Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN của VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT về DOANH NGHIỆP ở nước CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.64 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VATHSANA LATHTANAPANH

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC CHDCND LÀO

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VÀ
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP .......................................................... 6
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN V Ề DOANH NGHIỆP .......... 6
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp ................................................................ 6
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp .................................................................. 9
1.1.2.1. Phương pháp phân loại doanh nghiệp ...................................... 9
1.1.2.2. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật ở các nước trên thế


giới ..................................................................................................... 11
1.1.2.3. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành của nước
CHDCND Lào.................................................................................... 12
1.2. PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP .................................................. 16
1.2.1. Quan niệm về pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp ........................................................................................ 16
1.2.2. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ............................................ 19
1.2.2.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp ........ 19
1.2.2.2. Cấu trúc bên trong của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về doanh nghiệp ................................................................................. 20
1.2.2.3. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường................................................................................................. 23
1.2.3. Những yếu tố chi phối pháp luật về doanh nghiệp........................ 26
1.2.3.1. Cơ chế quản lý kinh tế ........................................................... 26
1.2.3.2. Trình độ phát triển của thị trường .......................................... 27
1.2.3.3. Truyền thống văn hóa kinh doanh. ......................................... 28
1.3. CẤU TRÚC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH

NGHIỆP

CHDCND LÀO ........................................................................................ 29


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP Ở
NƯỚC CH DCND LÀO ............................................................................. 32
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
CHDCND LÀO ........................................................................................ 32
2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI Ở CHDCND LÀO ..................................................... 35
2.3. THỰC T RẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY Ở NƯỚC CHDCND

LÀO .......................................................................................................... 39
2.4. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ
HỘ KINH DOANH CÁ THỂ Ở NƯỚC CHDCND LÀO .......................... 42
2.5. NHỮNG ƯU ĐIỂM, THÀNH CÔNG VÀ KHIẾM KHUYẾT, BẤT
CẬP CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC
CHDCND LÀO ........................................................................................ 43
2.5.1. Những ưu điểm và thành công của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ở
nước CHDCND Lào .............................................................................. 43
2.5.2. Những nhược điểm, bất cập của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ở
nước CHDCND Lào .............................................................................. 47
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC CHDCND LÀO ........................ 51
3.1. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CỦA CHĐCN LÀO VỀ DOANH NGHIỆP .............................................. 51
3.1.1. Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phải tiếp tục thể chế hoá
đường lối, chính sách của Đảng NDCM Lào về doanh nghiệp............... 51
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phải căn cứ vào những đặc
điểm của nền kinh tế thị trường ở nước CHDCND Lào ......................... 53
3.1.3. Pháp luật về doanh nghiệp phải phù hợp với đặc điểm văn hóa kinh
doanh của người Lào ............................................................................. 54
3.1.4. Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cần được đặt trong giải
pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế của Lào ............................... 55


3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỦA NƯỚC
CHDCND LÀO VỀ DOANH NGHIỆP ...................................................... 55
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CỦA NƯỚC CHDCND LÀO VỀ DOANH NGHIỆP ................................ 57
3.3.1. Về cấu trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp .......................... 57
3.3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp nhà nước .... 61

3.3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ............................................................................................. 62
3.3.4. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty ............................. 63
3.3.5. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân và hộ
kinh doanh cá thể ................................................................................... 63
KẾT LUẬN.................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................67


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh doanh và bình đẳng
trước pháp luật. Quyền tự do kinh doanh và bình đẳng của các doanh
nghiệp chỉ thực sự được bảo đảm trên cơ sở hệ thống pháp luật ngày càng
được hoàn thiện, mà trước hết là hệ thống pháp luật về tổ chức doanh
nghiệp.
Trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới cơ chế kinh tế ở Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào, pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về các
hình thức tổ chức kinh doanh nói riêng, được xây dựng trên nền tảng những
đặc thù về chính trị, kinh tế - xã hội, có tính chất giải pháp tình thế, nhằm
giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn kinh doanh đặt ra.
Với quan điểm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, theo
định hướng XHCN, những năm gần đây, Nhà nước Lào rất quan tâm xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Những vấn đề pháp lý về tổ
chức doanh nghiệp được quy định trong nhiều văn bản khác nhau. Nội
dung của các VBPL này bên cạnh những thành công nhất định, còn bộc lộ
nhiều bất cập cả về nội dung pháp lý và kỹ thuật lập pháp. Tính phức tạp,

mâu thuẫn, chống chéo là những biểu hiện không hiếm thấy trong pháp luật
hiện hành về doanh nghiệp. Thực tế này là nguyên nhân không nhỏ dẫn đến
việc kìm hãm sự phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra
sự phân bổ các nguồn lực không hợp lý, tác động tiêu cực đến sản xuất,
kinh doanh và tính công bằng trong môi trường kinh doanh.
Năm 1986, tại Đại hội lần thứ IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã
đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện đường lối đổi mới,
Nhà nước CHDCND Lào đã ban hành nhiều VBPL nhằm khuyến khích


