương, cơ sở chưa?
+ Qua quá trình nhận thức đó đã có những hoạt động thực tiễn để thực
hiện nhiệm vụ công tác cho phù hợp như thế nào?
+ Đã chú trọng đến công tác tổng kết thực tiễn để kiểm tra tính phù hợp,
đúng đắn của nhận thức, lý luận và kịp thời bổ sung, hoàn thiện phát triển lý
luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách chưa?
+ Việc chủ động ngăn ngừa bệnh giáo điều (khuynh hướng tuyệt đối hóa
lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn) và bệnh kinh nghiệm (khuynh hướng
tuyệt đối hóa kinh nghiệm, thực tiễn, coi thường lý luận) như thế nào?
+ Đã gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm”, tránh nói
một đằng, làm một nẻo, nói nhiều làm ít, nói mà không làm như thế nào?
+ Phương hướng và một số giải pháp thực hiện việc vận dụng ý nghĩa
phương pháp luận này trong thời gian tới.
(Lưu ý: Phải viết phần vận dụng thành một đoạn văn có tính logic)
2. Biện chứng giữa LLSX và QHSX
*Sự vận dụng quy luật này ở nước ta
(Trước thời kì đổi mới 1986)
Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần nhất
với hai hình thức sở hữu là: Sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, trong khi trình
độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng đều là một
chủ trương nóng vội, chủ quan duy ý khi:
Từ những sai lầm trong nhận thức đã dẫn tới những sai lầm trong chỉ đạo
thực tiễn. Cụ thể.
+ 1 là: Xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt,
trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển lực lượng sản xuất.
+ 2 là: Xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách tràn lan,
trong khi chế độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng đều.
Trong khi xây dựng quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, về thực chất chúng ta mới xác lập được chế độ sở hữu, còn hình thức tổ
chức quản lý và cách thức phân phối chưa được giải quyết một cách đúng đắn.
Những sai lầm chủ quan đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì
trệ, khủng hoảng chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là
một sự vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong thời kì đổi mới đã làm cho
nền kinh tế nước ta có những bước phát triển vượt bậc.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật cơ bản của mọi nền kinh tế.
3. Sản xuất hàng hóa ở địa phương (tham khảo) liên hệ với huyện BQ
hoặc xã nơi công tác
Liên hệ thực tế phát triển sản xuất hàng hóa ở địa phương :
Mục tiêu hàng đầu của phát triển sản xuất hàng hóa là giải phóng sức sản
xuất, động viên mọi nguồn lực trong tỉnh để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại
hóa, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất HH, cải
thiện từng bước đời sống nhân dân. Sản xuất và đời sống của nhân dân gắn liền,
thu nhập kinh tế đôi với tiến bộ công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp
pháp, gắn liền với xóa đói giảm nghèo.
Hà Giang là tỉnh miền núi, biên giới, có diện tích 7.945,8Km 2 và Dân số có
746.300 người, với 22 dân tộc cùng sinh sống. Địa hình phức tạp, núi đá , độ
dốc, thung lũng và sông suối. Khí hậu ôn đới. Tỉnh có 10 huyện và 1 thành phố
trực thuộc, với 195 xã, phường, thị trấn. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội là
tỉnh đặc biệt khó khăn; nền kinh tế chậm phát triển, quy mô sản xuất nhỏ; trình
độ dân trí, trình độ khoa học và công nghệ còn thấp; số lượng, chất lượng đội
ngũ cán bộ khoa học và công nghệ chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển; năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như của doanh nghiệp và hàng hóa địa
phương còn yếu.
Thực trạng của việc phát triển sản xuất hàng hóa ở Hà Giang :
Một số kết quả trong các lĩnh vực như sau: Nền kinh tế đạt tốc độ tăng bình
quân hàng năm 12,7%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, dịch vụ chiếm
39%, công nghiệp, xây dựng chiếm 29%, nông, lâm nghiệp chiếm 32%; thu
nhập bình quân đầu người nâng lên, đạt 7,5 triệu đồng/người/năm. Đặc biệt
trong 9 tháng đầu năm 2012 thì tổng sản lượng lương thực đạt 99,13 % kế
hoạch, đàn gia súc gia cầm phát triển ổn định, tốc độ tăng đàn đạt 95 % kế
hoạch, các chỉ tiêu chăm sóc, khoanh nuôi, phục hồi bảo vệ rừng cơ bản đạt 100
% kế hoạch. Chương trình xây dựng nông thôn mới được nhiều tầng lớp nhân
dân hưởng ứng như quy hoạch, thực hiện và lập đề án xây dựng nông thôn mới,
xây dựng làng văn hóa – du lịch, làm đường liên thôn, liên xóm, liên gia, liên
hộ, láng bó nền nhà, bể nước, công trình vệ sinh, di dời chuồng trại chăn nuôi xa
gia đình, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, trồng lúa thâm canh, đậu tương,
ngô hàng hóa, đào tạo nghề thủ công mỹ nghệ …
Lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp ước
đạt 1.633,4 tỷ đồng. Thương mại, dịch vụ, tài chính, tín dụng có sự tăng trưởng
khá. Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 871,8 tỷ đồng, giá trị xuất- nhập
khẩu đạt 23,1 triệu đô la. Các thành phần kinh tế phát triển mạnh, hoạt động
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ được triển khai mạnh.
Lĩnh vực y tế, giáo dục, thông tin, truyền thông cũng đạt được những thành
tựu nổi bật. Tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi đến trường đạt 98,1%. Các hoạt
động văn hoá, thể thao phát triển rộng khắp, hoạt động du lịch có nhiều đột phá
Đã xây dựng Cao nguyên đá Đồng Văn trở thành Công viên Địa chất Quốc gia.
Lao động, việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt được nhiều thành tựu, tỷ lệ hộ
nghèo giảm còn 15,8%,. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững. Công tác xây dựng Đảng hàng năm kết nạp bình quân được 2.800
đảng viên mới; 100% số xã thành lập Đảng bộ cơ sở; 100% thôn, bản có Chi bộ.
* Bên cạnh những kết quả đã đạt được hiện nay quá trình phát triển sản
xuất ở Hà Giang vẫn còn gặp một số khó khăn :
Do tỉnh có điểm xuất phát còn rất thấp cả về kết cấu hạ tầng, kinh tế,
trình độ dân trí, là tỉnh thuộc diện nghèo nhất nước, công nghiệp, thương mại –
dịch vụ còn non yếu, sản xuất chủ yếu là nông nghiệp lại theo hướng tự cung tự
cấp là chính. Thu nhập bình quân đầu người thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao
trên 35 % , số dân thiếu nước sinh hoạt cao vào mùa khô, thiếu đất sản xuất,
thiếu chất đốt; tỷ lệ số người mù chữ còn cao, đội ngũ cán bộ vừa thiếu lại vừa
yếu, một số thôn, bản chưa có đảng viên. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp
chiếm 24 %, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, thiếu vốn cho sản xuất phát triển, cơ sở
hạ tầng thiếu thốn, khó khăn, các công trình về đường, điện, trường, trạm chưa
được chú ý và đầu tư, việc ứng dụng các tiến bộ KHKT còn hạn chế do người
dân chưa có điều kiện để tiếp cận và áp dụng và quá trình SX. Chất lượng về
nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, năng lực yếu, tư tưởng
bảo thủ, trì trệ, thiếu ý chí vươn lên. Các cơ chế chính sách thu hút tuy đã có
nhưng chưa thực sự đúng tầm, thiếu tính hấp dẫn, thủ tục hành chính cải cách
chưa được nhiều, phân cấp quản lý nhà nước chưa đồng bộ, còn có tư tưởng
trông chờ, ỷ lại… Do đó việc tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn, công tác
xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm đã được trú trọng nhưng chất lượng
hiệu quả chưa cao.
