Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

XỬ lý tài sản của DOANH NGHIỆP lâm vào TÌNH TRẠNG PHÁ sản THEO LUẬT PHÁ sản (2004)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.43 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------*-----------

NGUYỄN KIM CHI

XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO
TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN (2004)

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ : 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI – 2004


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài
liệu được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong luận văn này
là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Kim Chi



Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với người hướng dẫn khoa học
- Tiến sĩ Luật học Nguyễn Viết Tý, các thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè và
gia đình đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Kim Chi


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương I: Một số vấn đề lý luận về xử lý tài sản của doanh

5

nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
1.1. Tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

5

1.2. Xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

15

- thủ tục thanh toán nợ đặc biệt

1.3. Vai trò của xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình

20

trạng phá sản
Chương 2: Các quy định của Luật phá sản (2004) về xử lý tài

25

sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
2.1. Chủ thể tham gia xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào

25

tình trạng phá sản
2.2. Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

32

2.3. Xử lý nợ của doanh nghiệp và thứ tự ưu tiên thanh toán

41

2.4. Thủ tục xử lý các loại tài sản của doanh nghiệp lâm vào

48

tình trạng phá sản
Chương 3: Một số giải pháp thực thi các quy định về xử lý tài sản


54

của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
3.1. Ban hành các văn bản hướng dẫn Luật phá sản (2004),
hoàn thiện các quy định có liên quan đến xử lý tài sản của

54

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
3.2. Những giải pháp khác

63

KẾT LUẬN

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

67


1

M U
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, nhưng cũng
là một lĩnh vực pháp luật đòi hỏi có sự can thiệp rất hiện đại, linh hoạt của Nhà
nước để phù hợp với những yêu cầu thực tiễn kinh doanh đặt ra.
Luật phá sản được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 15/ 6/ 2004 và có

hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/ 10/ 2004. Tiếp thu có chọn lọc pháp luật về
phá sản của một số nước trên thế giới, Luật phá sản (2004) đã có những sửa
đổi cơ bản phù hợp với yêu cầu thực tiễn, trong đó có các qui định về xử lý tài
sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, tạo điều kiện cho công tác
giải quyết các vụ việc phá sản một cách công bằng, đảm bảo được lợi ích của
các bên liên quan.
Tuy nhiên, do được ban hành trong điều kiện nước ta đang xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật
vẫn còn chưa đồng bộ, mặt khác vấn đề phá sản còn mới mẻ, nên việc đưa
Luật phá sản (2004) vào cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn. Tình hình đó xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là nguyên
nhân về mặt pháp lí. Mặc dù, Luật phá sản (2004) có một bước tiến đáng kể về
mặt lập pháp, tuy nhiên hiện nay còn thiếu những văn bản hướng dẫn thi hành,
đặc biệt là các quy định về xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản. Mặt khác, về vấn đề này, vẫn còn một số quy định của các văn bản có
liên quan khác chưa đồng bộ, phù hợp.
Thực tiễn cho thấy, việc xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản hiện nay còn đang gặp nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho
việc rút lui có trật tự của doanh nghiệp ra khỏi thương trường. Vì vậy, việc sớm
thực hiện các biện pháp để hướng dẫn chi tiết Luật phá sản (2004) nói chung và
các quy định về xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản vào cuộc
sống đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ này, cần phải có những nghiên
cứu kĩ lưỡng về các vấn đề lí luận và thực tiễn về xử lí tài sản của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, đặt nó trong mối quan hệ với các quy định


2

khác của pháp luật phá sản, đồng thời đề ra các biện pháp cần thiết để Luật

phá sản (2004) nói chung và các qui định về xử lý tài sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản sớm được áp dụng vào cuộc sống.
Đó cũng là lí do chúng tôi chọn vấn đề: Xử lý tài sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản (2004) làm đề tài luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về phá sản và pháp
luật về phá sản nói chung cũng như Luật phá sản với tư cách là một đạo luật nói
riêng. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Kế hoạch đầu tư và Viện Nghiên
cứu Quản lý kinh tế TW: Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam do Thạc sĩ Nguyễn Kim
Anh làm chủ nhiệm đề tài, Luật án tiến sĩ luật học của tác giả Trương Hồng Hải:
Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương
hướng hoàn thiện... Tuy nhiên, các công trình này thường tập trung nghiên cứu
một cách khái quát về pháp luật phá sản hoặc trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Luận văn: "Xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản 2004 là công trình đầu tiên nghiên cứu
một giai đoạn cụ thể, rất quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp: xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu pháp luật phá sản Việt Nam nói chung và đặc biệt là
Luật phá sản (2004). Bên cạnh đó, đề tài cũng nghiên cứu một số vấn đề lý
luận về xử lý tài sản của doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng pháp luật phá sản
ở Việt Nam. Tuy nhiên, xử lý tài sản của doanh nghiệp có thể được thực hiện
ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Ví dụ trong giai đoạn phục hồi doanh nghiệp, việc xử lý tài sản cũng có thể
xảy ra. Luận văn này chỉ tập trung giải quyết vấn đề xử lý tài sản của doanh
nghiệp khi không thực hiện thủ tục phục hồi hoặc thủ tục phục hồi không
được thực hiện thành công.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài



