Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết gia đình bé mọn (dạ ngân) và tiền đinh (đoàn lê)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

------------------------------

PHẠM THỊ NHUNG

YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
GIA ĐÌNH BÉ MỌN (DẠ NGÂN) VÀ TIỀN ĐỊNH (ĐOÀN LÊ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

------------------------------

PHẠM THỊ NHUNG

YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
GIA ĐÌNH BÉ MỌN (DẠ NGÂN) VÀ TIỀN ĐỊNH (ĐOÀN LÊ)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM



Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Lưu Khánh Thơ

THÁI NGUYÊN - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3
2.1 Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn ..............................................................3
2.2 Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định ..........................................................................4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................6
3.1 Đối tượng nghiên cứu............................................................................................6
3.2 Mục tiêu nghiên cứu ..............................................................................................6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ...................................................................7
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu: ..........................................................................................7
4.2. Phương pháp nghiên cứu:.....................................................................................7
5. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................7
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................7
7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................8
Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ ........................................9
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI .................................................................9
1.1.1. Diện mạo chung ..............................................................................................10
1.1.2. Tiểu thuyết tự truyện .......................................................................................14
1.2. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân, Đoàn Lê .......................................................19
1.2.1. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân ....................................................................19
1.2.2. Hành trình sáng tác của Đoàn Lê ....................................................................22
Tiểu kết chương 1: ....................................................................................................26

Chương 2: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ
MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ..............28
2.1. Cuộc đời thực của nhà văn .................................................................................28
2.1.1. Cuộc đời thực của Dạ Ngân ............................................................................28
2.1.2. Cuộc đời thực của Đoàn Lê.............................................................................29
2.2. Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư .........................................................................31


2.2.1. Nguyên mẫu - Nhân vật ..................................................................................31
2.2.2. Hiện thực đời sống - Hiện thực tác phẩm ......................................................38
2.3. Cảm quan về lịch sử, đời sống xã hội và con người ..........................................54
2.3.1. Cảm quan về lịch sử ........................................................................................54
2.3.2. Cảm quan về đời sống xã hội ..........................................................................58
2.3.3. Cảm quan về con người ..................................................................................61
2.4. Ý thức về cái tôi cá nhân ....................................................................................63
2.4.1. Cái tôi cô đơn ..................................................................................................64
2.4.2. Cái tôi khao khát hạnh phúc ............................................................................67
2.4.3. Cái tôi phản kháng, đấu tranh .........................................................................70
2.4.4. Cái tôi day dứt, dằn vặt ...................................................................................72
Tiểu kết chương 2......................................................................................................76
Chương 3: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ
MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT .......77
3.1. Ngôi kể (Điểm nhìn trần thuật) ..........................................................................77
3.1.1. Ngôi thứ ba – sự khách quan hóa ....................................................................78
3.1.2. Ngôi thứ ba – màu sắc lãng mạn .....................................................................83
3.2. Ngôn ngữ ............................................................................................................86
3.2.1. Ngôn ngữ giàu màu sắc biểu cảm ...................................................................86
3.2.2. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi đời thường ............................................................89
3.2.3. Ngôn ngữ tính dục ...........................................................................................93
3.3. Giọng điệu ..........................................................................................................97

3.3.1. Giọng hoài niệm, trữ tình ................................................................................98
3.3.2 Giọng chiêm nghiệm, triết lý .........................................................................101
Tiểu kết chương 3....................................................................................................103
KẾT LUẬN ............................................................................................................104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................106


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GS:

Giáo sư

PGS:

Phó giáo sư

TS:

Tiến sỹ

NXB:

Nhà xuất bản

LHP:

Liên hoan phim



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học thời kỳ đổi mới với sự chuyển mình đã tạo ra những chuyển
biến đáng ghi nhận ở hầu hết các thể loại, trong đó có tiểu thuyết. Trong điều
kiện thuận lợi, thể loại tiểu thuyết từng bước đổi mới, phát triển, đặc biệt ở
thể loại này có sự góp mặt của các nhà văn nữ với những tác phẩm tạo sự chú
ý trên văn đàn. Sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người, cuộc đời, quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với
công chúng và với chính mình giúp cho các nhà văn có môi trường thuận lợi
để viết văn, để phản ánh, để sáng tạo. Các tác phẩm văn học quan tâm đến con
người cá nhân, con người và cuộc sống được nhìn từ nhiều chiều. Nhiều nhà
văn nữ có điều kiện để sáng tạo nghệ thuật, để bộc lộ khả năng, cái tôi cá
nhân trong các tác phẩm của mình. Nhiều nhà văn nữ đã sáng tác ở thể loại
tiểu thuyết, thể loại đòi hỏi người cầm bút phải có sự tập trung cao độ trong
sáng tác, thời gian, có sự trải nghiệm, suy tư về con người và cuộc đời, am
hiểu sâu rộng về xã hội, thời cuộc. Đặc biệt với nhu cầu giải phóng tư tưởng,
bộc lộ cái tôi của người phụ nữ, với đặc trưng của thể loại tiểu thuyết, nhiều
tiểu thuyết của nữ nhà văn đã đi theo khuynh hướng tự truyện. Với cách nhìn
cách cảm riêng của người phụ nữ, tiểu thuyết của các tác giả nữ góp phần làm
cho diện mạo tiểu thuyết thêm phong phú, đa dạng, tiếng nói về con người,
cuộc đời cũng giàu sắc điệu hơn. Sang đầu thế kỷ XXI, sự xuất hiện những
tiểu thuyết của nữ nhà văn với giọng rất lạ, lạ cả về nội dung, lạ cả về hình
thức. Ở những tiểu thuyết này, người đọc dễ dàng nhận ra một cách nhìn, một
cách cảm về cuộc đời, con người rất riêng, mang tính nữ. Đặc biệt là tiểu
thuyết có tính tự thuật. Tự thuật vừa như một phương thức tư duy vừa là
phương thức nhà văn sử dụng để đưa yếu tố có thật trong cuộc đời cũng như
hiện thực cuộc sống vào tác phẩm. Chính vì thế, dễ dàng nhận thấy những tiểu