2

phát triển kinh tế, phát huy nội lực, thu hẹp dần khoảng cách giữa Lào với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hoàn thiện pháp luật là mục tiêu lý tưởng nhằm đạt được một hệ
thống pháp luật phù hợp với thực tiễn các quan hệ xã hội, đáp ứng được
những đòi hỏi của xã hội. Vì vậy, vấn đề hoàn thiện pháp luật luôn luôn
được đặt ra với tính chất là một quá trình. Vấn đề hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào cũng là một quá trình đã và đang diễn
ra dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định.
Để góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở
CHDCND Lào, tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào” làm
đề tài cho luận văn tốt nghiệp cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về doanh nghiệp là một nội dung quan trọng của pháp luật
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, đang được nhiều nhà khoa học thuộc
các lĩnh vực khác nhau quan tâm nghiên cứu. Ở các phạm vi và mức độ khác
nhau, có một số công trình đã được công bố, đề cập đến một số khía cạnh của

pháp luật về doanh nghiệp như: “Luận án tiến sĩ Luật học của nghiên cứu sinh
Xổm Xay Xỉ Hà Chắc về Hoàn thiện pháp luật kinh tế trong quá trình đổi
mới quản lý kinh tế của Lào (2001); Luận văn thạc sĩ của Souliya
Pouangpadith về Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại CHDCND Lào (2007); Luận văn thạc sĩ của Bounthavy Insomedy
về Pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại CHDCND Lào – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện (2007)”.
Cho đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu chuyên biệt vấn đề về cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước
CHDCND Lào.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài


3

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nêu ra những quan điểm,
phương hướng và những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp ở nước CHDCND Lào.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đề ra và thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về doanh nghiệp và
pháp luật về doanh nghiệp.
- Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật về doanh nghiệp;
đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của pháp luật hiện hành về doanh
nghiệp của nước CHDCND Lào.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm, tư tưởng luật học về
doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp: Các VBPL thực định của nước
CHDCND Lào; Pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế về doanh nghiệp;
Thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND

Lào.
Pháp luật về doanh nghiệp là một lĩnh vực pháp luật có nội dung
rộng và phức tạp. Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong
pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, đặc biệt là những nội dung có nhiều
điểm bất cập, không đảm bảo tính thống nhất của pháp luật về doanh
nghiêp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài không bao gồm những vấn đề của hợp
tác xã và pháp luật về hợp tác xã. Mặc dù thực tiễn điều chỉnh pháp luật đối
với hợp tác xã luôn gắn liền với hệ thống pháp luật về chủ thể kinh doanh,
song hợp tác xã không thể hiện đẩy đủ bản chất của hình thức tổ chức kinh
doanh theo đúng ý nghĩa đích thực của khái niệm pháp lý này. Lý luận và
kinh nghiệm quốc tế về hợp tác xã cho thấy, hợp tác xã theo quan điểm phổ
biến trên thế giới được hiểu là một thiết chế kinh tế - xã hội, với những đặc


4

điểm đặc thù, không hoàn toàn mang bản chất của doanh nghiệp kinh
doanh thuần túy, thể hiện cơ bản ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng của phương pháp luận biện
chứng
duy vật, trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Ngoài ra, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học
cụ thể khác nhau, như: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích,
phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đổi chiếu, phương pháp kết
hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn…
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Luận văn xây dựng quan điểm pháp lý tiến bộ và hiện đại về chức

năng, vai trò và đặc điểm của pháp luật về doanh nghiệp; xác định rõ vị trí
và sự gắn bó chặt chẽ của pháp luật về doanh nghiệp với các lĩnh vực khác
của hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong mối liên hệ với pháp luật dân sự.
- Chỉ rõ những bất cập, đặc biệt là những nội dung lạc hậu, những
mâu thuẫn nội tại của pháp luật hiện hành về doanh nghiệp, đang ảnh
hưởng xấu đến quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh, làm giảm hiệu
quả tổ chức, vận hành doanh nghiệp của các nhà đầu tư.
- Để xuất quan điểm tiến bộ và hiện đại về tiêu chí xác định hình
thức pháp lý doanh nghiệp.
- Để xuất giải pháp cấu trúc lại hệ thống pháp luật về doanh nghiệp
đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật này, phù hợp với quan
điểm xây dựng nền kinh tế thị trường.
- Kiến nghị giải pháp sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về tổ chức
các loại hình doanh nghiệp phổ biến và điển hình trong cơ chế thị trường,
nhằm tạo sự rõ ràng, minh bạch của pháp luật về doanh nghiệp, đảm bảo


5

cho các nhà đầu tư tổ chức vận hành hoạt động kinh doanh một cách hiệu
quả, tự do và bình đẳng.
Những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
được đề xuất trong luận văn có khả năng ứng dụng ngay để thiết lập sự
thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp cả về nội dung và hình thức,
khắc phục sự mâu thuẫn nội tại của pháp luật về doanh nghiệp đã tồn tại ở
nước CHDCND Lào trong nhiều năm qua.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp và pháp luật về

doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND
Lào.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào.