Để công tác phát triển SXHH được tốt Hà Giang cần có Các giải pháp sau:
- Công tác tuyên truyền : Hà Giang nên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo
dục, vận động để đảm bảo tầng lớp nhân dân và cán bộ cơ sở thấy được vị trí,
vai trò và tất yếu theo hướng sản xuất hàng hóa để xó bỏ đi những tâm lý sản
xuất nhỏ bé, manh mún, tự cung tự cấp…
- Làm tốt công tác định hướng hướng dẫn PT KT trên cơ sở khai thác tốt
tiềm năng, thế mạnh phù hợp với điều kiện tự nhiên KTXH, phong tục tập quán
và phương thức SX của nhân dân để tạo ra các sản phẩm chủ lực như : Phát
triển đàn gia súc, trồng cây có giá trị kinh tế, cung ứng du lịch, dịch vụ trong
điều kiện nay .
+/ Về sản xuất nông lâm ngư nghiệp : Phát triển mạnh đàn gia súc, gia cầm,
phấn đấu tốc độ tăng đàn trâu, bò đạt 6%/năm; đàn dê 10%/năm; đàn lợn
8%/năm. Khai thác tốt diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản lên 2.000 ha,
đưa tỷ trọng chăn nuôi đạt 40%.trồng trên 55.000 ha rừng .
Thực hiện có hiệu quả dự án bảo vệ và phát triển rừng ,trồng rừng phòng
hộ, rừng đầu nguồn. Giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp - nông dân - nông thôn.
Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, nước sinh hoạt cho các
huyện vùng cao ; di dời số hộ sống trong vùng có nguy cơ cao về sạt lở, lũ quét.
Thực hiện có hiệu quả các dự án theo Nghị quyết 30a của Chính phủ, các
chương trình, dự án phát triển vùng dân tộc thiểu số, nông thôn miền núi và xây
dựng nông thôn mới... Phấn đấu 20% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới, xây
dựng thêm nhiều hồ chứa nước ở 4 huyện vùng cao và vùng có nguy cơ hạn
hán.
+/ Về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp : Phát triển các ngành
công nghiệp có thế mạnh của tỉnh, thu hút đầu tư lấp đầy các khu, cụm công
nghiệp hiện có. Khuyến khích phát triển thủ công nghiệp và các ngành nghề
mới, làng nghề truyền thống. Phấn đấu giá trị gia tăng ngành công nghiệp bình
quân năm đạt trên 18%, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 (giá thực tế) đạt
2.000 tỷ đồng.
+/ Về dịch vụ, du lịch, thương mại : Tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng
kỹ thuật để phát triển mạnh, đồng bộ và nâng cao chất lượng các hoạt động
thương mại, dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, có tác dụng thúc
đẩy các ngành sản xuất phát triển. Phấn đấu tăng trưởng nhóm ngành dịch vụ
bình quân năm đạt 17,5%; tổng mức lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ bán lẻ đạt
4.600 tỷ đồng; tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng tăng bình quân trên
20%/năm.
- Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, xuất - nhập khẩu tại Khu kinh tế cửa
khẩu Thanh Thủy, các chợ cửa khẩu và các cửa khẩu có điều kiện; phát triển và
nâng cao chất lượng hoạt động của các chợ đầu mối, chợ nông thôn, các khách
sạn, nhà hàng, siêu thị. Khuyến khích và tạo đột phá trong hoạt động du lịch.
Xây dựng và phát triển các tua, tuyến, điểm, khu du lịch đã được quy hoạch,
xây dựng thương hiệu, điểm nhấn trong hoạt động du lịch, các làng văn hoá dân
tộc, sản phẩm văn hoá dân tộc đặc trưng.
- Tăng cường việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn phục
vụ cho việc PT KT HH của tỉnh như huy động vốn đầu tư phát triển đạt 20.000
tỷ đồng, thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.300 tỷ đồng trở lên, khai thác tối đa và
phát huy hiệu quả sử dụng các nguồn nội lực, gắn với cơ chế thu hút đầu tư từ
các chương trình dự án. Tăng cường giới thiệu, quảng bá các tiềm năng thế
mạnh của tỉnh đi đôi với việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương
mại – du lịch, liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Khuyến khích phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín
dụng trên địa bàn, tạo thị trường vốn tín dụng PT bền vững, đủ sức đáp ứng nhu
cầu vay vốn PT SX, KD của các TP KT và ND, phấn đấu đạt tổng dư nợ trên 10
nghìn tỷ đồng.
- Tiếp tục đầu tư cho việc XD cơ sở hạ tầng để tạo ĐK thuận lợi cho PT
HH, tăng cường công tác quản lý và thực hiện các quy hoạch đã được phê
duyệt, rà soát bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện quy hoạch vùng, các ngành, các
lĩnh vực, các khu đô thị, các khu công nghiệp, khu KT cửa khẩu, các điểm du
lịch của công viên địa chất cao nguyên đá Đồng Văn.
- Thực hiện tốt các chính sách để khuyến khích PTKT nhiều TP tạo thành
sức mạnh cho KTHH ở Hà Giang : Tỉnh ta luôn khuyến khích phát triển các loại
hình DN, các HTTX, trang trại, các cơ sở SX, vận dụng linh hoạt các CS KT,
CS tín dụng, thuế, đất đai …
- Đặc biệt quan tâm đến PT nguồn nhân lực của tỉnh coi đây là nhân tố
quan trọng then chốt để PT nền KT theo cả chiều sâu và chiều rộng.
+/ Chăm lo phát triển giáo dục đào tạo , đa dạng hóa các loại hình đào tạo,
đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo ở tất cả các cấp học,
ngành học, quan tâm đến CS cử tuyển, công tác khuyến học khuyến tài, XD XH
học tập, huy động trẻ trong độ tuổi đến trường, nâng cấp các trường trung cấp
chuyên nghiệp lên cao đẳng…
+/ Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ND : Thực hiện tốt công tác XHH đối với
công tác Y tế, các bệnh viện, các phòng khám đa khoa khu vực và các trạm y tế
xã, đầu tư, nâng cấp về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cho các tuyến, hình
thành các bếp ăn tình thương cho BN nghèo, ở tuyến cơ sở luôn có Bác sỹ đến
tăng cường để góp phần nâng cao chất lượng công tác khám, chữa, bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Quản lý tốt các dịch vụ dược phẩm, dịch vụ
khám chữa bệnh…
+/ Phát triển văn hóa, văn nghệ TDTT để nâng cao đời sống tinh thần cho
người lao động, các hoạt động VH, thông tin, TDTT, các lễ hội truyền thống
được tổ chức rộng khắp mang tính XH cao, văn học nghệ thuật phát triển cả về
chiều sâu và chiều rộng … góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
+/ Giải quyết việc làm cho người lao động : Đẩy mạnh công tác đào tạo
nghề gắn với giải quyết việc làm cho người LĐ, hình thành và PT thị trường
LĐ, phấn đấu tỷ lệ LĐ qua đào tạo đạt 45 %, giải quyết việc làm và xuất khẩu
lao động .
- Tích cực gắn giữa PTKT với thực hiện tốt các chính sách XH như :
+/ Công tác xóa đói giảm nghèo : Thực hiện tốt các chủ trương để thu hút
các nguồn lực và nhiều giải pháp để thực hiện chương trình XĐGN, thông qua
các CS, dự án đầu tư, chương trình mục tiêu QG và sự hỗ trợ của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài tỉnh. Thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo nhanh
và bền vững theo NQ 30a của CP, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo trên 5%.
+/ Các chính sách XH khác : Quan tâm đến các gia đình chính sách, người
có công, các đối tượng xã hội, công tác cứu trợ, cứu nạn, giảm nhẹ thiên tai, cứu
đói được quan tâm và giải quyết kịp thời. Phát động các phong trào từ thiện,
nhân đạo để giúp đỡ và ủng hộ đến từng địa chỉ nhân đạo.
- Tích cực ứng dụng KHCN vào quá trình SX để nâng cao năng suất chất
lượng và giá trị KT cho các sản phẩm chủ lực mà địa phương sản xuất ra. Tập
trung nghiên cứu các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao và
phù hợp với từng vùng trong tỉnh, áp dụng các KHCN tiên tiến trong sản xuất
và đời sống.
- Tăng cường sự lãnh đạo của đảng, sự quản lý nhà nước cũng như phát
huy vai trò của các tổ chức, chính trị, XH nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp
góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trong việc PT SXHH ở Hà Giang.
