Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.51 KB, 23 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
I. BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG CỦA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Bản chất của tài chính doanh nghiệp
Mỗi một mối quan hệ kinh tế xã hội cụ thể đều được thông qua một hình
thức trên cơ sở của một hệ thống mối quan hệ cụ thể nào đó .tài chính doanh
nghiệp là một hệ thống những mỗi quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình
phân phối các nguồn lực tài chính của doanh ngiệp thông qua việc hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định ,nhằm thực hiện các mục tiêu dã được
định trước của doanh nghiệp,mà ở đó mục tiêu chủ yếu là tối đa hoá lợi
nhuận ,giảm chi phí kinh doanh
Bất kì tồn tại dưới hình thức nào doanh nghiệp được thành lập cũng
nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện một ,một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình từ đầu tư đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hay thực hiện các dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ,đòi hỏi các doanh nghiệp
phải có một lượng vốn nhất định , đó là tiền đề cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp .trong thực tế vốn là hình thứcbiểu hiện bên ngoài của
tài chính doanh nghiệp .Vốn tiền tệ trong doanh nghiệp luônđược vận động và
luân chuyển không ngừng qua các giai đoạn từ việc dự trữ để sản xuất đến khi
hình thành sản phẩm và đưa đến tay người tiêu dùng.Quá trình vận động này
là quá trình chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác,đây là quá
trình hình thái biểu hiện của vốn trong sản xuất kinh doanh theo từng chu
kỳ.Có thể hiểu rằng tài chính doanh nghiệp là tiền tệ hay các quỹ tiền tệ tồn tại
trong doanh nghiệp ,nhưng thực chất tiền tệ hay các quỹ tiền tệ chỉ là hình
thức .Đó là các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước ,doanh
nghiệp vối cac doanh nghiệp ,các tổ chức ,cá nhân,Cũng thông qua các mối
quan hệ king tế này mà quá trìnhphối hơp lại được thực hiện và là tiền đề cho
tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp được thực hiện.
Từ đó cho thấy bản chất tài chính của doanh nghiệp là hệ thống những
mối quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị phát sinh trong qúa trình


hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp,để phục vụ cho mục
đích của sản xuất kình doanh và giải quyết các nhu cầu của xã hội .Hay nói
cách khác :Tàichính doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ tiền tệ gắn trực
tiếp vôi các việc tổ chức,huydộng ,phân phối ,sử dụng và quản lý vốn trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
2. Nội dung của tài chính doanh nghiệp.
Gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của
doanh nghiệp là các mối quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới hình thức giá trị;
hay đó là các mối quan hệ tài chính trong doanh nghiệp. Các mối quan hệ này
chính là nội dung của tài chính doanh nghiệp và được thể hiện dưới những
hình thức sau:
2.1. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Ngân sách Nhà
nước.
Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với Ngân sách Nhà nước là mối quan hệ
về phân phối thu nhập do Nhà nước đièu tiết thông qua các chính sách về thuế,
về các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước theo luật định và theo những
chính sách hiện hành. Đây là các khoản phải nộp mang tính chất bắt buộc đối
với các doanh nghiệp, đó cũng là điều kiện vật chất nhằm duy trì hoạt động
của bộ máy nhà nước. Giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải
nộp Nhà nước như: thuế doanh thu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XK,
thuế NK, thuế lợi tức, thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản phụ thu (nếu
có), cùng với các khoản lệ phí khác.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước cấp phát vốn kinh
doanh khi mới thành lập, doanh nghiệp này phải chịu sự kiểm soát của nhà
nước với tư cách nhà nước là chủ sở hữu doanh nghiệp.
Tóm lại, thực chất đây là hình thức phân phối và phân phối lại của cải
vật chất dưới hình thức giá trị giữa các doanh nghiệp với Nhà nước.
2.2. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp, tổ
chức và cá nhân khác trong nền kinh tế thị trường.
Là mối quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khách quan