2

thuyết này mang đậm yếu tố tự truyện. Nghiên cứu về yếu tố tự truyện trong
tiểu thuyết của nữ nhà văn, giúp người đọc có thể nhận thấy sự chuyển biến rõ
rệt ở thể loại tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, thấy được những đóng góp ở thể loại
tiểu thuyết của nữ nhà văn.
1.2. Là những nhà văn sinh ra, lớn lên, trưởng thành qua những biến
động lớn của lịch sử, cuộc đời đa đoan, nhiều thăng trầm, Đoàn Lê và Dạ
Ngân có những trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời. Chính điều đó,
đã khiến hai nhà văn có một vốn tư liệu quý giá để viết nên những tiểu thuyết
để lại ấn tượng mạnh cho người đọc. Với niềm đam mê viết, với nhu cầu bộc
lộ con người cá nhân, tiểu thuyết của hai nữ nhà văn giàu nghị lực, khao khát
hạnh phúc cháy bỏng lôi cuốn người đọc khám phá thế giới nội tâm nhiều bí
ẩn của người phụ nữ, hiểu hơn về cuộc sống con người trong chiến tranh, thời
bao cấp, thời xóa bỏ bao cấp… Ở độ chín của một đời người, Dạ Ngân viết
tiểu thuyết Gia đình bé mọn, Đoàn Lê viết tiểu thuyết Tiền định. Nếu như
Gia đình bé mọn kể về cuộc đời số phận của người phụ nữa Nam bộ, thì Tiền
định lại khám phá số phận của người phụ nữ Bắc bộ. Điểm chung của hai tiểu
thuyết đó là, cuộc đời số phận của nhân vật gắn liền với thời chiến tranh, thời
bao cấp và thời kỳ đổi mới, số phận cá nhân được nhìn nhận trong mối quan
hệ chặt chẽ với thời đại, xã hội; mọi vấn đề của đời sống được nhìn nhận qua
cái nhìn của người phụ nữ cá tính có phần gai góc, khao khát hạnh phúc, giàu
nghị lực, ý thức sâu sắc về quyền hạnh phúc trong tình yêu hôn nhân, bao
dung và nhân ái. Hai tiểu thuyết mang đậm yếu tố tự truyện. Những vấn đề,
những điều phản ánh trong tác phẩm đều thấp thoáng dấu ấn trong cuộc đời
của hai nữ nhà văn. Gia đình bé mọn được xem là tác phẩm thành công nhất
của Dạ Ngân. Tác phẩm được tái bản nhiều lần, nhận hai giải thưởng của Hội
Nhà văn Hà Nội năm 2005 với số phiếu tuyệt đối 9/9 và dịch sang tiếng Anh,
xuất bản ở Mỹ. Tiền định của Đoàn Lê từng lọt vào chung khảo giải thưởng

văn Bách Việt 2009. Có thể nói, đây là hai tiểu thuyết của tác giả nữ được đặc


3

biệt chú ý trong văn học thế kỷ XXI. Nghiên cứu hai tiểu thuyết này sẽ góp
phần tìm ra những đặc trưng trong sáng tác của nữ nhà văn đầu thế kỷ XXI,
sự tìm tòi đổi mới trong sáng tác, những cống hiến, đóng góp của Đoàn Lê và
Dạ Ngân ở thể loại tiểu thuyết.
1.3. Nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê là nữ nhà văn có sức viết dồi dào, bền
bỉ. Sáng tác của hai nhà văn, đặc biệt là tiểu thuyết Gia đình bé mọn và Tiền
định tạo sự chú ý quan tâm và có sức lan tỏa khá rộng. Có nhiều khá bài viết
về Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định, những bài viết về Dạ Ngân và tiểu
thuyết Gia đình bé mọn. Có thể nói, từ khi ra đời đến nay, hai tác phẩm luôn
nhận được sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, sự yêu mến
của công chúng. Có một những công trình nghiên cứu về từng tiểu thuyết ở
các phương diện khác nhau và phát hiện ra những đặc điểm cũng như giá trị
của mỗi tiểu thuyết. Qua quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, cả hai tiểu
thuyết đều có yếu tố tự truyện và tiêu biểu cho tiểu thuyết của tác giả nữ đầu
thế kỷ XXI. Yếu tố tự truyện đã làm nên thành công của hai tiểu thuyết, đồng
thời góp phần tạo nên một hiện tượng văn học đầu thế kỷ XXI cần được tìm
hiểu, nghiên cứu để nhìn nhận, đánh giá sâu hơn.
Xuất phát từ những lí do khách quan và thực tế trên, từ sự yêu thích hai
tác phẩm, từ mong muốn tìm hiểu khám phá đời sống nội tâm, số phận con
người, sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, chúng tôi chọn
đề tài: Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và
Tiền định của Đoàn Lê.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn
Sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong thời chiến tranh, yêu thích văn

chương, bền bỉ trên mảnh đất chữ nghĩa, Dạ Ngân viết văn từ những năm 80
của thế kỷ trước, sáng tác thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Là


4

một trong những cây bút nữ trưởng thành sau năm 1975, Dạ Ngân tạo sự chú
với tác phẩm Con chó và vụ ly hôn. Tiểu thuyết Gia đình bé mọn ra đời đánh
dấu thành công trong sự nghiệp văn chương của Dạ Ngân, đưa tên tuổi Dạ
Ngân đến với độc giả yêu văn chương trong và ngoài nước.
Cuốn tiểu thuyết Gia đình bé mọn có sức hấp dẫn đặc biệt với người
đọc. Tiểu thuyết mang tính tự thuật, viết về cuộc đời một người phụ nữ đi qua
chiến tranh, qua thời bao cấp. Hoài Nam trong bài “Gia đình bé mọn” – “bản
dập” cuộc đời Dạ Ngân, nhận xét: “chiến tranh đã khắc dấu ấn của nó lên
đời sống xã hội, lên nhân tính, lên tình yêu của một thời kỳ đằng đẵng ngay
cả khi tiếng súng chiến tranh đã chấm dứt. Là người từng ở “cứ” nhiều năm,
sau đó lại kinh qua thời bao cấp như hàng triệu người dân Việt Nam khác,
nhà văn Dạ Ngân thấu hiểu điều này và có lẽ, “Gia đình bé mọn” chính là kết
quả của cả một quá trình mà bà đã suy ngẫm về chiến tranh, tất nhiên, theo
cách riêng của bà...”.[22]
Trong bài viết Gia đình bé mọn – lời tự thú chân thật, tác giả Trần
Thiện Đạo đánh giá: tác phẩm Gia đình bé mọn “có một bề dày lịch sử và
một chiều sâu tâm lý khiến cho nó nghiễm nhiên trở thành chứng từ khắc
hoạ một thời kỳ gian khó, qua những lời tự thú chân thật và chân thành về
nhiều mặt”.[5]
Gia đình bé mọn mặc dù có những thành công nhất định được quan tâm,
song trên thực tế việc phê bình, nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm chỉ mới dừng
lại ở các bài điểm sách, những tin vắn về việc in nối bản tiểu thuyết cùng một
số cuộc phỏng vấn và viết chân dung nhà văn. Gần đây đã có một số luận văn
của các trường Đại học chọn tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu. Luận văn