3

Mục đích của tác giả là nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến
việc xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, từ đó làm sáng
tỏ những quy định của Luật phá sản (2004). Bên cạnh đó, đề tài cũng kết hợp
với tìm hiểu thực tiễn xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản của toà án Việt Nam và thế giới để nêu ra những đề xuất, kiến nghị nhằm
sớm đưa các quy định về xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản áp dụng vào thực tiễn, tạo cơ sở pháp lí bảo đảm sự bình đẳng cho
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ, người lao động và những
chủ thể khác có liên quan.
Với mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề mang tính lí luận về xử lí tài sản của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản;
- Phân tích những nội dung của Luật phá sản (2004) về xử lý tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và những vấn đề còn vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng;
- Đề xuất phương hướng bổ sung, hoàn thiện nhằm đưa các quy định
pháp luật về xử lí tài sản của của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản vào
cuộc sống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phép duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học
pháp lý cũng được sử dụng như: phân tích, tổng hợp, so sánh... Bên cạnh những
nghiên cứu về các quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả sử dụng những tài
liệu về pháp luật phá sản và cách xử lí tài sản của doanh nghiệp phá sản ở một
số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó, có sự so sánh làm rõ những điểm mạnh,
yếu, bất cập của pháp luật Việt Nam so với thông lệ quốc tế, từ đó đề xuất

những giải pháp nhằm sớm đưa Luật phá sản vào cuộc sống.
6. Các kết quả mới đạt được của luận văn
Hiện nay, tuy đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu Luật phá sản
với tư cách là một đạo luật nhưng thường tập trung nghiên cứu một cách khái
quát về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Luận văn: "Xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo


4

Luật phá sản (2004) nghiên cứu một vấn đề mang tính cụ thể, rất quan trọng
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, đó là xử lí
tài sản của của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản dưới góc độ quy định
pháp luật mới về phá sản ở Việt Nam. Trong khi Luật phá sản (2004) đã có
hiệu lực nhưng đang cần có giải pháp nhằm sớm đưa Luật vào cuộc sống, hy
vọng những kiến nghị của tác giả sẽ được các nhà làm luật tham khảo.
Những điểm mới của Luận văn:
- Giải quyết được vấn đề lí luận về xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản;
- Làm sáng tỏ những quy định của Luật phá sản (2004) về xử lí tài sản
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản;
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm sớm áp dụng Luật phá sản (2004) vào
cuộc sống, đặc biệt là những quy định về xử lí tài sản doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản.
Ngoài ra, với những ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn, Luận văn còn là
tài liệu cần thiết cho những người nghiên cứu, học tập và những người làm
công tác thực tiễn liên quan tới vấn đề phá sản doanh nghiệp, trong đó có các
nhà doanh nghiệp.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,

Luận văn được cơ cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lí luận về xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản.

Chương 2: Các quy định của Luật phá sản (2004) về xử lí tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

Chương 3: Một số giải pháp thực thi pháp luật về xử lý tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.


5

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA
DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
1.1. Tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

1.1.1. Kh¸i niÖm doanh nghiÖp l©m vµo t×nh tr¹ng ph¸ s¶n
Trên thế giới, khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không
còn xa lạ. ở châu Âu, khi nói đến phá sản, người ta thường dùng danh từ:
“Bankruptcy” trong tiếng Anh hay “Baqueroute” trong tiếng Pháp với nghĩa là
“làm phá sản”. Hai từ này có nguồn gốc từ chữ “Banca Rotta” của La Mã, có
nghĩa là: “Chiếc ghế bị gãy”. Thời La Mã cổ đại, các thương gia của một thành
phố thường họp nhau lại, người nào mất khả năng thanh toán nợ thì cũng mất
luôn quyền tham gia các đại hội thương gia và chiếc ghế ngồi của người đó bị
đem ra khỏi hội trường [14, Tr.9].
ở Việt Nam xuất hiện thuật ngữ “khánh tận” từ năm 1972. Điều 864
của Bộ luật Thương mại Sài Gòn 1972 quy định: “Thương gia ngưng trả nợ

sẽ bị tuyên án khánh tận”. Như vậy, khánh tận cũng được hiểu là mất khả
năng thanh toán. Tuy nhiên, cho đến năm 1990, khi phá sản được thừa nhận
là một hiện tượng bình thường trong nền kinh tế thị trường thì thuật ngữ “phá
sản” mới chính thức được quy định trong hai văn bản pháp lí quan trọng là
Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty (ban hành cùng ngày
21/12/1990). Theo tinh thần của các văn bản pháp luật trên: Công ty, doanh
nghiệp tư nhân gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến
mức tại một thời điểm tổng số trị giá các tài sản còn lại của công ty không đủ
thanh toán tổng số các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng phá sản” (Xem Điều 17 Luật doanh nghiệp tư nhân (1990) và Điều 21
Luật công ty (1990).
Việc xác định khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là rất
quan trọng, vì nó quy định phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản, đồng thời, là
cơ sở Tòa án xem xét mở thủ tục phá sản.