như quan hệ về mặt thanh toán tiền mua, bán tài sản, vật tư hàng hoá và dịch
vụ. Đây là những quan hệ mua bán trao đổi các yếu tố phục vụ cho quá trình
sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp.
Là mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức ngân hàng, tổ chức
tín dụng trong việc vay vốn và trả nợ. Đây là nguồn cung cấp vốn ngắn hạn của
doanh nghiệp. Do vậy, yêu cầu đặt ra trong tình hình sản xuất kinh doanh, để
việc đầu tư tài chính có hiệu quả thì doanh nghiệp cần phải tính toán, lựa chọn
nguồn vay và mức độ vay cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp mình. Để việc kinh doanh diễn ra thuận lợi và hạn chế được
những rủi ro có thể xảy ra, doanh nghiệp cần phải tính đến các biện pháp
phòng ngừa, biện pháp hỗ trợ đó là mối quan hệ với các tổ chức các Công ty
bảo hiểm trong việc phân tích tình hình và tham gia mua bảo hiểm để hạn chế
tổn thất xuống mức thấp nhất có thể với mức mua bảo hiểm đã xác định.
Ngoài những mối quan hệ kể trên doanh nghiệp còn có mối quan hệ với
thị trường sức lao động, thị trường tài chính, trong các mối quan hệ liên doanh
liên kết với các Công ty, các tổ chức trong và ngoài nước hay với các tầng lớp
nhân dân trong việc thu hút và huy động vốn dưới hình thức mua bán chứng
khoán hay góp vốn liên doanh.
Tóm lại, các mối quan hệ trên giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế
khác đều nhằm mục đích tìm kiếm vốn và bổ xung vốn cho quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình sao cho có hiệu quả nhất.
2.3. Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp.
Mối quan hệ này được thể hiện thông qua việc phân phối thu nhập, trên
cơ sở tiền thu về từ bán hàng sau khi bù đắp cho chi phí sản xuất, kinh doanh
còn lại sẽ được hình thành quỹ tích luỹ tài sản của doanh nghiệp. Đây cũng là
mối quan hệ phân phối lợi nhuận cho các đơn vị thành viên, trả lương, trả
thưởng cho các người lao động và hình thành nên các quỹ của doanh nghiệp
từ một phần lợi nhuận thông qua tỉ lệ trích lập. Trong các doanh nghiệp
thương mại ngoài quốc doanh còn hình thành nên các mối quan hệ thanh toán
hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp với công nhân, viên chức và thanh

toán tiền lãi vay, trả lãi cổ tức... cho các cổ đông.
Tóm lại, từ các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp nêu trên chúng ta
có thể thấy: Tài chính doanh nghiệp là một hệ thống các luồng chuyển dịch giá
trị, các luồng vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử
dụng các quỹ tiền tệ hay vốn huy động được của doanh nghiệp nhằm đạt tới
mục tiêu lợi nhuận trong khuôn khổ của pháp luật.
3. Chức năng của tài chính doanh nghiệp.
Nói đến chức năng là nói đến khả năng khách quan phát huy tác dụng xã
hội của nó hay là sự cụ thể hoá bản chất của tài chính doanh nghiệp. Tài chính
doanh nghiệp có những chức năng cơ bản sau:
3.1. Chức năng chu chuyển vốn tiền tệ.
Để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn
cần phải có một lượng vốn tiền tệ đủ lớn để hoạt động và có quyền sử dụng
nguồn vốn đó một cách chủ động. Quá trình hoạt động cua doanh nghiệp luôn
nảy sinh các nhu cầu về vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh
thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Do vậy chức
năng này sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được nhu cầu vốn cần thiết cho
sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ. Mặt khác, nó còn giúp cho các nhà
quản lý hay các chủ đầu tư nắm được tình hình tài chính để tổ chức nguồn vốn
nhằm đầu tư đúng hướng và kịp thời nhu cầu vốn khi cần thiết.
Với cơ chế "mở" hiện nay, nguồn tài chính hoạt động không chỉ trong
giới hạn ở nguồn cấp phát của ngân sách, nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
hay nguồn vốn tín dụng ngân hàng mà còn có thể được hình thành từ thị
trường vốn hay huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và các khoản
đầu tư nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính song song với thị
trườn hàng hoá, tạo ra cơ chế "bơm - hút" vốn một cách hợp lý và đẩy nhanh
tốc độ luân chuyển vốn trong các doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh cua doanh nghiệp phát triển.
Điều đó cho thấy chức năng chu chuyển vốn tiền tệ là một chức năng
quan trọng của tài chính doanh nghiệp vì nó tạo ra động lực thúc đẩy, quyết