cũng chỉ mới tiếp cận này theo hướng nghiên cứu về giá trị của tiểu thuyết.
2.2. Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định
Đoàn Lê là người phụ nữ đa tài, đa đoan. Ở độ tuổi đã chín của một đời


5

người, Đoàn Lê viết tiểu thuyết Tiền định. Cuốn tiểu thuyết ra đời nhận được
sự quan tâm đặc biệt của độc giả.
Về Đoàn Lê, Hồ Anh Thái - người bạn thân thiết - đã dùng 14 trang để
“dựng” chân dung văn học của nhà văn trong Chị tôi. Về Tiền định, Hồ Anh
Thái nhận xét: “ Không e dè, không lảng tránh, chị tự mổ xẻ theo kiểu không
gây mê. Có nhiều chuyện, chắc nhiều cây bút phải run tay ghê tay. Nhưng chị
đã viết ra được”[39, tr.45]
Trong bài viết cho cuốn Tiền định, Lê Minh Khuê đã đánh giá “Vừa là
tự truyện, vừa là hư cấu, cuốn sách không có khám phá mới mẻ gì về phong
cách. Tác giả kể chuyện nhẩn nha và hấp dẫn. Nhưng cái đáng để ta quan
tâm: nhà văn viết cho độc giả đọc. Với những sự kiện đầy ăm ắp, Đoàn Lê
cung cấp cho người yêu sách văn học cái cảm xúc trong sáng của người viết
văn tinh tế, chú ý đến những rung động nhỏ của sự sống… Đoàn Lê đã đến
với người đọc thật giản dị. Trên những chất liệu thực, tác giả đã thổi vào đó
trí tưởng tượng, để câu chuyện như thực, lại như một giấc mơ về cuộc đời đa
truân của người đàn bà” [18, tr.315]
Việt Hà ở bài viết Tiền định nghiệt ngã trong tiểu thuyết Đoàn Lê có
khẳng định: “Những ai quen biết nhà văn Đoàn Lê, khi đọc tiểu thuyết này có
thể dễ dàng nhận ra nhân vật nữ trong truyện là hiện thân của tuổi trẻ, tình
yêu, khát vọng và cả những truân chuyên trong cuộc đời tác giả. Không né
tránh những sai lầm, những mù quáng, những đớn đau của tuổi trẻ và cả
những nghiệt ngã trong cuộc đời, Đoàn Lê đi sâu vào phân tích diễn biến nội
tâm của nhân vật vốn là lợi thế xưa nay của bà.” [7]

Tiền định cũng đã trở thành đối tượng nghiên cứu của một số luận văn.
Công trình nghiên cứu Yếu tố tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê của Bùi Thị
Thu có khảo sát mối quan hệ giữa chất liệu đời tư và vấn đề được đề cập đến
trong tiểu thuyết như: Bi kịch gia đình, câu chuyện nghề, chuyện đời …từ đó


6

làm rõ yếu tố tự truyện trong Tiền định – một trong những tác phẩm văn xuôi
tiêu biểu của Đoàn Lê.
Qua những thống kê trên, chúng tôi nhận thấy yếu tố tự truyện trong
tiểu thuyết của các nhà văn nữ đầu thế kỷ XXI là đối tượng tiềm tàng của
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Tuy nhiên, những bài viết mới chỉ
dừng lại ở việc đánh giá về tác giả, tác phẩm. Các công trình nghiên cứu về
yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết do các nhà văn nữ đầu thế kỷ XXI sáng tác
cũng chỉ dừng lại ở những tiểu thuyết đơn lẻ, chưa có những công trình
nghiên cứu sâu về yếu tố tự truyện trong hai tiểu thuyết. Với hướng tiếp cận
của luận văn này, chúng tôi sẽ làm rõ yếu tố tự truyện – đặc sắc, sự đổi mới,
đóng góp trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và Tiền định của
Đoàn Lê.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là yếu tố tự truyện trong tiểu
thuyết của Dạ Ngân và Đoàn Lê, khảo sát qua hai tiểu thuyết: Gia đình bé
mọn của Dạ Ngân và Tiền định của Đoàn Lê.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục tiêu làm rõ yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết
của tác giả nữ đầu thế kỷ XXI. Sự tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong hai tiểu
thuyết có thể giúp ta khai thác những biểu hiện của tự truyện trong hai tác
phẩm trên, qua đó tìm ra điểm chung và phong cách riêng của từng nhà văn;

thấy những đặc sắc trong phong cách của Dạ Ngân và Đoàn Lê trong tương
quan so sánh giữa hai tiểu thuyết trên, nét đặc sắc trong tiểu thuyết của các
nhà văn nữ trong tương quan so sánh với các tiểu thuyết của các nhà văn nam
giới cùng thời. Từ đó khẳng định những đóng góp của các nữ nhà văn cho thể
loại tiểu thuyết. Từ kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn góp phần khẳng