6

Để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, trên thế giới hiện
nay phổ biến có 2 khuynh hướng.

Thứ nhất là tiêu chí định lượng. Theo tiêu chí này, người mắc nợ mà
không trả được nợ đến hạn với hạn mức giá trị nhất định theo luật định thì sẽ
bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Ví dụ, theo luật Thái Lan thì đối với phá
sản cá nhân mức tối thiểu này là 1 triệu Bath, đối với pháp nhân là 2 triệu Bath
[12, Tr.58].

Thứ hai là tiêu chí định tính. Theo đó, doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản là doanh nghiệp có tổng số nợ lớn hơn khả năng thanh toán. Việc xác
định được dựa trên bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Ví dụ, pháp luật

Nhật Bản quy định lý do của việc tuyên bố phá sản công ty là công ty không
thể thanh toán đầy đủ những khoản nợ bằng tài sản của mình. Còn Điều 1
Luật phá sản doanh nghiệp của Liên bang Nga quy định: Tình trạng phá sản
là việc mất khả năng đáp ứng yêu cầu của các chủ nợ về thanh toán hàng hóa,
dịch vụ kể cả việc mất khả năng đảm bảo các thanh toán phải nộp ngân sách
Nhà nước và các quỹ ngân sách do nghĩa vụ của người mắc nợ vượt quá tài sản
của mình hoặc do mất cân đối trong thanh toán của người mắc nợ. Dấu hiệu
bên trong về tình trạng phá sản của doanh nghiệp là sự ngừng việc thanh toán
bình thường của mình, nếu doanh nghiệp không đảm bảo hoặc đảm bảo không
rõ ràng hoặc không có khả năng rõ ràng thực hiện các yêu cầu của chủ nợ
trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn thực hiện các yêu cầu đó [21].
Như vậy, khuynh hướng định lượng chỉ xem xét đến khả năng thanh toán đối
với nợ đến hạn của doanh nghiệp mà không quan tâm đến tài sản hiện có của doanh
nghiệp. Do vậy, khả năng mở thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp đến sớm
hơn, các giải pháp phục hồi hoặc cho doanh nghiệp phá sản có thể được tiến hành
kịp thời hơn, trong khi doanh nghiệp chưa đến mức kiệt quệ, bảo vệ hiệu quả lợi ích
của doanh nghiệp mắc nợ và các chủ nợ. Người làm đơn yêu cầu (đa phần là các chủ
nợ) chỉ có nghĩa vụ chứng minh căn cứ của việc khởi kiện đối với người mắc nợ, còn
việc chứng minh doanh nghiệp mắc nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ của các chủ nợ được quy định thuần túy mà không đi sâu vào cơ cấu tài chính
của doanh nghiệp vì trên thực tế, họ không có khả năng làm được điều đó.


7

Còn khuynh hướng định tính thì chủ yếu dựa vào sự cân đối giữa nợ đến
hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp mắc nợ. Từ đó sẽ đặt ra một thách
thức cho các chủ nợ là phải có khả năng đánh giá chính xác tài sản có của
doanh nghiệp dựa trên bảng cân đối tài sản. Như vậy, chủ nợ phải có đầy đủ
thông tin về Bảng tổng kết tài sản, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp mắc

nợ cũng như đảm bảo được tính trung thực của những tài liệu kế toán này bên
cạnh đó cần có chế độ kế toán doanh nghiệp đồng bộ - những rào cản rất lớn
đối với các chủ nợ, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Cách hiểu về phá sản trong pháp luật Việt Nam được hoàn thiện hơn
một bước thể hiện ở một văn bản pháp lí rất quan trọng là Luật phá sản doanh
nghiệp (1993). Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp quy định: doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh, sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà
vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Điều 3 Nghị định 189/CP ngày
23/12/1994 hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp quy định dấu hiệu
lâm vào tình trạng phá sản là: Doanh nghiệp bị thua lỗ trong hai năm liên tiếp
đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người
lao động theo thoả ước lao động và hợp đồng lao động trong ba tháng liên
tiếp. Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản, doanh nghiệp phải áp
dụng các biện pháp tài chính cần thiết để khắc phục tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn, bao gồm: có phương án tổ chức lại hoạt động sản xuất
kinh doanh, quản lí các khoản chi phí, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm; có
biện pháp xử lí hàng hoá, vật tư tồn đọng; thu hồi các khoản nợ và tài sản bị
chiếm dụng; thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh, giảm
nợ, xoá nợ; tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các
khoản nợ đến hạn và đổi mới công nghệ.
Như vậy, Luật phá sản doanh nghiệp (1993) và Nghị định 189/CP quy
định đầy đủ hơn và chính xác hơn so với Luật doanh nghiệp tư nhân (1990) và
Luật công ty (1990). Nếu quan niệm dấu hiệu cơ bản nhất để xác định doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là: Tại một thời điểm trị giá của tổng số tài
sản nợ đến hạn lớn hơn giá trị của tổng tài sản có thì chưa chính xác, vì cho dù
tại một thời điểm nào đó giá trị của tổng số nợ đến hạn lớn hơn tổng số tài sản