Liên hệ với thực tế của bản thân : Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe là nhiệm
vụ của toàn xã hội trong đó ngành Y tế là ngành then chốt, chủ yếu quan tâm
đến sự nghiệp chăm sóc và sức khỏe của nhân dân. Là một viên chức ngành Y tế
tôi luôn xác định được nhiệm vụ của mình trong quá trình phát triển KT cũng
như trong quá trình công tác. Bản thân tôi luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao để góp phần nhỏ bé của mình vào hoàn thành mục tiêu, kế hoạch
của ngành cũng như của đơn vị đề ra. Tôi công tác tại một đơn vị chuyên khoa –
Trung tâm P/C sốt rét tỉnh, là đơn vị tổ chức triển khai các hoạt động chuyên
môn, kỹ thuật về phòng, chống bệnh sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng
trên địa bàn tỉnh. Do vậy cán bộ, viên chức ở đây thường xuyên xuống tuyến cơ
sở để chỉ đạo hướng dẫn và giám sát chuyên môn, kỹ thuật, triển khai công tác
thông tin, tuyên truyền giáo dục, truyền thông, tham gia đào tạo tập huấn,
nghiên cứu và tham gia nghiên cứu khoa học, các ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về
y học … vào các hoạt động phòng, chống bệnh sốt rét, các bệnh ký sinh trùng
và côn trùng truyền bệnh đối với các cơ sở y tế trên địa bàn. Tính đến 9 tháng
đầu năm 2012 toàn tỉnh đã đạt được mục tiêu của chương trình đề ra, không có
bệnh nhân tử vong do sốt rét cụ thể : BN mắc sốt rét giảm 1,58 % so với cùng
kỳ, số lượng ký sinh trùng 03 ca, số lượt điều trị 437 bệnh nhân, số lượng lam
máu 71.225 lam, tuyên truyền trên các phương tiện được 7.480 lượt với 621.114
người tham dự, giám sát được 1.471 lượt với 1.547 điểm. Với những kết quả đã
đạt được như vậy góp phần cho công tác phòng chống sốt rét toàn tỉnh ổn định
và sức khỏe của nhân dân được nâng cao. Bản thân tôi cũng như toàn thể cán bộ
viên chức của Trung tâm cảm thấy đã góp một phần công sức của mình vào
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân cũng như công tác phát triển
sản xuất hàng hóa của tỉnh.
4. THAM KHẢO:
LIÊN HỆ VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KINH TẾ CỦA
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở HUYỆN MÈO VẠC
Mèo Vạc là huyện miền núi biên giới phía bắc tỉnh Hà Giang, nằm trong
vùng Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn; có diện tích tự
nhiên là 56.309ha và có 40,935km đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc.
Địa hình hiểm trở, bị chia cắt mạnh và độ dốc lớn. Khí hậu tương đối khắc
nghiệt, mùa khô thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau gây thiếu nước
phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất, kèm theo nhiều đợt rét đậm, rét hại; mùa
mưa thường xảy ra lũ quét, lũ ống, sạt lở đất, đá nghiêm trọng…Huyện có 17
xã, 01 thị trấn với 199 thôn, tổ khu phố. Tổng dân số của huyện là 79.012
người, gồm 17 dân tộc; dân cư phân bố không đồng đều, sống rải rác trên các
sườn núi, thung lũng, quần tụ theo dân tộc, dòng họ.
Trong những năm qua:
Về Lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế của huyện tăng trưởng khá, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch đúng hướng. Giá trị sản xuất ngành Công nghiệp - Xây dựng ước
đạt 512,88 tỷ đồng, chiếm 38,51% giá trị các ngành sản xuất, tăng 8,55 lần so
với 2010 (trong đó: công nghiệp 388,12 tỷ đồng, chiếm 75,67%; xây dựng
124,76 tỷ đồng, chiếm 24,33%); giá trị sản xuất ngành Thương mại - Dịch vụ
ước đạt 380,68 tỷ đồng, giảm 6,18%; giá trị sản xuất nhóm ngành Nông - Lâm Thủy sản ước đạt 438,32 tỷ đồng, giảm 0,31% so với năm 2010 (trong đó:
Trồng trọt 200,19 tỷ đồng, chiếm 45,81%; chăn nuôi 194,04 tỷ đồng, chiếm
44,27%; lâm nghiệp 41,39 tỷ đồng, chiếm 9,44% và thủy sản 2,1 tỷ đồng chiếm
0,48%). Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 11,25 triệu đồng tăng
2,03.
Sản xuất nông, lâm nghiệp: Các đề án, phương án, kế hoạch thuộc lĩnh
vực trồng trọt được triển khai trên địa bàn và phát huy hiệu quả cao như : Đề án
phát triển cây đậu tương hàng hóa diện tích thực hiện ước đạt 3.680ha; Đề án
phát triển cây dược liệu: kết quả diện tích trồng mới cây dược liệu các loại (thảo
quả, gừng, nghệ, táo mèo,...) được 75,4 ha; diện tích, năng suất và sản lượng của
các cây trồng chính hàng năm đều tăng như: Cây lúa tổng diện tích ước thực hiện
1.320,3 ha; Cây ngô tổng diện tích ước thực hiện 7.850,0 ha; Cây đậu tương:
tổng diện tích gieo trồng ước thực hiện 3.680 ha; Cỏ chăn nuôi, diện tích cỏ
toàn huyện có 4.423,0 ha. Chăn nuôi được chú trọng đầu tư và phát triển đúng
hướng, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo thu nhập chính trong cơ cấu kinh
tế nông nghiệp của huyện; các đề án, kế hoạch thuộc lĩnh vực phát triển chăn
nuôi, nhất là chương trình trồng cỏ gắn với phát triển đàn bò hàng hóa được
triển khai thực hiện, đạt hiệu quả cao: Tổng đàn trâu, bò toàn huyện có 30.482
con, lợn có 35.180 con, đàn dê có 19.854 con, đàn ong có 6.119 đàn; nuôi trồng
thủy sản được quan tâm; các sản phẩm chăn nuôi như bò, mật ong bạc hà... đã
trở thành hàng hóa (hàng năm, huyện xuất bán ra ngoài thị trường khoảng 4.000
con trâu, bò; 2.000 con dê và 30.000 lít mật ong).
Lâm nghiệp: Công tác bảo vệ phát triển rừng, các đề án, phương án đã
phát huy hiệu quả cao. Đã trồng mới được 2.157 ha rừng tập trung; Sản xuất
công nghiệp, thủ công nghiệp có bước phát triển mạnh, trong đó công nghiệp
điện là bước đột phá trong ngành công nghiệp của huyện (năm 2012 đã hoàn
thành và đưa vào vận hành công trình thủy điện Nho Quế 3 với công suất
110MW, đóng góp sản lượng đáng kể vào lưới điện quốc gia). Năm 2015, giá trị
sản xuất ngành Công nghiệp - Thủ công nghiệp ước đạt là 388,12 tỷ đồng,
chiếm 29,14% tăng 6,5. Hoạt động sản xuất thủ công nghiệp được duy trì và
phát triển, khai thác 21.200 m 3 đá hộc, 3.180m3 cát đen, sản xuất 26.620 m3 đá
xay 1,2. Sản xuất 1.150 nghìn viên gạch bê tông xi măng, 40.410 chiếc nông cụ
cầm tay (cày, cuốc, dao), 8.780 m2 cửa hoa sắt, 6.870 m2 cửa nhôm kính. Sản
xuất 280.000 lít rượu, 10.000 lít mật ong, chế biến 07 tấn chè. Hỗ trợ cho các
hợp tác xã, làng nghề về cơ sở vật chất, máy móc thiết bị, đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa nhằm thúc đẩy các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển: Hỗ trợ hợp
tác xã rèn đúc nông cụ Sủng Trà, Sủng Máng, làng Nghề nấu rượu Há Ía - Cán
Chu Phìn, hợp tác xã Tiểu thủ công nghiệp Sảng Pả A - Thị trấn Mèo Vạc, hợp
tác xã chế biến chè Thanh Bình - Tát Ngà, hợp tác xã mật ong Tuấn Dũng với
tổng số vốn hỗ trợ 410 triệu đồng.
Hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư xây dựng, từng bước hoàn
thiện; xây dựng mới 153 công trình với tổng nguồn vốn đầu tư 957,448 tỷ đồng.