7

định đặc sắc ở tiểu thuyết tự truyện của nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê trong
tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định rõ các khái niệm: tự truyện, tiểu thuyết có yếu tố tự truyện,
- Xác định yếu tố tự truyện của tiểu thuyết Tiền định, Gia đình bé mọn
ở các phương diện: nhân vật, hiện thực trong tác phẩm, ngôi trần thuật, giọng
điệu kể chuyện, ngôn ngữ
- Xác định đặc điểm, những đóng góp của các nhà văn nữ ở thể loại tiểu
thuyết đầu thế kỷ XXI.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp
tiểu sử; phương pháp so sánh đối chiếu; phương pháp hệ thống; phương pháp
hình thức (thi pháp học); phương pháp nghiên cứu liên ngành.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của nhà văn Dạ Ngân và
Đoàn Lê, chúng tôi khảo sát qua hai tác phẩm: Gia đình bé mọn (2010, NXB
Thanh Niên), Tiền định (2010, NXB ). Ngoài ra chúng tôi cũng chú ý so sánh
với một số các tiểu thuyết tự truyện của các nhà văn nam giới đầu thế kỷ XXI
để có sự đánh giá đầy đủ trọn vẹn về đối tượng nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn

Luận văn đi sâu vào tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của nữ
nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê, qua đó khám phá những bí ẩn trong đời sống
tâm hồn, cuộc đời số phận của người phụ nữ thời hiện đại; những vấn đề của
xã hội thời chiến tranh, thời bao cấp, thời xóa bỏ bao cấp; cảm quan của
người phụ nữ về lịch sử, xã hội, con người; ý thức cái tôi nữ quyền; những


8

đóng góp của hai nữ nhà văn trong quá trình đổi mới ở thể loại tiểu thuyết đầu
thế kỷ XXI nói riêng, đổi mới văn học nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm các chương sau:
Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ
Chương 2: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH
BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
Chương 3: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH
BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT


9

NỘI DUNG
Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI
Từ sau năm 1986, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI, tiểu thuyết Việt Nam
đã có sự chuyển mình mạnh mẽ. Tiểu thuyết Việt Nam đã nhanh chóng

khoác lên mình một diện mạo mới, mới mẻ về tư duy sáng tác, cách nhìn, lối
viết. Và có lẽ, chưa bao giờ thể loại tiểu thuyết có lực lượng sáng tác đông
đảo như thế, chưa bao giờ có số lượng tác phẩm ra đời nhiều đến vậy. Đội
ngũ sáng tác tiểu thuyết cũng rất đa dạng. Có những nhà văn nam luôn xông
xáo, có những nhà văn nữ có sức viết dồi dào, có những nhà văn đã lớn tuổi
và có cả những nhà văn mới bước vào nghề. Có những tác phẩm vừa mới in
còn chưa ráo mực đã đạt giải thưởng cao, được công chúng đón nhận và yêu
mến; có những tác phẩm gây nên chú ý của dư luận, tạo nên những xôn xao,
bàn luận sôi nổi.
Là thể loại xuất hiện khá muộn ở Việt Nam, đến đầu thế kỷ XX văn học
nước ta mới có những tiểu thuyết với đầy đủ tính chất của thể loại hiện đại.
Trong những năm kháng chiến (1945 - 1975) tiểu thuyết bội thu về số lượng.
Tuy nhiên ở giai đoạn này, tiểu thuyết chỉ chủ yếu xoay quanh câu chuyện về
lịch sử, mang đậm tính sử thi và dựa trên mô thức trần thuật đại sự. Từ 1975
đến 1985, nhiều nhà văn đã tìm tòi lối đi cho tiểu thuyết, có nỗ lực đổi mới
tiểu thuyết. Một loạt những tác phẩm đã khởi động, tạo nền tảng cho sự vận
hành với tốc độ nhanh chóng cho giai đoạn sau này. Sau năm 1986, tiểu
thuyết có những bứt phá. Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) kêu gọi đổi
mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật đã tạo cơ sở tư tưởng cho xu hướng dân
chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa
đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời sống văn


10

học. Trên bình diện ý thức nghệ thuật đã có những biến đổi quan trọng theo
hướng dân chủ hóa của các quan niệm về vai trò, vị trí và chức năng của văn
học, của nhà văn và về hiện thực. Chính điều đó đã tạo một bầu không khí dân
chủ, tạo môi trường thuận lợi cho tiểu thuyết đổi mới và phát triển. Sang thế
kỷ XXI, trước yêu cầu khách quan cũng như sự vận động nội tại, đòi hỏi tiểu

thuyết Việt Nam cần có sự đổi mới. Những điều kiện thuận lợi có được từ
sau năm 1986 khiến đời sống xã hội, văn học tiếp tục thay đổi. Đặc biệt, xu
hướng toàn cầu hóa đã tách dần con người cá nhân khỏi cộng đồng, buộc cá
nhân phải trở thành những chủ thể độc lập. Sự bùng nổ công nghệ thông tin
làm cho con đường của tác phẩm đến với bạn đọc được rút ngắn. Sự phát triển
của thời đại công nghệ thông tin cũng làm thay đổi nhu cầu thị hiếu bạn đọc.
Và khi mạng xã hội phát triển nhanh chóng mọi khoảng cách giữa con người
với con người thực sự chỉ như những vách tường phiên liếp mỏng, con người
có nhu cầu được bộc lộ mình, muốn tìm hiểu khám phá cuộc sống, con người.
Điều đó khiến cả nhà văn lẫn bạn đọc đều có khao khát tìm tòi, khám phá, thể
hiện con người của mình, hiểu biết về cuộc sống xung quanh nhiều hơn;
muốn hiểu sâu hơn, biết rộng hơn về con người, cuộc đời. Khám phá, hiểu
biết về con người, về cuộc sống để hiểu chính mình. Chính điều đó đã trở
thành động lực thúc đẩy văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng đổi mới. Có
thể thấy rằng, sự thay đổi với tốc độ chóng mặt của thế kỷ XXI là thách thức
và cũng là động lực thúc đẩy tiểu thuyết cần có những đổi mới trên mọi
phương diện để đáp ứng nhu cầu của thời đại mới, để có thể có chỗ đứng trên
văn đàn và trong lòng độc giả.
1.1.1. Diện mạo chung
Bakhtin nhận định: “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang
biến chuyển và chưa định hình (…) Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa
hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển
chuyển của nó”. Bakhtin cũng cho rằng: “Đó là thể loại duy nhất nảy sinh