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP

1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Với tính chất là một thực thể kinh tế - xã hội, doanh nghiệp là một
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó có khoa học
pháp lý. Ở Lào, pháp luật hiện hành sử dụng khái niệm doanh ngiệp để chỉ
các chủ thể kinh doanh chủ yếu trong nền kinh tế. Tuy vậy, từ trước đến
nay, những vấn đề lý luận về doanh nghiệp ít được đề cập dưới giác độ của
khoa học pháp lý. Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất, kinh doanh được
tổ chức, nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên
thị trường, thông qua đó tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp
của nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Với quan điểm
này, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung không bao
hàm các yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
 Khái niệm doanh nghiệp dưới góc độ kinh tế - xã hội
Từ góc độ kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp được coi là thành tố cơ
bản của hệ thống kinh tế - xã hội. Bản chất của doanh nghiệp là những thực
thể xã hội, sinh ra với chức năng chủ yếu là hoạt động kinh doanh. Doanh

nghiệp được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như: Cơ sở vật chất
(vốn, tài sản), bộ máy quản lý điều hành, người lao động...
Sự hình thành các doanh nghiệp là hệ quả tất yếu của sự phát triển
hoạt động kinh doanh, kinh doanh là tổ chức việc sản xuất, buôn bán, dịch
vụ nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động kinh doanh tồn tại với tính chất nghề
nghiệp là cơ sở kinh tế xã hội. Kinh doanh là hoạt động mang tính nghề
nghiệp, điều đó có nghĩa là trong xã hội có những người, nhóm người, tổ
chức mà nghề nghiệp chính của họ là kinh doanh, sống bằng nghề kinh


7

doanh. Thực tiễn đã chứng minh, kinh doanh với tính chất là một nghề
nghiệp chỉ ra đời và phát triển khi phân công lao động trong xã hội đã phát
triển đến một trình độ nhất định và hình thành nền sản xuất hàng hoá.
 Khái niệm doanh nghiệp dưới góc độ pháp lý
Từ góc độ pháp lý, doanh nghiệp được hiểu là một loại chủ thể pháp
luật (có tư cách chủ thể pháp lý độc lập) và có nghề nghiệp kinh doanh.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp trở thành đối tượng trung
tâm chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật kinh doanh. Điều này phần
nào lý giải một thực tế là khái niệm doanh nghiệp xuất hiện trong khoa học
pháp lý cũng như luật thực định đã từ lâu, nhưng khái niệm này chỉ được sử
dụng một cách phổ biến trong bối cảnh kinh tế thị trường. Trong cơ chế
kinh tế thị trường, doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một loại chủ thể pháp luật. Trong điều
kiện kinh tế thị trường, với việc thừa nhận quyền tự do kinh doanh, tất yếu
có sự tham gia vào hoạt động kinh doanh (hành nghề kinh doanh) của các
cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế và hình thức sở hữu khác
nhau. Khái niệm doanh nghiệp trong luật pháp có ý nghĩa là danh tính pháp
lý chỉ những chủ thế hành nghề kinh doanh để phân biệt với những chủ thể

không có nghề nghiệp này. Với tư cách là một loại chủ thể pháp luật, doanh
nghiệp có năng lực chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật, trong đó trước
hết và chủ yếu là các quan hệ kinh doanh. Tư cách chủ thể pháp luật của
doanh nghiệp có thể là tư cách cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp cá
nhân, năng lực chủ thể pháp luật của doanh nghiệp chính là năng lực của
chủ thể pháp luật của cá nhân trong việc tham gia các quan hệ kinh doanh
theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp doanh nghiệp là một tổ
chức, năng lực chủ thể của doanh nghiệp được phân biệt với năng lực chủ
thể của những người (tổ chức hoặc cá nhân) đã tạo ra nó. Ngoại trừ trường
hợp doanh nghiệp cá nhân, doanh nghiệp tồn tại với tư cách pháp lý (tương
đối) với chủ sở hữu của nó. Thực tiễn pháp luật kinh doanh trên thế giới


8

cũng như ở nước CHDCND Lào đã ghi nhận những doanh nghiệp không
phải là pháp nhân và cũng không phải là cá nhân (công ty hơp doanh).
Thứ hai, doanh nghiệp được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh
doanh) theo thủ tục do pháp luật quy định. Việc thành lập và đăng ký kinh
doanh là cơ sở để xác định tính chất chủ thể pháp lý độc lập của doanh
nghiệp, gắn với những đặc điểm của hoạt động kinh doanh. Thủ tục xác lập tư
cách pháp lý cho doanh nghiệp có sự khác nhau giữa các loại hình doanh
nghiệp, phù hợp với những đặc điểm về mặt tổ chức của từng loại hình doanh
nghiệp. Ngoài ra, về phương diện chủ quan, thủ tục thành lập và đăng ký kinh
doanh được quy định cho các doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào quan
điểm của các quốc gia trong việc sử dụng quyền lực nhà nước để can thiệp
vào thị trường. Tuy vậy, xuất phát từ yêu cầu của tự do kinh doanh, xu hướng
phổ biến hiện nay trên thế giới là thủ tục xác lập tư cách pháp lý cho doanh
nghiệp ngày càng được đơn giản hoá nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư.

Thứ ba, doanh nghiệp có nghề nghiệp kinh doanh. Đặc điểm này
biểu hiện ở chỗ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện có
hệ thống, một cách độc lập, trên danh nghĩa và trách nhệm của doanh
nghiệp, với mục đích sinh lợi và trong điều kiện do pháp luật quy định.
Tính chất có hệ thống của hoạt động kinh doanh có thể hiểu theo ý nghĩa
thông thường của nó, tức là hoạt động kinh doanh có khuynh hướng lâu
dài, không gián đoạn trong một thời gian nhất định và tiềm ẩn khả năng tái
diễn thường kỳ.
Ngoài ra, bản thân nghề nghiệp kinh doanh đã quy định mục đích thu
lợi nhuận trong các hoạt động của doanh nghiệp. Khi xác định mục đích lợi
nhuận trong hoạt động của doanh nghiệp, cần hiểu là, “ý định” thu lợi của
doanh nghiệp mới là tiêu chí quyết định, chứ việc đạt được lợi nhuận hay
không cũng như việc sử dụng lợi nhuận đạt được cho mục đích gì không
phải là dấu hiệu quyết định. Hoạt động chính của tổ chức không phải là