8


có của doanh nghiệp, nhưng chưa hẳn doanh nghiệp đó đã mất thanh toán nợ
đến hạn khả năng nếu như các chủ nợ hoãn nợ, hoặc xoá nợ cho doanh nghiệp,
hoặc có người đứng ra mua nợ, hay bảo lãnh cho doanh nghiệp. Hiện tượng
này rất phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển, thậm chí có những nhà
kinh doanh rất thành đạt từ việc mua rẻ lại các công ty sắp phá sản. Vậy,
doanh nghiệp chỉ có thể bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn sau khi đã áp dụng các biện pháp tài
chính cần thiết.
Tuy nhiên, do ra đời trong hoàn cảnh nước ta vừa bước vào đổi mới cơ
chế kinh tế, do đó quy định về doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như
Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp (1993) và khoản 1 Điều 3 Nghị định 189/CP
còn nhiều bất cập. Theo các quy định này, các điều kiện để đưa việc phá sản
doanh nghiệp đến Toà án có thể là quá muộn khi vào thời hạn hai năm thua lỗ
liên tiếp của doanh nghiệp dẫn đến không trả được nợ đến hạn, hay ba
tháng liên tiếp không trả đủ lương cho người lao động. Khi doanh nghiệp đã
lâm vào tình trạng như vậy thì khả năng phục hồi của doanh nghiệp là rất khó
và việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp để nhằm mục đích trả nợ tập thể cho
các chủ nợ không còn giữ nguyên ý nghĩa của thủ tục phá sản vì lúc đó doanh
nghiệp cũng không còn tài sản gì đáng kể để thanh toán nợ. Khi doanh nghiệp
đã lâm vào tình trạng kiệt quệ như vậy, thì việc áp dụng các biện pháp tài chính
cần thiết như phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, thu hồi các khoản nợ,
khoản vay đến hạn, mua nợ, dãn nợ cũng không có tính khả thi.
Những nhược điểm này của Luật phá sản doanh nghiệp (1993) đã được
khắc phục ở Luật phá sản (2004) với quy định tại Điều 3: Doanh nghiệp, hợp
tác xã không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu
cầu thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, với việc thay đổi tiêu
chí xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, phạm vi giải quyết các
vụ việc phá sản đã được mở rộng hơn, tránh trường hợp tình hình doanh
nghiệp đã quá sa sút, tài sản còn không đáng kể để thực hiện thủ tục thanh

toán nợ tập thể nữa. Xác định sớm tình trạng phá sản của doanh nghiệp thì cơ
hội giải quyết hiệu quả vụ việc phá sản sẽ cao hơn, dù là thủ tục thanh lý hay
phục hồi. Việc quy định như vậy cũng cho thấy cách tiếp cận mới của pháp


9

luật Việt Nam với thông lệ chung trên thế giới, đó là quan tâm nhiều đến khía
cạnh mất khả năng thanh toán nợ, ít chú ý đến nguyên nhân của tình trạng
này. Điều này cũng cho thấy pháp luật phá sản Việt Nam gần gũi hơn dưới
giác độ định lượng khi xác định tiêu chí lâm vào tình trạng phá sản.
Như vậy, theo quy định của Luật phá sản (2004) thì doanh nghiệp nếu
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu
cầu thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản và phải giải quyết theo thủ tục phá
sản. Đây là những quy định mới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phục hồi hay
thanh toán nợ cho các chủ nợ, tránh tình trạng khi doanh nghiệp phá sản thì
cũng là lúc doanh nghiệp đã kiệt quệ về tài chính, tài sản không còn đáng kể
để thanh toán nợ hay có khả năng phục hồi. Tuy nhiên, hiện nay cần có văn
bản hướng dẫn thế nào là nợ đến hạn, và mức tối thiểu của các khoản nợ đến
hạn. Đây là những tiêu chí rất cần quy định để xác định có doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản hay không. Theo Luật phá sản của Anh, doanh nghiệp
được coi là mất khả năng thanh toán khi một chủ nợ đòi số tiền từ 50 bảng
Anh trở lên, đã gửi đơn đến đòi nợ, sau 3 tuần mà doanh nghiệp không trả
được nợ, không thương lượng được với chủ nợ hoặc tìm ra biện pháp đảm bảo
thỏa đáng cho số nợ đó [12, Tr.57].
Theo pháp luật của nhiều nước, sau khi xác định doanh nghiệp đã lâm
vào tình trạng phá sản thì Toà án sẽ tiến hành điều tra, xem xét tình trạng tài
chính và khả năng phục hồi hoạt động của doanh nghiệp để áp dụng một trong
các thủ tục: thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh; thủ tục thanh toán tài sản
hoặc thủ tục tuyên bố phá sản cho phù hợp với tình hình cụ thể của doanh

nghiệp. Đối với những doanh nghiệp không có khả năng phục hồi, Toà án sẽ
áp dụng ngay thủ tục thanh toán tài sản. Thậm chí, nếu xác định tài sản còn lại
của doanh nghiệp không đủ để thanh toán chi phí phá sản, Toà án có thể tuyên
bố phá sản ngay mà không phải tiến hành bất kỳ thủ tục nào. Nhưng Luật phá
sản doanh nghiệp (1993) quy định: dù tình trạng tài chính và khả năng phục
hồi của doanh nghiệp như thế nào đều phải tuân theo một trình tự nhất định:
Mở thủ tục phá sản, tiến hành hoà giải, đưa ra giải pháp tổ chức lại hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu biện pháp này thất bại, Toà án mới ra
quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, chấm dứt sự tồn tại của doanh