11

và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân
thuộc sâu sắc với thời đại ấy, trong khi đó thì các thể loại lớn khác chỉ
được thời đại mới kế thừa ở dạng đã hoàn tất (…) do đó nó phản ánh sâu

sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén hơn bản thân hiện thực. Chỉ kẻ biến đổi mới
hiểu được sự biến đổi”. Là thể loại năng động, cùng với những điều kiện
thuận lợi, tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI thực sự đang bước vào cao
trào đổi mới. Chỉ trong khoảng hai mươi, tiểu thuyết Việt Nam đã có
những vận động và biến đổi từ tư duy nghệ thuật đến hình thức, nội dung
và đạt được những thành tựu đáng kể.
Trước hết, đó là sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật. Theo quan niệm
truyền thống, tiểu thuyết là những tác phẩm tự sự được viết bằng văn xuôi,
phản ánh một cách đầy đủ và trung thực những trải nghiệm của con người
trong đời sống. Tiểu thuyết nhất thiết phải dựa vào cốt truyện, hấp dẫn người
đọc bằng nội dung câu chuyện kể, bằng những diễn biến đời sống của một
nhân vật mang tính cách giống họ hay khác họ. Câu chuyện và cách giải quyết
vấn đề mà tiểu thuyết đặt ra, dù thế nào cũng phải đi đến một kết thúc mà mọi
mâu thuẫn đều được giải quyết và trả người đọc trở về với trật tự cũ của đời
sống. Tính thẩm mỹ ở tiểu thuyết sẽ biểu hiện ở ngôn ngữ, ở sự hài hòa thống
nhất của tổng thể và các phân đoạn, sự liên kết chặt chẽ giữa các phần … làm
cho câu chuyện trôi chảy, mạch lạc, đưa người đọc vào cõi “hiện thực hư cấu”
của câu chuyện. Từ sau đổi mới (1986) và đặc biệt là đến thế kỷ XXI, quan
niệm ấy trong tiểu thuyết dần bị phá vỡ. Quan niệm về tự sự, quan niệm về
hiện thực của thể loại tiểu thuyết có sự thay đổi. Nhận thức rằng, hiện thực là
phong phú, phức tạp và không thể hoặc khó có thể “kể lại” được, tiểu thuyết
không chỉ thực hiện sứ mệnh phản ánh hiện thực xã hội, bởi vậy tiểu thuyết
thế kỷ XXI thay đổi cả về nội dung và cấu trúc thể loại.
Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết thế kỷ XXI là tiểu thuyết có sự mở rộng
biên độ và đa dạng hóa cái nhìn về thế giới và con người. Tiểu thuyết không


12

còn là tấm gương soi của thời đại, không nhất thiết phải là một hiện thực khả

tín. Hiện thực trong tiểu thuyết chỉ là một khả thể, thậm chí bất khả tín. Ở
góc độ chủ thể sáng tạo, tiểu thuyết không chỉ là tiếng nói của dân tộc, thời
đại mà quan trọng hơn còn là phát ngôn thể hiện tư tưởng quan niệm riêng
của người nghệ sĩ. Nhà văn có quyền đề xuất những chuẩn mực giá trị mới, có
quyền trình bày những kinh nghiệm cá nhân. Tiểu thuyết đương đại tái hiện
lịch sử theo nhãn quan người viết và miêu tả số phận con người. Nhà văn đặc
biệt quan tâm đến con người cô đơn, con người thân phận. Nhiều tiểu thuyết
đã khắc họa lịch sử của một dòng họ, một gia đình, một đời người gắn với
những biến động của lịch sử, thăng trầm của xã hội. Những vấn đề cũ như
chiến tranh, thời bao cấp vẫn tiếp tục được các nhà văn quan tâm, phản ánh
nhưng cái nhìn ít nhiều đã thay đổi. Tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI hình thành
các khuynh hướng: Tiểu thuyết tân lịch sử (sự phản tư lịch sử), tiểu thuyết
hiện sinh (sự phân rã những mảng hiện tồn), tiểu thuyết tính dục (sự phì đại
của dòng văn chương thân xác), tiểu thuyết nữ quyền (phụ nữ không phải là
“cái khác vắng mặt”)…
Một đặc điểm đáng chú ý ở tiểu thuyết thế kỷ XXI đó là sự đa dạng hóa
các loại hình tiểu thuyết. Có thể nhận thấy rõ, phần lớn tiểu thuyết viết theo
thi pháp truyền thống. Bên cạnh đó, bước đầu đã xuất hiện những tiểu thuyết
viết theo thi pháp hiện đại, có yếu tố hậu hiện đại. Ở những tiểu thuyết viết
theo thi pháp truyền thống, nhà văn vẫn viết bằng lối cũ nhưng đã có những
đổi mới trong nội dung tư tưởng. Có thể nhận thấy rõ ở những tiểu thuyết này,
sự mới mẻ trong cái nhìn nhiều chiều về cuộc sống. Các nhà văn đã phản ánh
chân thực cuộc sống, mạnh dạn đề cập đến những góc khuất, góc kín trong
đời sống tâm hồn con người. Ở lối viết này, nhiều nhà văn đã làm mới bằng
sử dụng yếu tố tự truyện vào tác phẩm. Yếu tố tự truyện được đưa vào tác
phẩm giúp nhà văn bộc lộ cách nhìn, cách cảm, cách phản ánh mới mẻ, sâu
sắc về hiện thực đời sống và con người. Từ đó dễ dàng đề cập đến những vấn