9

hoạt động kinh doanh, vì vậy, tổ chức không thể được xem là một doanh
nghiệp, cho dù doanh số mà tổ chức đó thu được có thể là rất lớn. Cơ sở để
phân định mục đích lợi nhuận không phải là xem doanh nghiệp đạt được lợi
nhuận hay không mà phải xem xét tính chất của hoạt động để sinh lợi.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
1.1.2.1. Phương pháp phân loại doanh nghiệp
Việc phân loại doanh nghiệp nhằm các mục đích khác nhau và được
dựa trên các tiêu chí khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu và lập pháp, việc
phân loại doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng cho việc lựa chọn cơ chế
điều chỉnh pháp luật thích hợp đối với doanh nghiệp, cả về quản lý nhà
nước và quản trị doanh nghiệp. Phương pháp phân loại doanh nghiệp cũng
có ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc của hệ thống pháp luật doanh nghiệp.

Lý luận và thực tiễn đã biết đến các cách phân loại doanh nghiệp phổ biến
sau đây.
Thứ nhất, phân loại doanh nghiệp căn cứ vào tính chất sở hữu và mục
đích hoạt động của doanh nghiệp. Theo tiêu chí này, doanh nghiệp được chia
thành doanh nghiệp tư và doanh nghiệp công. Doanh nghiệp tư có bản chất
kinh doanh thuần túy, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận và lấy lợi
nhuận là cơ sở để tồn tại và phát triển. Các doanh nghiệp tư thường được
hình thành từ sở hữu tư nhân hoặc đa sở hữu. Doanh nghiệp công được
thành lập với sự can thiệp và chi phối của nhà nước trong chiến lược và mục
tiêu hoạt động (thông qua nắm giữ một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của
doanh nghiệp). Với cách phân loại này, doanh nghiệp được phân chia thành
các loại chủ yếu như: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp tập thể….
Thứ hai, phân loại doanh nghiệp theo cơ cấu nhà đầu tư và phương
thức góp vốn vào doanh nghiệp. Theo cách phân loại này, doanh nghiệp
được chia thành: doanh nghiệp một chủ sở hữu và doanh nghiệp nhiều chủ
sở hữu. Chủ sở hữu của doanh nghiệp một chủ có thể là cá nhân hoặc tổ


10

chức. Theo pháp luật hiện hành của CHDCND Lào, các doanh nghiệp một
chủ sở hữu bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân cá thể,
Doanh nghiệp nhà nước, công ty nhà nước, công ty TNHH nhà nước một
thành viên, công ty TNHH một thành viên. Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu
là doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở sự liên kết của nhà đầu tư (do
nhiều nhà đầu tư góp vốn thành lập). Những doanh nghiệp nhiều chủ sở
hữu thông thường được gọi là công ty. Căn cứ vào tính chất của sự liên kết
giữa các nhà đầu tư trong doanh nghiệp, doanh nghiệp nhiều chủ lại được
chia thành: Doanh nghiệp hỗn hợp, hợp danh, hợp danh hữu hạn (pháp luật

nhiều nước gọi là công ty hợp danh và công ty hợp danh hữu hạn), công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Về bản chất, công ty nói chung (theo
đúng ý nghĩa đích thực của nó) là một hình thức liên kết giữa các nhà đầu
tư trong xã hội. Tuy nhiên, khác với những liên kết kinh tế thông thường,
sự liên kết trong trừơng hợp công ty bao giờ cũng tạo ra một tư cách chủ
thể pháp luật mới.
Thứ ba, phân loại doanh nghiệp theo tư cách pháp lý của doanh
nghiệp. Với cách phân loại này, doanh nghiệp được phân chia thành: doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân và doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân.
Pháp nhân là một khái niệm kinh điển trong khoa học pháp lý cũng như
luật pháp. Thực tiễn pháp lý ở CHDCND Lào đã đề cập đến những doanh
nghiệp không phải là cá nhân mà cũng không phải là pháp nhân (công ty
hợp danh, hộ kinh doanh cá thể).
Thứ tư, phân loại doanh nghiệp theo chế độ trách nhiệm tài sản. Đây
là phương pháp phân loại doanh nghiệp dựa trên mức độ chịu trách nhiệm
tài sản trong hoạt động kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp. Thực tiễn
pháp lý đã biết đến hai loại chế độ trách nhiệm tài sản áp dụng cho các chủ
sở hữu doanh nghiệp là chế độ trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm
hữu hạn.