định sự hoạt động của doanh nghiệp. Nó liên quan đến kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hay nói cách khác nó tác động trực tiếp đến sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp.
3.2. Chức năng phân phối.
Phân phối là một chức năng quan trọng của tài chính doanh nghiệp, dựa
trên cơ sở sản xuất kinh doanh, khi chu kỳ kinh doanh kết thúc, sản phẩm hàng
hoá được tiêu thụ trên thị trường, doanh nghiệp có thu nhập thu về từ bán
hàng hoặc dịch vụ. Nói cách khác, chức năng phân phối là cái vốn có nằm sẵn
trong phạm trù tài chính và biểu hiện bản chất của tài chính trong đời sống
kinh tế xã hội khi phân phối của cải vật chất dưới hình thức giá trị. Cũng từ
chức năng phân phối mà các nguồn tài lực là đại diện cho của cải của xã hội
được đưa vào những mục đích sử dụng khác nhau đảm bảo những nhu cầu
khác nhau và những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội. Chức năng phân
phối của doanh nghiệp chủ yếu là phân phối thu nhập bởi vì việc phân phối có
tác động tới toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nó thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh,
đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị
trường có thể tiếp tục tái sản xuất mở rộng. Hình thức phân phối thể hiện theo
quy trình sau khi thu tiền từ hoạt động bán hàng hay dịch vụ, doanh nghiệp
phải phân phối theo cơ chế:
- Một phần dùng để bù đắp vốn đã bỏ ra mua hàng và cũng để nhằm
mục đích bảo toàn vốn lưu động.
- Bù đắp một phần chi phí thuộc các yếu tố vật chất đã sử dụng trong
quá trình sản xuất kinh doanh như chi phí bù đắp hao mòn tài sản cố định, chi
phí vật liệu, nhiên liệu, chi phí lao động trong đó bao gồm cả chi phí tiền lương,
chi phí vận tải, chi phí bốc dỡ hàng hoá,... mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ
kinh doanh.
- Thanh toán các khoản thuế và các khoản phải nộp nhà nước khác như:
thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XNK, và các khoản lệ phí và phụ thu
khác...

- Số còn lại sau khi bù đắp được các khoản chi phí gọi là lợi nhuận trước
thuế của doanh nghiệp. Lợi nhuận này sau khi đã trừ đi thuế thu nhập doanh
nghiệp và các khoản chi phí không hợp lý như nộp tiền phạt, hao hụt vượt quá
mức quy định, tiền lãi vay quá hạn... phần còn lại sẽ được doanh nghiệp phân
phối vào các quỹ như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen
thưởng phúc lợi...
3.3. Chức năng giám đốc tài chính.
Đây là chức năng mang tính chất khách quan được sử dụng trong kiểm
tra, kiểm soát tài chính doanh nghiệp, chức năng giám đốc tài chính phản ánh
tính chất khách quan của hoạt động tài chính và thông qua đó có thể phản ánh
được trình độ sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh. Quá trình tạo lập và
sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp hướng vào việc thực hiện các yêu
cầu của các quy luật kinh tế của nền kinh tế trị trường. Trong đó đặc điểm cơ
bản nhất của giám đốc tài chính là giám đốc bằng tiền các hoạt động kinh
doanh một cách thường xuyên, liên tục và có hiệu quả nhất.
Giám đốc tài chính cho thấy được khả năng sử dụng vốn có hiệu quả hay
không và việc phân phối chúng như thế nào đối với mỗi đồng vốn mà doanh
nghiệp đã bỏ ra. Đồng thời thông qua một số chỉ tiêu về sử dụng vốn, một số
chỉ tiêu về chi phí hay lợi nhuận... mà có thể phát hiện ra các hiện tượng sử
dụng vốn bất hợp lý, sử dụng chi phí kinh doanh kém hiệu quả để tư vấn cho
lãnh đạo hoặc chủ doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn về tài chính
đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Và cũng có thể
nắm một cách chính xác, toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp để lập kế
hoạch tài chính doanh nghiệp và bám sát mục tiêu kinh doanh. Cũng thông qua
chức năng này mà quá trình kinh doanh được chủ động, không ngừng được
mở rộng và phát triển theo định hướng, đảm bảo việc sử dụng vốn có hiệu quả,
thực hiện yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế, đảm bảo đời sống của người
lao động trong doanh nghiệp, tránh tham ô lãng phí và những tổn thất không
đáng có do hoạt động tài chính gây nên.
4. Vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với quá trình HĐKD

Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp có một vai trò hết
sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có tác dụng
thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Trong hoạt
động kinh doanh ngày nay, tài chính giữ những vai trò chủ yếu sau:
Đảm bảo huy động đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường xuyên nảy
sinh các nhu cầu về vốn ngắn hạn và dài hạn cho các hoạt động kinh doanh
thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển.
Vai trò tài chính doanh nghiệp trước hết được thể hiện ở việc xác định
đúng đắn các nhu cầu về vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong
từng thời kỳ và sau đó lựa chọn hình thức huy động vốn phù hợp (huy động từ
bên trong hay bên ngoài doanh nghiệp). Chính vì thế vai trò của tài chính
doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn
các hình thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho quá trình huy động
nhịp nhàng, liên tục với chi phí thấp nhất. Bên cạnh đó, tài chính doanh nghiệp
có vai trò trong việc tổ chức, sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử
dụng vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc
đánh giá lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích một số chỉ tiêu kinh tế
như khả năng sinh lời, mức độ rủi ro,... để lựa chọn ra một dự án đầu tư tối ưu.
Huy động kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất lớn để doanh nghiệp có thể
nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh. Mặt khác, huy động tối đa nguồn vốn
hiện có vào hoạt động kinh doanh để có thể giảm bớt và tránh được những
thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay vốn, từ
đó giảm được khoản chi phí trả lãi tiền vay. Việc hình thành và sử dụng tốt các
quỹ doanh nghiệp cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng phạt vật chất
nghiêm minh và hợp lý sẽ là động lực thúc đẩy cán bộ công nhân viên quan
tâm tới công việc, gắn bó với doanh nghiệp từ đó nâng cao sản xuất lao động
góp phần cải tiến và hợp lý hóa trong sản xuất kinh doanh nhằm sử dụng vốn
đạt hiệu quả cao nhất.

Giám sát, kiểm tra chặt chẽ các mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng là một vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc thực hiện hàng
loạt chỉ tiêu kế hoạch tài chính đã được xây dựng. Thường xuyên giám sát,
kiểm tra và đánh giá một cách khái quát các mặt hoạt động của doanh nghiệp
đồng thời phát hiện ra những tồn tại vướng mắc trong kinh doanh để từ đó có
những biện pháp khắc phục góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp và điều chỉnh các hoạt động sao cho phù hợp với thực tế kinh doanh.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm và mục đích phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp.
1.1. Khái niệm.
Mọi sự vật và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan, muốn nắm
bắt, nhận thức và cải tạo được chúng để đưa vào sử dụng phục vụ cho lợi ích
của con người thì cần phải hiểu biết về bản chất sự vật và hiện tượng cũng
như quy luật vận động của nó. Vì vậy, để hiểu biết được chúng ta cần phải sử
dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau trong đó có phương pháp
phân tích.
Vậy phân tích có thể hiểu là sự bóc tách, chia nhỏ sự vật hiện tượng
trong mối quan hệ trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của
sự vật, hiện tượng; từ đó cho ta nhận thức được về hình dáng, kích thước, tính
chất của chúng trong đối tượng nghiên cứu và thấy được mối liên hệ, tác động
qua lại giữa chúng. Đồng thời qua phân tích quy luật của sự vật hiện tượng.
Đó là phân tích trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực kinh tế xã hội thì các
hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng. C.Mác
đã chỉ ra rằng:
"Khi phân tích các hình thái kinh tế xã hội thì không thể sử dụng hoặc
kính hiển vi hoặc những phản ứng hoá học. Lực lượng trừu tượng phải thay
thế cái này hoặc cái kia".
Phân tích kinh tế là một trong những khái niệm chung, tuỳ theo phạm vi
của đối tượng nghiên cứu mà ta chia ra thành phân tích kinh tế vĩ mô hay

phân tích kinh tế vi mô.
- Phân tích kinh tế vĩ mô có phạm vi nghiên cứu rộng trong nền kinh tế
quốc dân hay một vùng lãnh thổ.
- Phân tích kinh tế vi mô hay còn gọi là phân tích hoạt động kinh tế có
phạm vi là các hiện tượng và quá trình kinh tế phát sinh trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của một doanh nghiệp hay một tổ chức kinh tế cụ thể.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là các mối quan hệ
tiền tệ gắn liền với việc hình thành nên vốn, phân phối, quản lý và sử dụng vốn
trong quá trình kinh doanh và được biểu hiện bằng việc hình thành và sử dụng
các quỹ tiền tệ.
Phân tích tình hình tài chính là quá trình xem xét kiểm tra, đối chiếu và
so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua phân tích tình
hình tài chính mà người sử dụng thông tin có thể đánh giá được tiềm năng,
hiệu quả kinh doanh hay những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai hoặc triển
vọng phát triển có thể đạt được của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, phân tích tài chính doanh nghiệp đã và
ngày càng trở thành một công cụ quan trọng trong hệ thống các công cụ quản
lý kinh tế xã hội. Hơn thế nó đã phát triển thành một môn khoa học kinh tế độc
lập có đối tượng nghiên cứu riêng.
Đối tượng nghiên cứu của phân tích tài chính doanh nghiệp là việc đi
phân tích những kết quả kinh doanh gắn liền với việc huy động, sử dụng và
quản lý vốn, được thể hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế và các nhân tố tác
động tới nó.

×