13


đề nhạy cảm, những góc khuất, góc kín trong cuộc sống và trong đời sống tâm
hồn con người. Tiêu biểu như: Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Một
mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Tiền
định của Đoàn Lê. Bên cạnh đó, một số nhà văn nỗ lực cho sự đổi mới thể
loại đã cho ra đời những tiểu thuyết viết theo thi pháp hiện đại, có yếu tố hậu
hiện đại. Với nghệ thuật trần thuật mới mẻ, với những yếu tố ảo hóa, những
vấn đề của cuộc sống và con người được đề cập trong một hình thức mới, lạ
hơn. Tiêu biểu cho lối viết này là tiểu thuyết: Chinantow, T.mất tích (Thuận),
Người sông mê (Châu Diên), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Thiên thần
sám hối (Tạ Duy Anh)…
Sự nhòe mờ ranh giới thể loại, sự xâm nhập của các thể loại khác vào
cấu trúc nội tại của tiểu thuyết cũng là một đặc điểm đáng ghi nhận của tiểu
thuyết thế kỷ XXI. Bản chất của thể loại tiểu thuyết là luôn linh hoạt, uyển
chuyển. Bakhtin đã nhận định: “Nòng cốt của thể loại tiểu thuyết chưa hề rắn
lại và chúng ta chưa thể đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”.
Những năm gần đây, tiểu thuyết Việt Nam có hiện tượng pha trộn với truyện
ngắn, kịch, tiểu luận triết học, thơ ca, nhật ký, báo chí, huyền thoại. Là một
thể loại có khả năng ôm chứa cả bề rộng lẫn bề sâu, tiểu thuyết vừa có khả
năng mở rộng không gian, thời gian, nhân vật, sự kiện, vừa có khả năng dồn
ép, thu hẹp những bức tranh đời sống thông qua mô hình gia đình riêng với
những cảnh ngộ riêng của vài nhân vật. Những năm đầu thế kỷ XXI, tiểu
thuyết Việt Nam có xu hướng thu gọn cái “thân xác bề thế” của nó, xuất hiện
nhiều tác phẩm có “kích thước nhỏ” phản ánh hiện thực rời rạc, phân mảnh.
Tiểu thuyết như một sự lắp ghép nhiều truyện ngắn. Dung lượng của tiểu
thuyết tương ứng giữa hình thức nghệ thuật với tinh thần của cái hiện thực mà
nó phản ánh.
Bên cạnh đó, hiện tượng liên văn bản xuất hiện một cách thường
xuyên, ở nhiều cấp độ và dạng thức khác nhau tạo kiểu kết cấu truyện lồng



14

truyện. Tiêu biểu như: Đi tìm nhân vật, Thoạt kỳ thủy, Paris 11 tháng 8,
Đức Phật, nàng Savitri và tôi… Hình thức văn bản trong văn bản góp
phần tạo nên những tiếng nói khác nhau, mở rộng trường nhìn, đa dạng hóa
cấu trúc tiểu thuyết.
Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã có những đổi mới tích cực. Có
được điều đó là nhờ những nỗ lực sáng tạo đầy tâm huyết của các nhà văn với
mong muốn đưa tiểu thuyết nói riêng, văn học Việt Nam phát triển trên đà hội
nhập với nền văn học thế giới. Trong khoảng hai mươi năm diện mạo tiểu
thuyết đã có những chuyển biến - đó là tín hiệu khởi sắc cho những hi vọng
về sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam.
1.1.2. Tiểu thuyết tự truyện
1.1.2.1. Khái niệm tự truyện
Thuật ngữ tự truyện có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp (auto: tự, bio: cuộc
sống, graphy: viết). Cho đến nay, có khá nhiều nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu
thuật ngữ tự truyện. Trong công trình nghiên cứu Quy ước tự truyện (1975),
Phillipe Lejeune định nghĩa : “ Tự truyện là một dạng văn xuôi tự sự do một
người có thật ngược dòng thời gian kể lại đời mình, nhấn mạnh tới cuộc sống
cá nhân, đặc biệt là lịch sử hình thành nhân cách”. Tuy nhiên, đến nay, thực
tiễn phát triển của thể loại tự truyện đã đi xa hơn rất nhiều so với định nghĩa
của Phillipe Lejeune.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân chủ biên) các
tác giả cho rằng: “Tự truyện là tác phẩm tự sự thường được viết bằng văn
xuôi trong đó tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [2]. Nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử thì cho rằng: “Trong tác phẩm tự sự, đời tư của nhà
văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng với những mục đích khác
nhau… tự truyện có thể bao quát hầu hết các phương diện của đời sống: đời
tư, thế sự, sử thi… ”[34]



15

Tự truyện đã trở thành là một dạng của thể loại văn học. Tuy xuất hiện
muộn nhưng đến nay tự truyện là sự lựa chọn của nhiều nhà văn và trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình.
Trong tác phẩm tự truyện, cốt truyện có mối liên quan chặt chẽ với chi
tiết tiểu sử, cuộc đời của nhà văn. Nhà văn sử dụng chất liệu đời tư để xây
dựng cốt truyện một cách có mục đích. Thực tế trong quá trình sáng tác ở
bất cứ thể loại nào, tác giả dù vô thức hay có ý thức bao giờ cũng sử dụng
những trải nghiệm từ cuộc sống của chính mình đưa vào tác phẩm. Nhưng, ở
tự truyện, yếu tố thực từ cuộc đời tác giả xuất hiện đậm đặc hơn, ít bị che
khuất hơn. Tự truyện kể về những điều xảy ra trong quá khứ, nhà văn ngược
dòng thời gian tìm về với thời thơ ấu, thời tuổi trẻ, thời đã đi qua của chính
mình, vì thế cái nhìn trong tự truyện là cái nhìn hồi cố, giọng văn mang tính
chiêm nghiệm.
So với các thể loại văn học tự viết về chính bản thân tác giả như: hồi ký,
nhật ký, tự truyện có nhiều điểm tương đồng với nhưng vẫn có những nét
khác biệt. Nhật ký ghi chép sự việc xảy ra theo thời gian tuyến tính và nhằm
mục đích giữ lại cho mình, mang tính chất riêng tư. Còn tự truyện và hồi ký
kể về những việc đã xảy ra (ngược chiều thời gian), hướng tới mục đích để
giãi bày, Khác với nhật ký, tự truyện giống với hồi ký ở chỗ cùng kể về
những việc đã xảy ra trong quá khứ. Về đối tượng trung tâm của tác phẩm,
hồi ký không nhất thiết phải kể về cái tôi mặc dù nhân vật “tôi” là người kể
chuyện. Qua lời kể của nhân vật “tôi”, hồi ký sẽ phác họa lại bức tranh thời
đại, xã hội, những mảnh đời, những con người có liên quan đến người kể xảy
ra trong quá khứ. Ở hồi ký, cái “tôi” chỉ đóng vai trò “chất dẫn” của mạch
cảm hứng, của mối quan hệ. Mục đích của hồi ký là cung cấp những tư liệu
của quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện để nói ra. Còn tự truyện, cốt

truyện xoay quanh câu chuyện về cuộc đời, đoạn đời của tác giả - người kể
chuyện - nhân vật “tôi”. Tác giả - người kể chuyện – nhân vật “tôi” tự kể về