11

1.1.2.2. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật ở các nước trên thế
giới
Sự phong phú, đa dạng của các hình thức tổ chức kinh doanh luôn có xu
hướng vượt ra khỏi tầm bao quát của các nhà nghiên cứu cũng như các nhà
lập pháp. Doanh nghiệp của các nước trên thế giới được tổ chức theo rất nhiều
hình thức pháp lý khác nhau, mà về lý luận khó có thể tổng kết thành quan
điểm phổ quát. Điều này xuất phát từ thực tế là các nhà kinh doanh đã tạo ra

muôn vàn hình thức tổ chức doanh nghiệp để thích ứng với hoạt động kinh
doanh của họ.
 Các loại hình doanh nghiệp theo hệ thống luật án lệ (Thông pháp)
Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật của các nước thuộc hệ
thống Thông pháp được quy định rất phong phú, đa dạng và có những điểm
khác nhau nhất định ở từng nước. Tuy nhiên, ở mức độ tổng quát, có thể
nhận thấy, các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ phân chia doanh nghiệp
thành 2 nhóm chủ yếu là: hãng kinh doanh, và công ty.
Hãng kinh doanh: Hãng kinh doanh được chia thành hai loại chủ yếu là
doanh nghiệp cá nhân (Sole Priopretorship) và hợp danh (Partnership). Hãng
kinh doanh theo pháp luật Anh - Mỹ đều chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản
trong kinh doanh và không có tư cách pháp nhân. Doanh nghiệp cá nhân thực
chất là một cá nhân thực hiện nghề nghiệp kinh doanh. Ở hình thức doanh
nghiệp cá nhân, lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp được cộng vào thu nhập
cá nhân của chủ doanh nghiệp từ các nguồn khác để tính thuế thu nhập cá
nhân, mọi chi phí kinh doanh của doanh nghiệp do cá nhân chủ doanh nghiệp
thông qua và được trừ vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân của chủ doanh
nghiệp.
Hợp danh là một dạng liên kết kinh tế có tính chất đối nhân giữa các
nhà đầu tư. Hợp danh được phân biệt với công ty trên cả phương diện lý
luận cũng như cơ chế điều chỉnh pháp luật. Những quy định về hợp danh
được pháp điển hoá trong Luật Hợp danh (1890) của Vương quốc Anh


12

được dựa trên cơ sở luật về đại diện (Agency). Theo đó, mỗi thành viên trở
thành đại diện của các thành viên khác (Điều 5 Luật Hợp danh 1890). Vì
vậy, nó tạo ra một khung pháp lý phù hợp với sự hợp tác của một số ít
người với sự tin tưởng và tín nhiệm lẫn nhau.

1.1.2.3. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành của nước
CHDCND Lào
Doanh nghiệp ở CHDCND Lào được tổ chức theo nhiều loại hình
khác nhau. Mỗi loại hình doanh nghiệp có đặc trưng và từ đó tạo nên
những hạn chế hay lợi thế của doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt
tạo ra bởi loại hình doanh nghiệp là: uy tín doanh nghiệp, thói quen tiêu
dùng, khả năng huy động vốn; rủi ro đầu tư; tính phức tạp của thủ tục và
các chi phí thành lập doanh nghiệp; tổ chức quản lý doanh nghiệp. Do đó,
khi cá nhân, tổ chức muốn thành lập doanh nghiệp thì việc lựa chọn loại
hình doanh nghiệp phù hợp là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ
tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp tư nhân: Theo điều 27 của Luật Doanh nghiệp định
nghĩa:
“Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và
tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân”.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật; có toàn quyền
quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; quyết
định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ
tài chính khác theo quy định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có
thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh
doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý thì chủ doanh


13

nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh

[10].
Điều 27 của Luật Doanh nghiệp được quy định việc xin giấp phép tổ
chức thành lập doanh nghiệp. Cách hiểu về doanh nghiệp tư nhân theo pháp
luật hiện hành là phù hợp với quan điểm của đa số các nước về cá nhân
kinh doanh hay doanh nghiệp cá nhân. Điều 28 quy định quyền và nghĩa vụ
của chủ doanh nghiệp, Điều 29 quy định quản lý doanh nghiệp tư nhân có
thể là chủ doanh nghiệp tư quản lý hay có thể thuê người khác làm giám
đốc quản lý thay mình. Cá nhân kinh doanh khác doanh nghiệp tư nhân ở
chỗ cá nhân kinh doanh chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sự
khác nhau giữa cá nhân kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân theo pháp luật
hiện hành không chỉ dừng lại ở định nghĩa pháp lý, mà thực chất có một sự
phân biệt của pháp luật về tổ chức và hoạt động của hai loại chủ thể này.
Công ty: Điều 78 của Luật Doanh nghiệp quy định ý nghĩa và địa vị
của thành viên trong công ty TNHH là người góp vốn hay người đầu tư
trong công ty TNHH, việc mua cổ phần trong công ty là sư tập hợp vốn và
đầu tư của người đầu tư gần giống với việc gửi tiền tiết kiệm vào ngân
hàng mà người gửi không tham gia việc quản trị ngân hàng, nhưng được
nhận lãi suất tiền gửi. Sự ra đời của công ty gắn chặt với sự ra đời và phát
triển của nền kinh tế thị trường.
Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Công ty hợp danh (Partnership): Công ty hợp danh là một loại hình
công ty trong đó các thành viên chia sẻ lợi nhuận cũng như thua lỗ của
công ty mà họ cùng nhau vào. Tại hầu hết các nước, công ty hợp danh được
tạo nên từ một hợp đồng hợp tác giữa các cá nhân, những người với tinh
thần hợp tác, đồng ý thành lập nên doanh nghiệp, đóng góp tài sản cho nó
hoạt động và cùng chia sẻ lợi nhuận. Giữa các thành viên có thể có một hợp
đồng hợp tác hoặc một bản tuyên bố hợp tác. Trong một số hệ thống luật
pháp, những thỏa thuận như vậy có thể được đăng ký và công bố rộng rãi