Nâng cấp nhiều tuyến đường từ trung tâm huyện đi các xã; mở mới, nâng cấp
đường dân sinh. Hệ thống lưới điện nông thôn được quan tâm đầu tư Xây dựng
30 công trình điện với tổng nguồn vốn đầu tư là 116,286 tỷ đồng. Hệ thống thuỷ
lợi, thủy nông, kênh mương nội đồng được kiên cố hóa đạt 31,5%. Hoàn thành,
đưa vào sử dụng 16 hồ treo với tổng dung tích 102.330m 3, góp phần đáng kể
trong việc giải quyết nước sinh hoạt trong mùa khô cho nhân dân; Xây dựng,
nâng cấp chợ trung tâm huyện, 08 chợ xã; trường, lớp học được đầu tư xây dựng
theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hóa để đáp ứng nhu cầu dạy và học. 18/18 xã, thị
trấn có trạm y tế được xây dựng kiên cố; hoàn thành, đưa vào sử dụng Trung tâm
Y tế và nâng cấp, mở rộng Bệnh viện Đa khoa huyện. Xây dựng, cải tạo một số
công trình phục vụ tham quan, du lịch như Đài vọng cảnh Thị trấn Mèo Vạc,
điểm dừng chân Mã Pì Lèng, Miếu Ông, Miếu Bà, Khuôn viên tượng đài Bác Hồ, hang
Rồng Tả Lủng…
Phát triển Thương mại - dịch vụ, du lịch được chú trọng, phát triển du lịch
được xác định là hướng đi mới trong phát triển kinh tế của huyện. Tổng mức lưu
chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ lưu trú ăn uống năm 2015 ước đạt 272,224
tỷ đồng; kim ngạch xuất, nhập khẩu ước đạt 1,0 triệu USD.
Chợ trung tâm huyện và 06 chợ nông thôn ở các xã được duy trì. Chợ bò
Mèo Vạc với mỗi phiên xuất bán trung bình khoảng 80 - 100 con bò, góp phần
thúc đẩy chăn nuôi bò hàng hóa. Hàng năm duy trì thực hiện “Đưa hàng Việt về
nông thôn”. Hoạt động xúc tiến thương mại được quan tâm nhằm quảng bá, mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm địa phương, tham gia 06 lượt trưng bày và giới
thiệu sản phẩm đặc biệt đối với các sản phẩm của địa phương tại các hội trợ
trong và ngoài tỉnh. Các loại hình dịch vụ vận tải, dịch vụ lưu trú, ăn uống cơ bản
đã đáp ứng được nhu cầu của nhân dân và khách tham quan, du lịch.
Khai thác tiềm năng du lịch gắn với phát huy giá trị vùng Công viên địa
chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn và văn hóa truyền thống dân tộc địa
phương đạt kết quả tích cực, góp phần thu hút khách trong và ngoài nước đến
tham quan, du lịch. Số lượt khách du lịch năm 2015 ước đạt 61.400 lượt khách.
Hoạt động tài chính - tín dụng, phát triển các thành phần kinh tế và thu
hút vốn đầu tư có nhiều cố gắng, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh và thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội của huyện. Các
ngân hàng trên địa bàn đã bám sát mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội để tập trung nguồn vốn huy động đáp ứng nhu cầu vay vốn của các tổ chức,
cá nhân. Tổng doanh số cho vay NHCSXH là 170,195 tỷ đồng, với 9.730 lượt
hộ nghèo và cận nghèo vay vốn; tạo việc làm mới cho 2.000 lao động, xóa
1.099 nhà dột nát theo quyết định 167, xây dựng 348 công trình nước sạch và vệ
sinh môi trường. góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế ở các ngành,
lĩnh vực như công nghiệp điện, khai thác khoáng sản, sản xuất nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ vận tải, nhà hàng... hàng năm đóng góp 70
- 80% vào tổng thu ngân sách của huyện.Thu hút vốn đầu tư phát triển vào địa
bàn huyện đạt trên 4.100 tỷ đồng các nguồn vốn đầu tư chủ yếu vào xây dựng
kết cấu hạ tầng.
Lĩnh vực khoa học - công nghệ được quan tâm đầu tư. Nhiều tiến bộ kỹ
thuật đã được chuyển giao và áp dụng vào sản xuất mang lại hiệu quả cao như:
Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, chế biến, dự trữ thức ăn cho gia súc, thâm canh lúa
lai, ngô lai và đậu tương giống mới, sử dụng vôi để cải tạo đồng ruộng, áp dụng
cơ giới hóa trong các khâu làm đất, bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch…
nhờ đó năng suất cây trồng và vật nuôi tăng đáng kể. Triển khai ứng dụng công
nghệ chế biến sản phẩm sau thu hoạch nhằm nâng cao giá trị của sản phẩm đối
với các sản phẩm như: Mật ong bạc hà Mèo Vạc, rượu ngô... Triển khai việc ứng
dụng công nghệ thông tin và phần mềm IOFFICE trong quản lý, điều hành của
các cơ quan, đơn vị góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác cải cách
hành chính.
Các chính sách đầu tư phát triển giáo dục được quan tâm và đạt được
nhiều tiến bộ. Toàn huyện có 57 trường học, với 22.997 học sinh; tỷ lệ học sinh
đến trường ngày càng cao: 0-2 tuổi đạt 18%, 3-5 tuổi đạt 94,33%, riêng trẻ 5
tuổi đạt 99,23%; huy động trẻ vào lớp 1 đúng độ tuổi đạt 99,72% (tăng 1,15%
so với năm 2010, vượt 0,7% so với Nghị quyết); 6 - 14 tuổi đạt 98,05% (tăng
0,55% so với năm 2010, vượt 0,1% so với Nghị quyết); tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
THCS đi học THPT, bổ túc THPT và học nghề đạt 48% (vượt 37,14% so với
Nghị quyết).
Công tác giảm nghèo, dạy nghề và giải quyết việc làm: Tích cực đẩy
mạnh thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững; thực hiện có hiệu quả
các chương trình, chính sách, dự án hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức, cá
nhân, doanh nghiệp; gắn trách nhiệm của các cơ quan đỡ đầu, cá nhân phụ trách
với địa chỉ hộ nghèo cụ thể. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 63,88% cuối năm 2010
xuống còn 34,99% vào cuối năm 2015 (giảm 3.484 hộ, tương ứng 28,89%);
bình quân hàng năm giảm trên 5,0%. Chú trọng công tác đào tạo nghề, khuyến
khích xuất khẩu lao động, góp phần làm tăng số lao động được giải quyết việc
làm. Trong 5 năm, đào tạo nghề cho 6.744 lao động (trong đó: tỷ lệ lao động
nông thôn là 26%); tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm thường xuyên, tìm
được việc làm mới sau khi đào tạo nghề đạt trên 70%, giải quyết việc làm cho
6.336 lao động
Các chính sách an sinh xã hội được quan tâm, thực hiện đầy đủ, kịp thời,
góp phần ổn định đời sống và tác động tích cực đến công tác giảm nghèo chung
của huyện, đặc biệt là các đối tượng khó khăn, yếu thế trong xã hội.
* Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì Huyện còn có những khó
khăn, hạn chế trong việc thực hiện các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ.
- Do xuất pháp nền kinh tế ở huyện Mèo Vạc còn thấp đãn đến. Chuyển
dịch cơ cấu cây trồng còn chậm; tiềm năng về đất đai chưa được khai thác triệt
để; năng suất cây trồng, hệ số sử dụng đất, giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích
canh tác còn thấp; chăn nuôi phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; sản
lượng hàng hóa nông sản còn thấp; khâu bảo quản, chế biến và tiêu thụ nông
sản sau thu hoạch chưa được quan tâm đúng mức
+Thu nhập bình quân đầu người/ năm là 11,25 triệu đồng/năm, thu nhập
còn thấp so với một số huyện khác như Yên Minh, Quản Bạ …
+ Tỷ lệ đói nghèo của huyện là 34,99% vẫn còn cao so với một số huyện
+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 6,2% còn thấp so với nguồn nhân lực
+ Tỷ lệ thất nghiệp còn lớn
- Thiếu nguồn vốn cho sản xuất
- Cơ sở hạ tầng còn sơ sài chưa đáp ứng được cho phát triển kinh tế như
một số xã còn thiếu đường giao thông dân sinh, thiếu điện, cơ sở vật chất phục
vụ ở trường học các xã còn sơ sài chưa đủ đáp ứng cho việc học.