16

chính cuộc đời mình: miêu tả quá trình hình thành nhân cách của cá nhân
trong tương quan với hoàn cảnh; tìm hiểu, lí giải cái “tôi”. Tâm điểm của tự
truyện là cái tôi cá nhân của người viết. Hồi ký tập trung đến việc ghi chép
chính xác các sự thật, không hư cấu còn tự truyện quan tâm đến nhiều hơn
đến giá trị nghệ thuật nên cho phép hư cấu.
Trong quá trình hình thành, phát triển, tự truyện có những sự biến đổi
nhất định. Đến nay, căn cứ vào hình thức biểu đạt chủ thể trong tự truyện, có
thể phân loại tự truyện thành hai nhóm: tự truyện thuần túy và tự truyện biến
thể (tự truyện có hiện tượng pha trộn với các hình thức khác như: tiểu thuyết,
hồi ký …).
1.1.2.2. Khái niệm tiểu thuyết tự truyện
Tiểu thuyết tự truyện xuất hiện khá sớm trong văn học phương Tây. Thế
kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, ở Tây Âu đã có những tác phẩm thể hiện rõ
chức năng của các tự truyện trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Các
tác phẩm là lời tự kể về cuộc đời của tác giả một cách trung thực, tự nhiên.
Nhân vật kể chuyện xưng “tôi”, có tham vọng ghi lại lịch sử tâm hồn “con
người bên trong”. Theo quan niệm truyền thống này, trên thế giới chỉ có
những tác phẩm kinh điển như David Copperfil của Ch. Dickens, hay bộ ba
tác phẩm Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi của M.
Gorki được viết theo đúng quy tắc. Sau này, quan niệm về tiểu thuyết tự
truyện có sự thay đổi, từ điển Wikipedia định nghĩa: “tiểu thuyết tự truyện là
dạng tiểu thuyết sử dụng kỹ thuật tự hư cấu (autofiction techniques) hay sự
kết hợp của tự thuật và những yếu tố hư cấu”. Về đặc điểm, tính chất của tiểu
thuyết là hư cấu, tính chất của tự truyện là sự thật. Sự giao thoa thể loại tất

yếu sẽ dẫn đến thể loại mới được hình thành sẽ mang những đặc điểm riêng.
Bởi vậy, tiểu thuyết tự truyện dần có những biến đổi so với khi mới xuất hiện
để phù hợp với chức năng của nó. Tiểu thuyết tự truyện về sau này không


17

nhất thiết là lời kể trung thực về cuộc đời tác giả mà có sự kết hợp giữa sự
thật và hư cấu. Những chi tiết của cuộc đời tác giả trở thành chất liệu sáng tác,
hư cấu nghệ thuật dựa trên nền tiểu sử của tác giả. Sự dung hòa đó, tạo cho
tiểu thuyết tự truyện có sức hấp dẫn đặc biệt. Công chúng đọc tiểu thuyết tự
truyện hẳn không chỉ bị hấp dẫn bởi câu chuyện tác giả viết mà còn bởi sự tò
mò, muốn khám phá những riêng tư của nhà văn qua tác phẩm. Bên cạnh đó,
tiểu thuyết tự truyện sẽ đem lại cho người đọc cảm giác tin tưởng vào câu
chuyện kể, suy nghĩ vấn đề đặt ra trong tác phẩm, về cách giải quyết vấn đề
của tác giả. Cũng từ đó, đọc tiểu thuyết tự truyện người đọc có thể sẽ đối
thoại về những điều được đề cập, cách giải quyết vấn đề trong tác phẩm.
Ở Việt Nam, tiểu thuyết có yếu tố tự truyện xuất hiện khá muộn. Sự
thay đổi của xã hội trong thế kỷ XXI trở thành tạo điều kiện thuận lợi để tiểu
thuyết tự truyện phát triển. Với sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và tư
tưởng cộng đồng, trong sáng tác, nhà văn Việt Nam thường kín đáo, ít lộ diện
cái tôi nên ít khi để lộ đời tư của mình trên trang viết. Chỉ khi cái tôi của nhà
văn được giải phóng, nhận thức về cái tôi trở thành khao khát của các nhà
văn, các tác giả mới mạnh dạn sử dụng chất liệu đời tư để kiến tạo tác phẩm.
Khi đó, tiểu thuyết tự truyện chính là thể loại được các tiểu thuyết gia lựa
chọn. Thế kỷ XXI, với một luồng tư tưởng mới, một không khí dân chủ thổi
bùng đam mê sáng tạo, ý thức cách tân nghệ thuật và tha thiết đóng góp cho
sự đổi mới tiểu thuyết Việt Nam, nhiều nhà văn, từ những cây bút lão làng,
cho đến những nhà văn trẻ mới bước vào nghề, tìm đến tự truyện như một
cách làm mới tiểu thuyết, tìm đến tự truyện như tìm đến một mảnh đất màu

mỡ thỏa sức cho sự sáng tạo. Tiểu thuyết có yếu tố tự truyện bắt đầu nở rộ và
hình thành một trào lưu văn học. Ở thế kỷ XXI, bước đi trên lối đi đã được
khai phá của tiểu thuyết tự truyện thế giới, tiểu thuyết có yếu tố tự truyện Việt
Nam đã nhanh chóng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, làm mới thể


18

loại bằng cái nhìn riêng, chất liệu đặc biệt đời tư của con người Việt Nam qua
bao thăng trầm, biến động của lịch sử ở thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
1.1.2.3. Sự bùng nổ của tiểu thuyết tự truyện đầu thế kỷ XXI
Chỉ trong khoảng hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, tiểu thuyết tự truyện
Việt Nam đã bội thu về số lượng. Rất nhiều tác phẩm ra đời và được công
chúng yêu thích quan tâm.
Những nhà văn lão làng như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Mạc Can
cho ra đời những cuốn tiểu thuyết tự truyện với những câu chuyện có bề dày
về thời gian, có chiều sâu về tư tưởng. Đó là những trải nghiệm của cả một
đời người. Vấn đề thế sự, đời tư được đề cập đến qua cái nhìn của những con
người từng trải, va vấp nhiều trong cuộc đời. Đi qua bao biến động, thăng
trầm của lịch sử, xã hội đến thế kỷ XXI - thế kỷ của hội nhập quốc tế, nhà văn
có khoảng cách nhất định để nhìn lại, để chiêm nghiệm, suy nghĩ. Họ lựa
chọn tiểu thuyết tự truyện hay cũng chính là tiểu thuyết tự truyện tự tìm đến
họ. Tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Thượng đế thì cười
của Nguyễn Khải, Mạc Can với Tấm ván phóng dao đã để lại những ấn
tượng sâu đậm với người đọc.
Những nhà văn trẻ Nguyễn Thế Hoàng Linh với Chuyện của các thiên
tài, Vũ Phương Nghi với Chuyện lan man đầu thế kỷ, Trần Thị Hồng Hạnh
với Bài học đầu tiên, Nguyễn Quỳnh Trang với 1981, Nhiều cách sống;
Đặng Thiều Quang với Chờ tuyết rơi, Bóng giai nhân … dù chưa từng trải,
chưa có nhiều vốn sống, tác phẩm chưa đi quá giới hạn cái tôi hạn hẹp, chưa