14

cho công chúng biết. Ở nhiều nước, công ty hợp danh có thể được coi là có
tư cách pháp nhân, trong khi một số nước khác lại có quan điểm trái ngược.
Công ty hợp danh thường có lợi thế hơn so với các loại hình công ty
khác vì nó không phải đóng thuế trên số lợi nhuận thu được, hay nói cách
khác tránh được việc bị đánh thuế hai lần.
Hình thức cơ bản nhất của công ty hợp danh là công ty hợp danh trách
nhiệm chung (GP) trong đó mọi thành viên đều tham gia vào điều hành
kinh doanh và đều chịu trách nhiệm cá nhân về các khoản nợ của công ty.
Hai hình thức khác cũng khá phát triển ở hầu hết các nước là Công ty hợp
danh hữu hạn (LP) và Công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn (LLP), Trong
công ty hợp danh hữu hạn, ngoài các thành viên quản trị còn có các "thành
viên trách nhiệm hữu hạn", những người này từ bỏ quyền điều hành doanh
nghiệp để đổi lấy "trách nhiệm hữu hạn" đối với các khoản nợ của công ty.
Còn với Công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn (LLP), tất cả các thành
viên đều có trách nhiệm hữu hạn trong một mức độ nhất định.
C. Doanh nghiệp có vốn hỗn hợp và doanh nghiệp có vốn ĐTNN: Về
bản chất, doanh nghiệp cố vốn ĐTNN là các công ty, tuy nhiên quy chế pháp
lý cho các doanh nghiệp này không giống như các công ty có vốn đầu tư trong
nước. Nhiều ràng buộc pháp lý được đặt ra đối với các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN thể hiện ở một số vấn đề chủ yếu như: cấu trúc vốn, tổ chức quản lý
nội bộ doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước trong nhiều trường hợp gây bất
lợi cho các nhà ĐTNN, và mặt khác không phù hợp với đòi hỏi của nhiều hiệp
định quốc tế đầu tư khác mà Lào ký kết hoặc tham gia. Một số doanh nghiệp
có vốn ĐTNN, khi đáp ứng những điều kiện nhất định, có thể được chuyển
sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Đây là một điều chỉnh đáng kể
của Nhà nước Lào về vấn đề tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN trong thời gian qua. Công ty hỗn hợp là công ty mà bên Nhà nước liên
doanh với các bên khác trong nước hay nước ngoài thành để thành lập.



15

d. Doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước có lịch sử tồn tại
khá lâu đời và hiện đang giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế theo quan
điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước CHDCND
Lào. Trải qua quá trình phát triển, trong từng giai đoạn khác nhau, quan
điểm pháp lý về doanh nghiệp nhà nước cũng có những thay đổi nhất định
trước đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức
kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp
chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp nhà nước còn bao gồm cả
những tổ chức kinh tế hoạt động công ích của Nhà nước. Doanh nghiệp nhà
nước theo cách hiểu này đã được điều chỉnh bởi pháp luật có sự khác biệt
rõ rệt với các loại hình doanh nghiệp khác cả về tổ chức và hoạt động.
Khái niệm công ty nhà nước được quy định tại khoản 1 Điều 191 Luật
Doanh nghiệp: Công ty nhà nước được thành lập bởi 100 % vốn của Nhà
nước và có thể bán một số cổ phần của mình cho cổ đông khác sau khi Nhà
nước đã cho phép đăng ký kinh doanh, mà cao nhất không quá 50% số cổ
phần. Công ty nhà nước được thành lập chủ yếu ở những ngành, lĩnh vực
cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội; ứng dụng công nghệ cao,
tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành và toàn bộ nền kinh tế; Đòi hỏi
đầu tư lớn, có lợi thế cạnh tranh cao hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Công ty nhà nước có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, công ty được tiếp nhận vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hoặc huy
động vốn để đầu tư, hoạt động kinh doanh.

Công ty nhà nước được tổ chức quản lý theo mô hình có hoặc không
có Hội đồng quản trị. Các tổng công ty nhà nước sau đây có Hội đồng quản
trị: (i) Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; (ii) Tổng


16

công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước; (iii) Công ty nhà nước độc lập
có quy mô vốn lớn, giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
1.2. Pháp luật về doanh nghiệp
1.2.1. Quan niệm về pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp
Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp với tính chất là các thực thể
kinh tế - xã hội là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của pháp luật
về doanh nghiệp. Pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành quan
trọng của hệ thống pháp luật kinh doanh. Trên bình diện nghiên cứu, pháp
luật về doanh nghiệp là một nội dung rất cơ bản trong chương trình nghiên
cứu và giảng dạy pháp luật. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định
nghĩa thống nhất về bộ phận pháp luật này. Từ góc độ lý luận, có thể tiếp
cận khái niệm pháp luật về doanh nghiệp theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp
là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp. Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp là một quá trình
phức tạp, có thể nảy sinh nhiều quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực khác
nhau. Trên thực tế, khó có thể liệt kê đẩy đủ những quan hệ xã hội cụ thể
phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Các quan
hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp trải
rộng trên nhiều giai đoạn, nhiều lĩnh vực của quá trình tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp. Khi thành lập doanh nghiệp, nhà đầu tư phải thực
hiện thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Việc đăng ký

kinh doanh làm phát sinh quan hệ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Sau khi được “khai sinh”, doanh nghiệp có tư cách là một loại chủ thể pháp
luật. Doanh nghiệp còn là đối tượng thuộc quyền sở hữu của những người
đã thành lập ra nó.
Với đối tượng điều chỉnh như vậy, pháp luật về doanh nghiệp, theo
nghĩa rộng, có thể được định nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà


17

nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Từ quan điểm
truyền thống của lý luận pháp luật ở Lào, thì pháp luật về doanh nghiệp là
một lĩnh vực pháp luật bao gồm các quy phạm, các chế định được quy định
trong các VBPL thuộc nhiều ngành luật khác nhau ( như Luật Hiến pháp,
Luật Hành chính, luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Lao động, Luật Đất
đai, Luật Tài chính, Luật Hình sự, Luật Môi trường…), điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp.
Theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp
là các quan hệ pháp luật về tổ chức doanh nghiệp. Căn cứ vào quá trình tồn
tại của doanh nghiệp, có thể xác định pháp luật về doanh nghiệp điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong các giai đoạn sau:
Gia nhập thị trường: Khái niệm gia nhập thị trường được hiểu dưới
góc độ pháp lý với nội dung cơ bản là thành lập doanh nghiệp và đăng
ký kinh doanh.
Quản trị doanh nghiệp: Quản trị doanh nghiệp thường được tiếp cận
dưới góc độ của khoa học quản lý và hiện đang có nhiều cách hiểu khác
nhau. Định nghĩa chính thức của tổ chức của Tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (Organisation For Economic Co-operration And Development,
OECD) về quản trị doanh nghiệp là “hệ thống định hướng và quản lý công ty

kinh doanh. Cơ cấu quản trị doanh nghiệp xác định sự phân công quyền hạn
và trách nhiệm giữa các thành viên khác nhau tham gia trong công ty”(24, tr.
11). Theo quan điểm của OECD, cơ cấu quản trị công ty phải hướng đến
mục đích bảo vệ quyền lợi của các cổ đông; đảm bảo việc đối xử công bằng
với các cổ đông, bao gồm cả các cổ đông nhỏ và cổ đông nước ngoài. Theo
Adrian Cadbury, quản trị doanh nghiệp là việc giữ cân bằng giữa những mục
tiêu kinh tế và xã hội; giữa mục tiêu cá thể và cộng đồng.
Rút khỏi thị trường: Rút khỏi thị trường đề cập tới vấn đề chấm dứt
hoạt động của nhà đầu tư. Việc chấm dứt hoạt động kinh doanh có thể do


18

nhiều nguyên nhân khác nhau và có ảnh hưởng trực tiếp tới những đối
tượng có quan hệ với doanh nghiệp (đối tác hợp đồng, chủ nợ, người lao
động…).
Có thể nhận thấy các quan hệ pháp luật về tổ chức doanh nghiệp phát
sinh trực tiếp từ quá trình tạo lập, duy trì, biến đổi và chấm dứt tư cách
chủ thể pháp luật của doanh nghiệp (thành lập doanh nghiệp và đăng ký
kinh doanh, tổ chức quản lý nội bộ của doanh nghiệp, tạo lập cơ cấu vốn,
tổ chức lại doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp…). Từ đó có thể định
nghĩa: Pháp luật về doanh nghiệp là hệ thống các quy tắc xử sự, do Nhà
nước ban hành hoặc thừc nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình gia nhập thị trường, quản trị hoạt động và rút khỏi thị
trường của các doanh nghiệp.
Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn, pháp luật về doanh
nghiệp thường được hiểu theo nghĩa này, và còn được gọi với nhiều tên gọi
khác nhau như: pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, pháp luật các loại hình
doanh nghiệp, pháp luật về các chủ thể kinh doanh, pháp luật về thương
nhân. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp được tiếp cận trong khoa học

pháp lý với những cách hiểu có thể không giống nhau cả về thuật ngữ và
nội dung pháp lý, nhưng nhìn chung pháp luật về doanh nghịêp được
thường được hiểu là các quy định về tổ chức doanh nghiệp (gia nhập thị
trường, quản trị doanh nghiệp và rút khỏi thị trường).
Với đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội về tổ chức doanh
nghiệp, chức năng chủ yếu của pháp luật về doanh nghiệp là đảm bảo an
toàn pháp lý cho các nhà đầu tư trong quá trình tạo lập doanh nghiệp, đầu
tư vốn và tổ chức vận hành doanh nghiệp. Phương pháp điều chỉnh của
pháp luật về doanh nghiệp chủ yếu là các phương pháp của luật đầu tư (tự
do, bình đẳng, thoả thuận…). Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng, việc phân biệt
nội hàm của khái niệm pháp luật về doanh nghiệp theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp chỉ có tính chất tương đối. Hệ thống pháp luật điều chỉnh tổ chức và


19

hoạt động của doanh nghiệp là một chỉnh thể thống nhất; các bộ phận cấu
thành pháp luật về doanh nghiệp dù được xác định trên nguyên tắc nào,
luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về mặt nội dung.
1.2.2. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban
hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, có hình thức, trình tự, thủ
tục được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các
cơ quan quản lý nhà nước, của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Trong
đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo
đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống pháp luật về
doanh nghiệp cần được tiếp cận từ hai phương diện: hệ thống cấu trúc bên
trong và hệ thống VBPL về doanh nghiệp.
1.2.2.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp cần được xem