10

nghiệp. Quy định này trên thực tế đã gây không khó khăn khi giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản đối với những doanh nghiệp không còn tài sản gì đáng
kể. Việc áp dụng các biện pháp phục hồi doanh nghiệp không những chỉ còn
mang tính hình thức mà còn chiếm một chi phí khá lớn, nhưng theo quy định
của pháp luật, Toà án vẫn phải áp dụng các biện pháp phục hồi đó [10, Tr.2].
Những quy định của Luật phá sản (2004) đã khắc phục được những nhược
điểm này. Điều 5 Luật phá sản (2004) quy định: thủ tục phá sản được áp dụng
đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: Nộp đơn yêu cầu và
mở thủ tục phá sản; Phục hồi hoạt động kinh doanh; Thanh lý tài sản, các
khoản nợ; Tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
Như vậy, Luật mới đã ban hành nhiều loại thủ tục khác nhau, tương đối
độc lập với nhau, Tòa án có thể chủ động lựa chọn để giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản phù hợp với tình hình của các doanh nghiệp mắc nợ cũng như các
chủ nợ. Phục hồi hoạt động kinh doanh không còn là một thủ tục bắt buộc nữa.
Điều 5 Luật phá sản quy định: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm
phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục quy định ở điểm b và c (thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc thanh lý tài sản, các khoản nợ) hoặc quyết

định chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng
thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
Điều 78 Luật phá sản quy định: trường hợp doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh đã bị thua lỗ được Nhà nước áp dụng các biện pháp đặc biệt để phục hồi
hoạt động kinh doanh nhưng không phục hồi kinh doanh được và không thanh
toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì Tòa án ra quyết định
mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp mà không cần triệu tập Hội nghị
chủ nợ để xem xét việc áp dụng thủ tục phục hồi. Các quy định này cũng phù
hợp với thông lệ quốc tế và những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xử lý tài sản. Đây là một trong những căn cứ
để xác định một doanh nghiệp liệu đã bị lâm vào tình trạng phá sản chưa. Mặt
khác, nó chi phối việc lựa chọn thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết phá


11

sản và áp dụng hàng loạt các biện pháp bảo toàn tài sản có ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi ích của các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ.
Tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được quy định tại
Điều 49 Luật phá sản (2004) gồm:
- Tài sản và quyền về tài sản mà doanh nghiệp có tại thời điểm Tòa án
thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
- Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh
nghiệp sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Tòa án thụ
lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
- Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp. Trường
hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo đảm, nếu
giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì

phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp;
- Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp được xác định theo quy
định của pháp luật về đất đai.
Ngoài ra, đối với tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh
lâm vào tình trạng phá sản, Luật cũng quy định bao gồm cả tài sản của chủ
doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt
động kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh
có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân,
thành viên hợp danh đó được chia theo quy định của Bộ luật Dân sự và các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
Trong khi đó, Luật phá sản doanh nghiệp (1993) chỉ đưa ra khái niệm
tài sản của doanh nghiệp như sau:
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp hoặc thuộc quyền quản lí của doanh nghiệp (đối với doanh
nghiệp Nhà nước) (xem Điều 19).
Như vậy, so với Luật phá sản doanh nghiệp trước đây, Luật phá sản
(2004) đã đưa ra những khái niệm tổng quát hơn, đầy đủ hơn về tài sản của


12

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, tránh được việc quy định tản mạn,
không đầy đủ trong quy định của Luật phá sản doanh nghiệp (1993).
Trước đây, Điều 38 và Điều 39 Luật phá sản doanh nghiệp (1993) đưa
ra khái niệm giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp nhưng không có bất cứ
một điều khoản nào trong Luật phá sản doanh nghiệp (1993) và các văn bản
hướng dẫn thi hành xác định rõ thế nào là giá trị tài sản còn lại của doanh
nghiệp. Vì vậy, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định giá trị tài
sản còn lại của doanh nghiệp. Quan điểm thứ nhất cho rằng, tài sản còn lại của
doanh nghiệp bao gồm tất cả tài sản có đến thời điểm phá sản. Quan điểm