- Việc ứng dụng khoa học – công nghệ để nâng cao năng suất cho các sản
phẩm còn hạn chế, năng lực cạnh tranh các sản phẩm của địa phương chưa cao.
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã còn hạn chế; các
làng nghề, ngành nghề truyền thống chưa phát triển, các sản phẩm phục vụ du
lịch còn đơn điệu.
- Chất lượng nguồn nhân lực lao động chưa cao dẫn đến không đáp ứng
kịp cho sản xuất dẫn đến còn thiếu việc làm, hoặc không phù hợp với ngành
nghề.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đúng hướng nhưng chưa tương xứng với
tiềm năng do điều kiện khí hậu, hệ thống kết cấu hạ tầng kém…
- Việc khai thác các yếu tố nguồn lực cho phát triển kinh tế chưa tốt. Các
nội dung, hạng mục, thông tin thu hút kêu gọi các tổ chức, doanh nghiệp trong
và ngoài nước đến đầu tư còn hạn chế.
- Vấn đề quản lý kinh tế nhiều thành phần còn nhiều bất cập, lúng túng
+ Số lượng doanh nghiệp là 06 doanh nghiệp
+ Số lượng Hợp tác xã là 28
+ Kinh tế cá thể là 254
* Nguyên nhân của hạn chế
- Nguyên nhân khách quan: Do ảnh hưởng của lạm phát, suy thoái kinh tế
chung, Chính phủ thực hiện các chính sách kiềm chế lạm phát, thắt chặt chi tiêu
công, nguồn ngân sách địa phương khó khăn. Thiếu đất, thiếu nước sinh hoạt và
sản xuất, thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra gây thiệt hại lớn về sản xuất,
người và tài sản của nhân dân. Kết cấu hạ tầng còn thiếu đồng bộ. Nhận thức
của một bộ phận người dân còn hạn chế. Các thế lực thù địch luôn tìm cách
chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, an ninh biên giới, tình hình tội
phạm và vấn đề tôn giáo, di cư tự do còn tiềm ẩn phức tạp.
- Nguyên nhân chủ quan
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền cơ
sở còn hạn chế, chậm đổi mới, chưa kịp thời giải quyết một số vấn đề vướng
mắc, nảy sinh. Việc dự báo tình hình, xác định một số mục tiêu, chương trình,
còn chủ quan, chưa sát thực tế, chưa huy động được nguồn lực thực hiện. Công
tác tham mưu của một số cơ quan, ban, ngành, đoàn thể các cấp chưa chủ động,
sáng tạo, việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ có lúc chưa đồng bộ, còn thụ động.
Một số cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thực sự tu dưỡng rèn
luyện đạo đức, phát huy tính tiên phong, gương mẫu. Ý thức tự vươn lên của
một bộ phận quần chúng nhân dân để giảm nghèo và làm giàu còn hạn chế, còn
tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước. Phương thức vận động, tập hợp quần
chúng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vẫn chưa theo kịp yêu cầu mới.
* Giải pháp thực hiện các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
1. Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục vận động để đông đảo tầng lớp
nhân dân, cán bộ và Chính quyền cơ sở tích cực đầu tư phát triển sản xuất theo
hướng thị trường (tuyên truyền ở các phiên chợ, trong buổi họp thôn, niêm yết
tại trụ sở thôn bản...)
2. Làm tốt công tác định hướng cho các thành phần kinh tế ở huyện
theo hướng phát huy những thế mạnh phù hợp với đặc điểm, tự nhiên, khí
hậu thời tiết, phong tục tập quán sản xuất, xuất phát điểm nền kinh tế.
- Định hướng cho phát triển Nông – lâm – nghư nghiệp. Đẩy mạnh áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển Nông - Lâm - Thủy sản
toàn diện; đảm bảo an ninh lương thực; tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm dần
tỷ trọng ngành trồng trọt
+ Trồng trọt: Tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, tập trung thâm canh
tăng năng suất, sản lượng các loại cây lương thực, thực phẩm và rau mầu truyền
thống (lúa, ngô, đậu tương...)
+ Chăn nuôi: Tập trung cải tạo, nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm
có giá trị cao như trâu, bò, dê và đàn ong.
+ Thủy sản: Phát triển quy mô đàn ong lên 20.000 đàn (phấn đấu đưa
Mèo Vạc trở thành đầu mối sản xuất, chế biến và tiêu thụ đặc sản mật ong bạc
hà của tỉnh).
+ Lâm nghiệp: Bảo vệ và phát triển rừng kết hợp với khai thác và sử dụng
có hiệu quả tài nguyên rừng, đất rừng. Tiếp tục tăng cường công tác trồng mới,
khoanh nuôi, bảo vệ, chăm sóc rừng (nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
xung yếu); thực hiện tốt các biện pháp phòng chống nạn chặt phá rừng, khai thác
buôn bán gỗ trái phép.
- Định hướng cho phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
+ Công nghiệp xây dựng: Tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy năng
lực sản xuất của nhà máy thủy điện Nho Quế 3 và các cơ sở khai thác, chế biến
ăngtimon, sản xuất vật liệu xây dựng... hiện có; tích cực phối hợp và tạo điều
kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư hoàn thành xây dựng các nhà máy thủy điện
Nho Quế 1, 2, thủy điện Sông Nhiệm và khai thác
+ Công nghiệp tiểu thủ: Chú trọng đầu tư, phát triển, khôi phục các ngành
nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, chế biến nông lâm sản, thực phẩm, chế tác
hàng lưu niệm..., sản xuất một số mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng và du
lịch.
- Định hướng cho phát triển du lịch, dịch vụ thương mại
+ Huy động các nguồn lực đầu tư để nâng cấp, phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng thương mại, như: chợ trung tâm huyện, chợ cửa khẩu, chợ nông thôn.
Đẩy mạnh chương trình phát triển kinh tế biên mậu. Tăng cường các hoạt động
thương mại biên giới. Phát triển mạnh các dịch vụ, chú trọng nâng cao chất
lượng các ngành dịch vụ du lịch, vận tải, nhà hàng, khách sạn, bưu chính viễn
thông, Internet... theo hướng văn minh, hiện đại.
+ “bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, làng nghề truyền thống,
nhằm phát huy giá trị Công viên địa chất phục vụ phát triển du lịch” là khâu
đột phá của huyện. Thực hiện tốt quy hoạch lại quần thể du lịch Mã Pì Lèng,
Chợ tình Khâu Vai để gắn với du lịch sinh thái - văn hóa để khai thác có hiệu
quả và bền vững.Từng bước xây dựng thương hiệu du lịch Mèo Vạc.
3. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ cho nền
kinh tế nhiều thành phần ở địa phương
Tăng cường công tác quản lý thu, khai thác, phát triển nguồn thu, chống thất
thu và xử lý nợ đọng thuế, nuôi dưỡng các nguồn thu. Quản lý chi ngân sách chặt
chẽ, hợp lý, tiết kiệm, ưu tiên cho các nhiệm vụ trọng tâm.
Đẩy mạnh huy động vốn, mở rộng tín dụng, hỗ trợ thị trường; thực hiện
các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Tăng cường huy động vốn tại
địa bàn đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế nợ xấu phát sinh.
4. Tích cực ứng dụng khoa học – công nghệ để nâng cao năng suất,
nâng cao chất lượng và giá kinh tế cho các sản phẩm thế mạnh mà địa
phương sản xuất ra
- Chú trọng đưa công nghệ mới và các đề tài được nghiên cứu, thử nghiệm
thành công vào sản xuất và đời sống. Mở rộng quan hệ hợp tác, liên kết với các
nhà khoa học, cơ sở nghiên cứu khoa học trong việc nâng cao giá trị cho các sản
phẩm chủ lực, có thế mạnh của huyện.
+ Làm tốt công tác khuyến nông, khuyến ngư
+ Làm tốt các mô hình điển hình như: Nuôi gà đen, lợn đen, nuôi ong...
+ Làm tốt các Hội nghị khoa học – công nghệ
5.Tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo sự thuận lợi cho việc
phát triển
Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đầu tư hoàn thiện hệ
thống hạ tầng kinh tế và xã hội; chú trọng nâng cấp, hoàn thiện các tuyến đường
giao thông.
Rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch, tranh thủ các nguồn vốn để xây
dựng các công trình thủy lợi, cấp nước sinh hoạt phục vụ sản xuất và đời
sống.Tăng cường đầu tư, nâng cấp hệ thống công trình kè chống xói lở ở khu
vực có nguy cơ sạt lở cao. Phát triển hệ thống lưới điện, đẩy nhanh tiến độ các
dự án điện nông thôn.
Đầu tư xây dựng Công viên khoa học địa chất; đầu tư phát triển Trung
tâm du lịch khoa học, mạo hiểm và thương mại cửa khẩu Mèo Vạc.
6. Đặc biệt coi trọng phát triển nguồn nhân lực, coi đây là nhân tố
quan trọng nhất để thực hiện các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ.
Muốn vậy cần:
- Phát triển giáo dục đào tạo: Nâng cao chất lượng dạy và học, bảm bảo tỷ
lệ học sinh (6-14 tuổi) đến trường đạt 98,1% trở lên; học sinh đi học đúng độ
tuổi (6 tuổi vào lớp 1) đạt 99%; trẻ từ (0-2 tuổi) đi nhà trẻ đạt 23,50%; tỷ lệ trẻ
từ (3-5 tuổi) đi mẫu giáo đạt 95%; tỷ lệ huy học sinh tốt nghiệp THCS đi học
cấp III và trung cấp nghề đạt 48% trở lên. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên đạt chuẩn theo quy định. Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý, giảng dạy và học tập trong nhà trường.
Coi trọng đào tạo nghề cả về quy mô và chất lượng; triển khai thực hiện
tốt lộ trình của Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
-Phát triển y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân như: Tiếp tục đầu tư cải
tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống bệnh viện huyện, phòng khám đa khoa khu vực
và các trạm y tế xã; làm tốt việc luân phiên bác sỹ về công tác tại các trạm y tế
xã. Thực hiện tốt các loại hình bảo hiểm y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm
sóc sức khỏe nhân dân.
- Giải quyết việc làm cho người lao động: Phấn đấu số lao động được giải
quyết việc làm mới: 1.312 người, trong đó: đi xuất khẩu động và làm việc tại
các tỉnh bạn (Tập đoàn than - Khoáng sản VN) là 105 người.
- phát triển văn hóa - thể dục – thể thao nâng cao đời sống tinh thần cho
người lao động: Duy trì thường xuyên các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể thao
các dân tộc từ huyện đến cơ sở. Phát triển phong trào thể dục thể thao quần
chúng. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá theo hướng phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống. Xây dựng kế hoạch, chương trình phát triển văn hoá gắn với phát
triển du lịch. Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả phong trào "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá".
7. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ để thực hiện các nhiệm vụ của
thời kỳ quá độ ở địa phương.
- Chính sách thuế: Miễn giảm thuế..
- Chính sách tín dụng: Triển khai tốt nguồn vốn tín dụng, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp và hộ gia đình tiếp cận với nguồn vốn thuận lợi.
- Chính sách giải quyết việc làm: Thực hiện tốt các chính sách tín dụng,
dạy nghề, tạo việc làm, khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm...
- Chính sách hỗ trợ kỹ thuật, khoa học – công nghệ: Hỗ trợ việc áp dụng
quy trình thực hành sản xuất. Đào tạo, tập huấn cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật,
cán bộ khuyến nông các cấp; dạy nghề cho lao động nông thôn…
- Chính sách đất đai: Thực hiện tốt công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho các hộ sử dụng đất lâm nghiệp; thực hiện tốt công tác bồi thường
GPMB.
8. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các thành phần kinh
tế trên địa bàn huyện
- Làm tốt công tác quản lý của các bộ phận liên quan như: Đội quản lý thị
trường, Phòng công thương, công an kinh tế...
- Tăng cường vai trò giám sát của HĐND – UBND như tình hình thực hiện
dự toán thu chi ngân sách, quản lý, sử dụng ngân sách…
- Giảm thiểu và cải cách hành chính như: Triển khai thực hiện tốt bộ phận
“một cửa điện tử”. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà nước; ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước gắn với đổi
mới phương thức điều hành của hệ thống hành chính, tạo sự công khai, minh
bạch trong quản lý nhà nước.
9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cũng như phát huy vai trò của tổ
chức chính trị xã hội tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ ở địa phương
- Chính quyền: Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tiếp xúc cử tri của
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tăng cường công tác giám sát, tái giám sát,
khảo sát và tham vấn nhân dân. Thực hiện cải cách hành chính toàn diện, xác
định rõ trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ công chức các cơ quan, đơn
vị.
- Mặt trận tổ quốc: Tập trung nâng cao chất lượng, quan tâm chăm lo lợi
ích cho thành viên, hội viên, đoàn viên; đổi mới phương thức hoạt động, bám sát
cơ sở, tăng cường công tác tuyên truyền và vận động nhân dân.
- Đoàn thanh niên chú trọng giáo dục, rèn luyện, giác ngộ, giúp định hướn
cho thanh niên trong lập thân, lập nghiệp, xậy dựng mô hình nuôi gà đen và lợn
đen đưa vào thực hiện.
- Nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh tích cực tham gia phát
triển kinh tế xã hội, phát huy trí tuệ năng lực của đội ngũ tri thức, tạo mọi điều kiện
cho tài năng phát triển.
Có thể nói điều kiện xuất phát điểm của nền kinh tế Mèo vạc thấp, nhưng sau
thời gian đổi mới, áp dụng nền kinh tế nhiều thành phần xã hội chủ nghĩa, đã có rất
nhiều chuyển biến tích cực. Tiếp tục vận dụng những phương pháp giá trị thặng
dư, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, đồng thời học tập từ những huyện,
tỉnh có nền kinh tế phát triển, huyện Mèo Vạc có thể đẩy mạnh kích thích sản xuất,
tăng năng suất lao động, sử dụng kỹ thuật mới cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm
chi phí sản xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giúp cho huyện Mèo Vạc nói
riêng và tỉnh Hà Giang nói chung thoát khỏi tình trạng đó nghèo.
5. Liên hệ với thực tiễn thực trạng gccn vn.
- Khái niệm: Giai cấp công nhân là một lực lượng xã hội to lớn đang phát
triển bao gồm những người lao động chân tay và trí óc làm công hưởng lương
trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất và
kinh doanh dịch vụ có tính chất công nghiệp.
- Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử:
+ Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng
sản Việt nam;
+ Là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH;
+ Là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
+ Là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
- Đánh giá thực trạng việc thực hiện SMLS của giai cấp công nhân trong
thực tiễn.
- Thành tựu:
+ GCCN nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, đã hình thành và
phát triển bộ phận công nhân trí thức.
+ Đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
thông qua đội tiền phong là ĐCS, là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng
CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế.
+ Phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh GCCN với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp
trực tiếp to lớn vào quá trình phát triển đất nước, đồng thời là cơ sở chính trị xã
hội vững chắc của Đảng và nhà nước.
- Hạn chế:
+ Sự phát triển của GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
CNH – HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công
nhân lành nghề, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế
+ Đa phần công nhân xuất thân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và hệ
thống.
+ Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
+ GCCN còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh GCCN
với GCND và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
+ Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều;
+ Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp.
+ Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia
hoạt động trong các tổ chức chức chính trị - xã hội.
Nhìn chung: Lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương
xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính
mình. Việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang còn nhiều
khó khăn, bức xúc, đặc biệt là công nhân lao động giản đơn. Phát huy những ưu
điểm, khắc phục những hạn chế để xây dựng giai cấp công nhân trong thời gian
tới.