xét theo hai góc độ: theo chiều ngang và theo chiều dọc. Về mặt lý luận
chung, xét theo chiều ngang, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp
với hệ thống cấu trúc của pháp luật… Xét theo chiều dọc, hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật mang tính thứ bậc. Với quan điểm tiếp cận đó, có thể
xác định pháp luật về doanh nghiệp là hệ thống các VBPL thuộc nhiều cấp
độ hiệu lực khác nhau, chứa đựng các quy phạm pháp luật về doanh nghiệp.
Các VBPL về doanh nghiệp có thể rất phong phú, đa dạng và được ban hành
vào các thời điểm khác nhau, nhưng đều có mối liên hệ mật thiết với nhau và
tạo thành một hệ thống. Trung tâm của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp
là các VBPL về tổ chức doanh nghiệp.
Qua nghiên cứu cho thấy, hệ thống các VBPL về tổ chức doanh
nghiệp theo pháp luật các nước được thiết kế rất phong phú và đa đang cả
về tên gọi và đối tượng, phạm vi điều chỉnh. Ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển, thông thường mỗi loại hình doanh nghiệp được điều


20

chỉnh bằng một luật đơn hành, trên cơ sở các quy định chung về doanh
nghiệp trong Bộ luật Dân sự và Bộ luật Thương mại.
Theo pháp luật của Cộng hoà Liên bang Đức, những vấn đề chung về
doanh nghiệp (thương nhân) được quy định trong Bộ luật Dân sự và Bộ
Luật Thương mại. Bộ luật Thương mại quy định cụ thể về các vấn dề tổ
chức và hoạt động của công ty hợp danh, công ty hợp vốn đơn giản (hợp
danh hữu hạn), cá nhân kinh doanh. Ngoài ra, các loại hình doanh nghiệp
khác được quy định tại các luật đơn hành: Luật về Công ty hợp danh của
những người hành nghề tự do, ngày 25/6/1994; Luật Công ty trách nhiệm
hữu hạn 1892 (được sửa đổi lần mới nhất năm 1980); Luật Công ty cổ
phần ngày 6/9/1965 (được sửa đổi lần mới nhất ngày 12/6/2003).
Ở Trung Quốc, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp bao gồm các văn

bản chủ yếu là: Luật Doanh nghiệp quốc hữu (doanh nghiệp nhà nước) ban
hành 1988; Quy định về Hộ kinh doanh cá thể (1987); Luật Doanh nghiệp
cá thể, Luật về Hợp danh 1987; Luật Công ty 1993. Có thể nhận thấy, cấu
trúc hệ thống VBPL về doanh nghiệp ở các nước rất đa dạng, không có một
khuôn mẫu thống nhất. Tuy nhiên, ngoại trừ một số nước có quy định một số
loại hình doanh nghiệp trong Bộ Luật Dân sự (Cộng hoà Liên bang Nga) và
Bộ luật Thương mại (Đức, Pháp). Nhìn chung, mỗi loại hình doanh nghiệp
được điều chỉnh bằng một đạo luật dân sự. Cách tiếp cận này có ưu điểm rõ
rệt là đảm bảo những vấn đề về tổ chức của từng loại hình doanh nghiệp được
thể hiện một cách rõ ràng, phù hợp với đặc điểm riêng của từng loại hình
doanh nghiệp.
1.2.2.2. Cấu trúc bên trong của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
doanh nghiệp
Về cấu trúc bên trong, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp được cấu
thành bởi các quy phạm, các chế định pháp luật liên quan đến tổ chức
doanh nghiệp (gia nhập thị trường, quản trị doanh nghiệp và rút khỏi thị
trường). Về lý luận, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp được xác lập phù


21

hợp với chức năng của nó. Theo L.C.B Gower, pháp luật về công ty, bộ
phận chủ yếu của pháp luật về doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, có hai
chức năng chủ yếu là: Ghi nhận quyền năng của các nhà đầu tư trong việc
tạo lập tư cách công ty. Quy định các điều kiện phải tuân thủ trong tổ chức
vận hành công ty nhằm bảo vệ quyền lợi của thành viên, của các chủ nợ và
toàn xã hội trước những rủi ro luôn tiềm ẩn khả năng được tạo ra bởi loại
chủ thể này. Theo Cally Jordan, chức năng cơ bản của Luật công ty bao
gồm: Ngăn ngừa chiếm đoạt lợi ích của cổ đông bởi người quản lý; Ngăn
ngừa chiếm đoạt lợi ích của cổ đông thiểu số bởi cổ đông đa số; Bảo vệ và

điều hoà lợi ích của chủ nợ, người lao động. Với chức năng như vậy, nội
dung của pháp luật về doanh nghiệp chủ yếu là những quy phạm ghi nhận
và đảm bảo quyền, đồng thời xác định trách nhiệm của nhà đầu tư trong
việc tổ chức, vận hành doanh nghiệp. Các nhóm quy phạm chủ yếu của
pháp luật về doanh nghiệp bao gồm:
Các quy định về bản chất pháp lý của loại hình doanh nghiệp: Nội
dung của chế định này quy định những dấu hiệu pháp lý để xác định loại
hình doanh nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý
nhất định và cần được xác định trong luật pháp. Việc quy định về loại hình
doanh nghiệp có thể có sự khác nhau nhất định giữa các quốc gia, phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể và ý chí chủ quan của các nhà
lập pháp.
Các quy định về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh:
Thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh
doanh, thành lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư.
Chế định thành lập doanh nghiệp thừơng bao gồm những nội dung cơ bản:
Đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp; ngành nghề kinh doanh; Thủ
tục đăng ký kinh doanh.


×