khác cho rằng, đó là giá trị tài sản còn lại sau khi đã thanh toán cho các khoản
nợ được bảo đảm bằng chính tài sản bảo đảm [11, Tr.61]. Hai cách xác định
khác nhau này dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào điều 38 Luật phá sản doanh nghiệp
(1993): Nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số
nợ của chủ nợ có bảo đảm, thì chủ nợ đó được tham gia vào việc phân chia giá
trị tài sản còn lại của doanh nghiệp như các chủ nợ không có bảo đảm khác.
Nếu giá trị tài sản cầm cố hoặc thế chấp đó lớn hơn số nợ, thì phần chênh lệch
được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản, có thể hiểu
rằng, giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp là giá trị tài sản còn lại sau khi đã
thanh toán cho các khoản nợ được bảo đảm bằng chính tài sản bảo đảm như
cách hiểu thứ hai.
Quy định như vậy không có nhiều ý nghĩa cho việc xác định tài sản của
doanh nghiệp phá sản vì chỉ tính riêng từ thời điểm doanh nghiệp bị Toà án ra
quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản đến khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản thì khối tài sản của doanh nghiệp đã có những thay đổi đáng kể. Trong
quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, doanh nghiệp có thể được phép
tổ chức lại hoạt động kinh doanh hoặc được tiến hành các hoạt động kinh
doanh dưới sự giám sát của thẩm phán, do đó tất yếu khối tài sản của doanh
nghiệp sẽ không giữ nguyên như ban đầu sau khi đã kết thúc những hoạt động
đó [7, Tr.48].


13

Hiện nay, cách xác định về khối tài sản phá sản của các nước khác nhau
có những điểm giống và khác nhau. Luật phá sản doanh nghiệp của Liên bang
Nga (1992) tại Điều 26 (Định giá phần tài sản có của người mắc nợ và xác
định mức nợ của người mắc nợ) đã quy định rõ về tài sản của doanh nghiệp
phá sản (hay còn gọi là tài sản phá sản) như sau:

1. Tất cả các tài sản (phần có) của người mắc nợ thể hiện trong bảng
cân đối kế toán hoặc các tài liệu kế toán thay thế là cơ sở để xác định tài sản
phá sản. Trong tài sản phá sản còn bao gồm các đối tượng thuộc lĩnh vực công
cộng xã hội nằm trong bảng cân đối của người mắc nợ, trừ quỹ nhà ở, các
trường mẫu giáo và các công trình sản xuất và hạ tầng quan trọng đối với đời
sống của khu vực, cần được đưa vào bảng cân đối của các cơ quan tự quản ở
địa phương hoặc cơ quan quyền lực nhà nước hữu quan, nếu pháp luật của
Liên bang Nga không có quy định khác.
2. Trong quá trình thanh lí tài sản, nhân viên thanh lí tài sản, với sự giúp
đỡ của các giám định viên được trưng cầu, tiến hành kiểm kê và định giá tài
sản (phần có) của người mắc nợ và nghĩa vụ (phần nợ) của người mắc nợ. Mức
thù lao cho giám định viên do Toà án trọng tài ấn định theo quy định của Xô
viết tối cao Liên bang Nga.
3. Việc định giá tài sản (phần có) của người mắc nợ cấu thành tài sản
phá sản được tiến hành theo trình tự do pháp luật Liên bang Nga quy định.
4. Tài sản phá sản không bao gồm tài sản (phần có) là vật bảo đảm.
5. Tài sản phá sản không bao gồm tài sản không thuộc quyền sở hữu
của người mắc nợ, trong đó có: Tài sản do người mắc nợ thuê; tài sản mà
người mắc nợ có trách nhiệm bảo quản; tài sản riêng của công nhân viên
doanh nghiệp mắc nợ, trừ tài sản mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ
doanh nghiệp có thể được thu hồi để thực hiện nghĩa vụ của người mắc nợ.
Tại phần đầu về giải thích những từ ngữ, Luật phá sản doanh nghiệp của
Liên bang Nga cũng xác định: Tài sản có là tài sản của doanh nghiệp, bao
gồm tài sản cố định, các tài sản thuộc quyền chiếm hữu lâu dài (kể cả vốn phi
tài sản), tài sản lưu động và các nguồn tài chính khác; Các khoản nợ là các
nghĩa vụ (trừ tài sản thuộc quyền sở hữu và các nguồn tài chính khác) của