6. Đặc trưng bản chất của XHCN ở Việt Nam.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định cách mạng Việt Nam muốn đi
đến thành công phải gắn liền với cách mạng vô sản thế giới, trước hết là tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ, rồi sau sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn trung thành
với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
Nhận thức, quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng như về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta ngày càng sáng rõ, có những bước phát
triển mới phù hợp với thời đại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH. Ở cương
lĩnh này Đảng ta xác định 6 đặc trưng của XHXHCN mà nhân dân ta xây dựng,
là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột bất công; làm theo năng lực, hưởng theo lao động; có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Sau 15 năm thực hiện Cương lĩnh, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung vào Văn kiện Đảng về các
đặc trưng của XHXHCN để có 8 đặc trưng. Tuy nhiên đến Đại hội XI, sau 20
năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Đảng mới bổ sung, phát triển các đặc trưng
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH (Bổ sung, phát
triển năm 2011), Đảng ta đã nêu lên 8 đặc trưng của xã hội XHCN.Thành tựu
nhận thức quan trọng nhất được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong
đó xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”. Những đặc trưng này là những mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội mà khi kết thúc thời kỳ quá độ, chúng ta phải đạt được. Đảng
ta cho rằng để đạt các mục tiêu đó, chúng ta phải thực hiện tốt các phương
hướng, nhiệm vụ cơ bản sau: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; Chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
•
PHẦN LIÊN HỆ THỰC TẾ TẠI ĐỊA PHƯƠNG
Huyện Quang Bình được thành lập từ năm 2003 có diện tích tự nhiên là
79.188,04 ha và dân số hơn 63 nghìn người, có 15 đơn vị hành chính.
Huyện Quang Bình là đầu mối giao thông quan trọng phía Tây - Nam của
tỉnh Hà Giang giao thương với tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Do vậy, hoạt động sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại - du lịch khu vực trung
tâm huyện Quang Bình luôn sôi động. Là địa phương trẻ nhất của tỉnh do mới
được thành lập, phải gây dựng và phát triển từ đầu, song với sự nỗ lực đoàn kết,
thống nhất của Đảng bộ và nhân dân huyện Quang Bình đã không ngừng vươn
lên, đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội và giữ vững an ninh, quốc phòng.
Hiện nay trên địa bàn huyện Quang Bình cũng có đủ các thành phần kinh
tế như: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu
tư từ nước ngoài.
Kinh tế nhà nước cũng đang được đảng vộ huyện Quang Bình quan tâm
tuy nhiên trên địa bàn huyện có ít doanh nghiệp có vốn của nhà nước.
Kinh tế tập thể hiện nay trên địa bàn huyện có 11 doanh nghiệp hoạt
động chủ yếu lĩnh vực xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh dịch vụ nông lâm
nghiệp, thủy điện; Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động ổn định. Tuy nhiên một
số doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm như gạo, rượu,
chè...Đối với các hợp tác xã thực hiện quy định của Luật HTX năm 2012. Qua
triển khai đến nay có 44/77 HTX đã chuyển đổi và thành lập mới. Một số các
HTX thành lập ra hoạt động chưa đạt hiệu quả cao về kinh tế.
Kinh tế tư nhân hiện nay trên địa bàn huyện đang phát triển mạnh mẽ về
kinh tế tư nhân. Các hộ gia đình làm kinh doanh vừa và nhỏ trên địa bàn huyện
đạt hiệu quả cao về kinh tế góp phần vào phát triển kinh tế của huyện nhà.
Kinh tế có vốn đầu tư từ nước ngoài được quan tâm tuy nhiên còn rất ít vốn
đầu tư từ nước ngoài.
Trong năm 2017 huyện Quang Bình đã hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu về
kinh tế:
- Thu ngân sách trên địa bàn 77,789 tỷ đồng, riêng thuế và phí 76,117 tỷ
đồng, đạt 101,8% KH tỉnh giao, 100,2% KH huyện giao;
- Giá trị sản xuất Nông - lâm nghiệp, thủy sản 557 tỷ đồng, đạt 100% KH
huyện giao;
- Giá trị sản phẩm sản phẩm thu hoạch/ 1 ha đất trồng cây hàng năm 58
triệu đồng, đạt 100,17% KH tỉnh giao, 100% KH huyện giao;
- Sản lượng lương thực bình quân đầu người duy trì 650 kg, đạt 100%
KH huyện giao;
- Giá trị sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng cơ bản
532 tỷ đồng, đạt 100% KH huyện giao;
- Giá trị Thương mại - Dịch vụ 552 tỷ đồng, đạt 100% KH huyện giao;
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa 1.260 tỷ đồng, đạt 100% KH huyện giao;
- Thu nhập bình quân đầu người 26 triệu đồng, đạt 100% KH huyện giao;
- Số lao động được tao việc làm hàng năm 2.590 người, trong đó số lao
động qua đào tạo 1.800 người, đạt 171,5% KH huyện giao;
- Tỷ lệ thoát nghèo hàng năm 4,6%, đạt 135,29% KH tỉnh giao, 122,67%
KH huyện giao;
- Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đạt 100% KH tỉnh,
huyện giao;
Bên cạnh những kết quả đã đạt được việc sản xuất kinh tế của huyện
còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế như: Trong năm 2017, huyện gặp
không ít khó khăn trong phát triển Kinh tế - xã hội. Việc huy động các nguồn
lực cho đầu tư phát triển gặp nhiều khó khăn. Nguồn vốn phân bổ của tỉnh rất
ít, bên cạnh đó nguồn ngân sách của huyện hạn hẹp. Do vậy huyện gặp rất nhiều
khó khăn trong công tác đầu tư xây dựng hoàn thiện các hạng mục cơ sở hạ tầng
để hoàn thành 02 trường đạt chuẩn quốc gia, 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới và
04 xã công nhận lại Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã. Một số chương trình, dự án
phát triển sản xuất nông sản chuyên canh hàng hóa đã được hình thành như
cây cam, tuy nhiên khâu bao tiêu sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn; Môt số
mô hình liên kết đầu tư chưa phát huy được tính hiệu quả như liên kết thu
mua chế biến tiêu thụ sản phẩm chè, sản phẩm lúa gạo, giá lợn thương phẩm
giảm đột biến.
Việc phối hợp giữa ngành với ngành và ngành với cấp trong triển khai
thực hiện nhiệm vụ còn chưa đồng bộ, một số thủ trưởng đơn vị chưa nêu cao
trách nhiệm của người đứng đầu, tính chủ động trong công tác tham mưu cho
Thường trực UBND huyện; Việc kiểm tra, giám sát thi công và quản lý các
công trình sau đầu tư của cấp ủy chính quyền các xã, thị trấn còn chưa thường
xuyên dẫn đến việc đưa vào sử dụng chỉ đạt thời gian ngắn là công trình đã
xuống cấp, việc giải quyết các vướng mắc về đất đai tại trung tâm huyện đã có
chuyển biến tích cực tuy nhiên một số khu vực vấn chưa giải quyết dứt điểm,
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa kịp thời vấn còn để tồn đọng
kéo dài; Hoạt động của đội ngũ cán bộ bán chuyên trách cấp xã, thôn sau hợp
nhất còn nhiều bất cập, chưa phát huy được năng lực, sở trường; Việc huy động
nguồn lực phục vụ chương trình xây dựng NTM còn gặp khó khăn. Hoạt động
du lịch thương mại chưa phát triển so với tiềm năng của huyện do giao thông đi
lại còn gặp khó khăn đặc biệt là Quốc lộ 279 gây ảnh hưởng không nhỏ đến
giao lưu hàng hóa và đi lại của nhân dân.
Nguyên nhân của khó khăn, tồn tại trên:
Các giải pháp phát triển kinh tế xã hội trong năm 2018 và các năm
tiếp theo:
(1) Thực hiện đột phá về sản xuất hàng hóa tập trung gắn với tiêu thụ sản phẩm năm
2018;
(2) Thực hiện đột phá về xây dựng kết cấu giao thông nông thôn năm 2018;
(3) Cải cách hành chính gắn với thu hút đầu tư trong năm 2018;
(4) Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong thực thi công vụ;
(5) Nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành của các cơ quan, đơn vị
(tập trung vào thực hiện một cửa liên thông mức độ 3; chất lượng trang thông tin điện tử
huyện, xã; 100% cán bộ công chức biết sử dụng máy tính và giải quyết công việc trên môi
trường mạng internet
Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
bền vững. Tập trung đầu tư, khai thác có hiệu quá các tiềm năng, thế mạnh về lao động, đất
đai, tạo bước phát triển vững chắc trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tăng
cường ứng dụng công nghệ mới và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; phát triển các cây
trồng, vật nuôi có tính đặc trưng của huyện như: Chè, cam, quýt, lúa chất lượng cao, đại gia
súc, trồng rừng kinh tế.