quan tâm đến vấn đề lịch sử trọng đại của xã hội nhưng họ đã thể hiện cái tôi
rõ nét khi viết về thế hệ họ và bản thân họ. Những sáng tác của các nhà tiểu
thuyết trẻ ở thể loại tiểu thuyết tự truyện đã góp thêm tiếng nói của thế hệ trẻ
vào tiểu thuyết Việt Nam đương đại.


19

Đặc biệt, sự xuất hiện tiểu thuyết tự truyện của các nhà văn nữ. Nhà văn
Việt Nam thường ít khi viết về mình, các nữ nhà văn lại càng kín đáo hơn.
Đến thế kỷ XXI, nhiều nhà văn nữ đã vượt qua những rào cản, tham gia sáng
tác ở thể loại này. Có những nhà văn nữ trẻ tuổi như Vũ Phương Nghi, Trần
Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Quỳnh Trang và có cả những nhà văn đã có tuổi như
Dạ Ngân, Đoàn Lê. Khi đến một thời điểm nhất định, khi cái tôi của người
phụ nữ đủ mạnh, họ sẽ đi vào những vùng đất nhiều sóng gió dư luận để được
bộc lộ, được giãi bày, được khám phá thế giới rộng lớn bên ngoài, khám phá
thế giới nội tâm con người. Từ góc nhìn của người phụ nữ, họ sẽ phơi trải, đề
cập đến vấn đề của người phụ nữ; bày tỏ mối quan tâm của mình trước vấn đề
của xã hội, lịch sử, thời đại. Họ đóng góp cho văn học nói chung, tiểu thuyết
tự truyện nói riêng tiếng nói nữ giới, một cái nhìn mới làm cho văn học, tiểu
thuyết tự truyện thêm nhiều màu sắc. Cùng với những sáng tác của những nhà
văn đã lên lão, cùng với những nhà văn trẻ nhiệt huyết, những nữ nhà văn đã
tạo nên một phong trào tiểu thuyết tự truyện thế kỷ XXI.
Không chỉ có đội ngũ sáng tác đông đảo, khoảng gần hai mươi năm trở
lại đây, tiểu thuyết tự truyện tăng nhanh về số lượng. Nhiều tác phẩm gây sự
chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu phê bình và bạn đọc. Nhiều tác phẩm
liên tục được tái bản, được dịch và xuất bản ở nước ngoài. Có thể thấy rằng,
tiểu thuyết tự truyện đã trở thành một mảnh đất giàu tiềm năng dành cho các
nhà văn thỏa sức sáng tạo. Đồng thời tiểu thuyết tự truyện cũng có sức hấp
dẫn đặc biệt với tâm lí, thị hiếu của bạn đọc thời nay.

1.2. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân, Đoàn Lê
1.2.1. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân
Dạ Ngân (còn có bút danh khác là Lê Long Mỹ, Dạ Hương) tên thật là
Lê Hồng Nga. Năm 14 tuổi, khi miền Nam đang đấu tranh chống Mỹ thống
nhất đất nước, Dạ Ngân vào cứ viết tin, làm báo. Bà yêu thích văn chương từ


20

đó khi còn rất trẻ. Vì nhiều nguyên do, năm 1978 bà thấy mình cần phải viết
và truyện đầu tay được in trên tạp chí Văn nghệ tỉnh, in vào số Tết. Sau khi có
truyện in báo, Dạ Ngân từ bộ phận làm tin thuộc Sở Văn hóa thông tin tỉnh
Hậu Giang chuyển sang Hội văn nghệ tỉnh. Từ đây, Dạ Ngân bước chân theo
nghiệp văn chương. Ba năm sau, truyện ngắn của bà lần đầu được in trên báo
Văn nghệ của Hội nhà văn. Tháng 4 năm 1982, bà được mời đi dự Trại sáng
tác của Hội ở Vũng Tàu. Năm 1985, truyện ngắn Con chó và vụ ly hôn ra đời
gây sự chú ý đặc biệt của dư luận. Năm 1987, Dạ Ngân được kết nạp Hội nhà
văn Việt Nam.
Niềm đam mê văn chương, sự thôi thúc nội tâm đã đưa Dạ Ngân đến với
văn chương. 40 năm cầm bút, Dạ Ngân miệt mài viết, bền bỉ sáng tạo. Sáng
tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện dài, tản văn, kì thư, tiểu thuyết
nhưng có thể thấy, bà thành công nhất ở hai thể loại: truyện ngắn và tiểu
thuyết. Đến nay, nhà văn cho ra đời hơn mười đầu sách, hàng trăm tản văn và
hàng nghìn kì thư.
Truyện ngắn:
- Quãng đời ấm áp - tập truyện - NXB Phụ Nữ 1986
- Con chó và vụ ly hôn - tập truyện - NXB Hội Nhà văn 1990
- Cõi nhà - tập truyện - NXB Thanh Niên 1993
- Dạ Ngân truyện ngắn chọn lọc - NXB Văn Học 1995
- Dạ Ngân & Nguyễn Quang Thân - tập truyện - NXB Phụ Nữ 1997

- Nhìn từ phía khác - tập truyện - NXB Hà Nội 2002
- Nước nguồn xuôi mãi - tập truyện - NXB Phụ nữ 2008
- Người yêu dấu và những truyện khác - tập truyện, tiểu thuyết - 2017


×