14


doanh nghiệp được hình thành từ việc vay để mua sắm kể cả các khoản vay tín
dụng; Tài sản phá sản là tài sản của người mắc nợ mà có thể bị thu hồi trong
quá trình thanh lí tài sản [21].
Nhật Bản, Mỹ, Đức cũng có cách xác định về tài sản phá sản: Toàn
bộ tài sản của con nợ là đối tượng của thủ tục phá sản được gọi là khối tài sản
phá sản. Các nước này thừa nhận những tài sản cầm cố của các chủ nợ có bảo
đảm cũng thuộc khối tài sản phá sản. Nhật Bản quy định khối tài sản phá sản
bao gồm tài sản của con nợ tại vào thời điểm tuyên bố phá sản là đối tượng
của thủ tục tư pháp. Những tài sản mà người được uỷ thác thu hồi được thông
qua quyền phủ nhận cũng thuộc về khối tài sản phá sản. Quyền chủ sở hữu
cũng là một loại tài sản thuộc khối tài sản phá sản. Tài sản này không nhất
thiết phải nhìn thấy được và không nhất thiết phải được thể hiện trên sổ sách
hoặc tài khoản của con nợ. Tài sản cầm cố cũng là một tài sản trong khối tài
sản phá sản [xem 16 và 23].
Về tài sản mà chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên của công ty
hợp danh nhận được sau ngày có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản có được tính
vào khối tài sản phá sản hay không, pháp luật của các nước có nhiều quy định
khác nhau. Pháp luật phá sản Mỹ quy định tài sản phá sản bao gồm cả những
tài sản có được trong vòng 180 ngày kể từ ngày có đơn khởi kiện do thừa kế
qua chúc thư, được chia, được thừa kế; là kết quả của một phán quyết về hôn
nhân; giải quyết vụ việc đối với người hôn phối; hay theo một hợp đồng bảo
hiểm hoặc những thoả thuận tương tự [42, Tr.20]. Pháp luật phá sản Nhật Bản
lại coi những tài sản con nợ có được trong giai đoạn giữa thời điểm đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản đối với con nợ và ngày ban hành quyết định giải quyết
đơn thuộc về khối tài sản phá sản, còn tài sản con nợ có được sau khi bắt đầu
vụ kiện phải được miễn trừ khỏi khối tài sản phá sản với ý nghĩa nhằm tạo
cho con nợ một sự khởi đầu mới.
So với các quy định của các nước, Luật phá sản (2004) đã có những sự
tương đồng khá cơ bản trong việc xác định khối tài sản của doanh nghiệp mắc
nợ. Phạm vi khối tài sản cũng bao gồm các tài sản, quyền tài sản mà doanh

nghiệp có tại thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Các tài
sản này được chứng minh trên các tài liệu kế toán và giấy tờ khác chứng nhận


15

về tài sản của doanh nghiệp. Khối tài sản cũng không chỉ bao gồm tài sản thực
có tại thời điểm mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản mà còn cả những tài
sản và quyền tài sản phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc, như tài sản
phát sinh trong quá trình doanh nghiệp thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh hay thanh lý tài sản, tài sản thu hồi được do các giao dịch vô
hiệu[11, Tr.60].
Tuy nhiên, quan niệm về khối tài sản phá sản, Luật phá sản (2004) chưa
làm rõ các khái niệm: Giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản (Điều 35), Khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản (Điều 43). Nếu theo quy định tại Điều 35 thì tài
sản còn lại của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có phải là khối tài
sản của doanh nghiệp sau khi đã loại trừ các tài sản bảo đảm cho các nghĩa
vụ? Theo chúng tôi, tài sản còn lại của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản không bao gồm tài sản bảo đảm cho các nghĩa vụ là hợp lý, vì Điều 35
cũng quy định, nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì
phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp. Mặt
khác, nếu cho là tài sản còn lại của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
bao gồm cả các tài sản bảo đảm cho các nghĩa vụ thì quyền thu hồi nợ của các
chủ nợ có bảm đảm sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, không khuyến khích các giao
dịch về vốn.
Như vậy các văn bản hướng dẫn cần thống nhất, làm rõ các khái niệm
tài sản của doanh nghiệp và khái niệm tài sản còn lại của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản.
1.2. X lý ti sn ca doanh nghip lõm vo tỡnh trng phỏ sn th tc thanh toỏn n c bit

Không như trong những vụ kiện đòi nợ đơn thuần, xử lí tài sản của
doanh nghiệp phá sản là một vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, có thể kéo theo
nhiều hậu quả nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các chủ nợ,
bản thân doanh nghiệp mắc nợ và người lao động. Vì vậy, để bảo vệ lợi ích
chính đáng của những người liên quan cũng như trật tự kỉ cương xã hội thì xử
lí tài sản của doanh nghiệp phá sản phải là một thủ tục thanh toán nợ đặc biệt
khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường.


16

1.2.1. Xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một
thủ tục thanh toán nợ tập thể
Điều này thể hiện qua các điểm sau:
- Trong quá trình giải quyết phá sản, tất cả các chủ nợ đều có quyền
tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh toán nợ. Sau khi quyết định mở thủ tục
phá sản được đăng báo, các chủ nợ có quyền gửi giấy đòi nợ đến Tòa án trong
thời hạn nhất định, trong đó nêu cụ thể các khoản nợ, số nợ đến hạn và chưa
đến hạn, số nợ có bảo đảm và không có bảo đảm, giấy tờ chứng minh. Tòa án
sẽ căn cứ vào các tài liệu này để lập danh sách chủ nợ. Các chủ nợ có quyền
khiếu nại để sửa đổi, bổ sung danh sách này. Gửi giấy đòi nợ là một thủ tục
bắt buộc. Chủ nợ không gửi giấy đòi nợ đúng hạn hoặc không có lý do chính
đáng sẽ bị xem như đã từ bỏ quyền đòi nợ của mình. Việc xử lý tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ dựa trên danh sách này.
- Xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được thực
hiện theo thủ tục tư pháp nhất định, bảo vệ quyền lợi cho tất cả trong số đó,
thay vì mạnh ai nấy đòi. Kể từ khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh
nghiệp mắc nợ không được thanh toán bất kỳ khoản nợ riêng nào nếu không
được sự đồng ý của Thẩm phán. Chủ nợ cũng không thể đơn phương yêu cầu
doanh nghiệp mắc nợ thanh toán cho mình. Mọi hành vi nhằm trốn tránh nợ,