Đổi mới nội dung, phương pháp và cơ chế hỗ trợ theo hình thức đầu tư có thu hồi, để
tái đầu tư; khuyến khích thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, hình thành
các vùng sản xuất hàng hóa tập trung (Vùng chè ở các xã Tiên Nguyên; Xuân Minh, Tân
Bắc..... Vùng Cam, quýt ở các xã Hương sơn, Yên Hà; Chăn nuôi đại gia súc ở các xã Bản
Rịa; Yên Thành; Nà Khương...; Vùng chuyên canh lúa chất lượng cao các xã Vĩ Thượng;
Bằng Lang; Xuân giang) chuyên canh theo tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn thực phẩm gắn với
chế biến, xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ. Tiếp tục phối hợp với công ty
TNHH Hào Hưng triển khai các dự án trên địa bàn huyện, liên kết với Công ty CP Mía đường
Sơn Dương phát triển cây mía tại các xã Bằng Lang, Yên Thành, Yên Hà và Tân Bắc. Đưa cơ
giới vào sản xuất để nâng cao năng xuất lao động cho người dân. Phấn đấu năm 2018 tổng
sản lượng lương thực có hạt đạt: 41.871,97 tấn; sản lượng Lạc đạt: 6.519,1; sản lượng cam
niên vụ 2017-2018 đạt trên 13.965,5 tấn; sản lượng chè búp tươi đạt: 10.993 tấn...
Tiếp tục triển khai chương trình phát triển chăn nuôi hàng hoá tập trung theo Nghị
quyết số 209; Nhân rộng mô hình cải tạo giống trâu tại xã Bằng Lang bằng phương pháp thu
tinh nhân tạo. Phấn đấu 60 hộ chăn nuôi gia súc trên 30 con; 688 hộ chăn nuôi gia cầm trên
200 con. Áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, phấn đấu năm 2018 sản lượng thịt lợn
hơi xuất chuồng: 3.464 tấn; thịt trâu, bò: 507 tấn; thịt dê: 111 tấn; thịt gia cầm: 850 tấn; thủy
sản đạt: 363 tấn.
Tăng cường chỉ đạo tập trung sản xuất cây vụ Đông trở thành vụ sản xuất chính trong
cơ cấu mùa vụ tại các xã vùng thấp, đưa một số giống mới phù hợp với điều kiện sinh thái
vào sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ
Chương trình bảo vệ và phát triển rừng bền vững; đẩy mạnh trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ
và phát triển vốn rừng đi đôi với quản lý khai thác lâm sản, lồng ghép thực hiện các chương
trình trồng rừng kinh tế, trồng cây hộ lan, cải tạo vườn tạp.
Tập trung với quyết tâm cao để thực hiện tốt chương trình xây dựng nông thôn mới gắn
với giảm nghèo bền vững. Ưu tiên các nhiệm vụ: phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho người dân; xây dựng nông thôn mới gắn với bảo vệ môi trường và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Phấn đấu năm 2018 đạt 01 xã hoàn thành chương trình
NTM ( Xã Tân Trịnh) nâng tổng số xã hoàn thành NTM toàn huyện 6 xã; số tiêu chí NTM
hoàn thành bình quân 13,9 tiêu chí /xã.
Đẩy mạnh phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, nhân rộng các mô hình tổ chức các
dịch vụ khuyến nông, thú y, vật tư nông nghiệp... tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận nhanh
trình độ khoa học kỹ thuật trong phát triển sản xuất và công tác bảo quản các sản phẩm nông
nghiệp.
Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có.
Chủ động, thực hiện tốt các biện pháp phòng chống thiên tai, hạn chế đến mức
thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra.
Tập trung phát triển các lĩnh vực công nghiệp có thế mạnh, các sản phẩm công nghiệp
có lợi thế cạnh tranh (chế biến chè, thủy điện vừa và nhỏ, chế biến nông lâm sản). Đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút các nhà đầu tư vào cụm công nghiệp Tân Bắc; Tăng
cường công tác phối hợp với các ngành của tỉnh, triển khai cấp điện cho các thôn bản vùng
sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc chưa có điện lưới quốc gia phấn đấu 90% hộ dân được
sử dụng điện lưới quốc gia.
Khuyến khích các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có đầu tư mở rộng quy mô nâng
cao năng lực sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ, áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất
lượng, quản lý môi trường để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Huy động tối đa các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, các nguồn của các thành phần
kinh tế trong và ngoài tỉnh; vận dụng linh hoạt các hình thức đầu tư, chú trọng hình thức nhà
nước và nhân dân cùng làm để phát triển kinh tế. Phấn đấu năm 2018 Giá trị sản xuất công
nghiệp - thủ công nghiệp và xây dựng đạt 589 tỷ đồng (tăng 57 tỷ đồng so với năm 2017),
một số sản phẩm chủ yếu: Chế biến chè đạt 2.748 tấn; Chế biến gỗ đạt trên 6.500m3; Điện
sản xuất và tiêu thụ đạt: 215 triệu kw/h…
Tăng cường đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, y tế, giáo dục;
lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư khắc phục các công trình bị thiệt hại do thiên tai.
Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản; chú trọng công tác
quản lý chất lượng lập dự án và chất lượng xây dựng công trình. Tiếp tục tăng cường quản lý
đầu tư từ ngân sách nhà nước khắc phục tình trạng bố trí vốn phân tán, dàn trải, nâng cao hiệu
quả đầu tư. Tăng cường kiểm tra, uốn nắn, lập hồ sơ các công trình xây dựng cơ bản.
Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, chủ đầu
tư trong quản lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Thực hiện các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của chợ trung
tâm huyện và các chợ trung tâm xã. Tăng cường quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận
thương mại, hàng giả, đầu cơ nâng giá, gây rối loạn thị trường, phấn đấu năm 2018 t ổng mức
bán lẻ hàng hóa đạt 1.433 tỷ đồng (tăng 173 tỷ đồng so với năm 2017).
Tập trung khai thác có hiệu quả, bền vững các tiềm năng, thế mạnh để phát triển du
lịch theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch huyện Quang Bình đến năm 2020; đẩy mạnh
công tác quảng bá xúc tiến du lịch; liên doanh, liên kết phát triển các tour, tuyến, điểm du
lịch; sản xuất các vật phẩm lưu niệm, các sản phẩm đặc trưng của địa phương... tạo dựng
thương hiệu du lịch Quang Bình và từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
của huyện.
Thực hiện có hiệu quả các giải pháp thu ngân sách; tăng cường công tác quản lý thu,
quyết toán thuế, xử lý nợ đọng thuế phấn đấu năm 2018: Thu ngân sách trên địa bàn đạt
88,520 tỷ đồng, trong đó riêng thuế và phí thu đạt 87,3 tỷ đồng. Thực hiện tốt Luật Ngân
sách, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đảm bảo các yêu cầu chi thường xuyên theo
dự toán giao hàng năm, đáp ứng thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an sinh xã hội. Tăng cường quản lý đầu tư công.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hệ thống thống ngân hàng; tổ chức tín dụng.
Đẩy mạnh huy động vốn, mở rộng tín dụng; thực hiện các giải phá tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp.
Về phát triển các thành phần kinh tế: Thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 147/KHUBND, ngày 10/11/2017 của UBND tỉnh Hà Giang; Kế hoạch số 137-KH/HU của Huyện ủy
huyện Quang Bình, về thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đề ra các giải pháp tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, nhất là cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính liên quan
đến tiếp cận vốn, giải phóng mặt bằng, ưu đãi miễn giảm, giãn hoãn việc nộp thuế, thành lập
và giải thể HTX...
Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012; chú trọng công tác tuyên
truyền Luật; rà soát điều lệ, tổ chức quản lý hoạt động của hợp tác xã bảo đảm phù hợp với
quy định của Luật Hợp tác xã. Tiếp tục thực hiện tốt việc đăng ký kinh doanh, quản lý sau
đăng ký kinh doanh, đảm bảo các thành phần kinh tế hoạt động đúng Luật, có hiệu quả và
đóng góp tích cực cho ngân sách
I. PHẦN XÃ HỘI VIỆT NAM
l. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng ra đời