tẩu tán tài sản của doanh nghiệp mắc nợ đều bị nghiêm cấm.
- Khác hẳn với thủ tục kiện đòi nợ dân sự bình thường, một thiết chế
đặc biệt được tổ chức ra trong quá trình giải quyết phá sản, đó là Hội nghị chủ
nợ. Hội nghị chủ nợ có những quyền hạn đặc biệt để bảo vệ quyền lợi của
chính các thành viên như: bầu ra người đại diện trong Tổ quản lý, thanh lý tài
sản, đề nghị Thẩm phán quyết định cử người thay thế để quản lý và điều hành
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thủ tục
thanh lý tài sản cũng sẽ được quyết định mở trong trường hợp đặc biệt, khi
không đủ số chủ nợ nhất định tham gia Hội nghị chủ nợ (Điều 79 - Luật phá
sản (2004). Như vậy, các chủ nợ có mối liên hệ mật thiết với thủ tục xử lý tài
sản trong doanh nghiệp. Điều này cũng cho thấy tính tập thể trong thủ tục giải
quyết các vụ phá sản doanh nghiệp.


17

- Thủ tục thanh toán tài sản (thủ tục xử lý tài sản) không được áp dụng
riêng rẽ đối với từng chủ nợ mà được áp dụng đối với tập thể chủ nợ. Vì vậy,
thủ tục thanh toán nợ này có thể coi là thanh toán nợ tập thể.
Sở dĩ thủ tục xử lí tài sản của doanh nghiệp phá sản được quy định là
một thủ tục thanh toán nợ tập thể vì:
- Khi Toà án ra quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
không phải tất cả các chủ nợ đều được thanh toán đầy đủ các khoản nợ của
mình. Do đó, thủ tục xử lí tài sản của doanh nghiệp phá sản phải được tiến hành
tập thể để bảo đảm quyền lợi công bằng cho mọi chủ nợ. Công bằng ở đây
không có nghĩa là cào bằng tất cả mà một số chủ nợ có quyền được ưu tiên hơn
những chủ nợ khác theo thứ tự luật định trên cơ sở tính chất của các khoản nợ.
Chính vì thế, tính chất công bằng trong thủ tục này là đảm bảo thông tin đến
được với các chủ nợ là như nhau, đảm bảo được vị trí của các chủ nợ trong trình
tự tố tụng. Pháp luật của một số nước còn quy định nguyên tắc công khai đảm

bảo cho tất cả những người có liên quan đến vụ phá sản đều được cung cấp
thông tin một cách đầy đủ. Công bằng còn thể hiện ở chỗ các chủ nợ ở trong
những điều kiện như nhau thì được giải quyết quyền lợi như nhau. Một chủ nợ
có bảo đảm phải được giải quyết quyền lợi như những chủ nợ có bảo đảm khác.
Một chủ nợ không có bảo đảm cũng phải được giải quyết quyền lợi như các chủ
nợ không có bảo đảm khác [27, Tr.6]. Do đó, các nước đều quy định là các chủ
nợ không có bảo đảm được trả nợ theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để
thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của
mình, nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ
chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỉ lệ tương ứng.
- Nếu từng chủ nợ tự đi đòi nợ sẽ có hiện tượng mạnh ai nấy đòi, do đó,
quyền lợi của các chủ nợ khác dù là chính đáng cũng không được đảm bảo. Vì
vậy, cần phải có một thủ tục mang tính tập thể, là thủ tục xử lí tài sản của
doanh nghiệp phá sản, thay thế cho quyền đòi nợ riêng lẻ của từng chủ nợ, bảo
đảm quyền lợi chính đáng cho các chủ nợ.
1.2.2. Thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn
lại của doanh nghiệp


18

Mặc dù việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở tài sản
còn lại của doanh nghiệp, nhưng không có nghĩa là nợ bao nhiêu thì trả bấy
nhiêu như trong các vụ kiện đòi nợ dân sự. Nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ
sẽ chấm dứt sau khi dùng toàn bộ tài sản của mình để trả nợ, mặc dù có thể
chưa thanh toán đủ cho các chủ nợ. Đối với pháp nhân, khi hoàn thành nghĩa
vụ này cũng đồng thời chấm dứt sự tồn tại của pháp nhân đó nên việc xoá nợ
đối với doanh nghiệp bị phá sản là đương nhiên. Với doanh nghiệp tư nhân
cũng tương tự dù điều này là không hợp lí. ở úc, sau thời hạn 3 năm kể từ ngày
có quyết định tuyên bố phá sản nếu xuất hiện tài sản mới thì người bị tuyên bố

phá sản vẫn có trách nhiệm bằng tài sản đó mà tiếp tục trả nợ.
Luật phá sản doanh nghiệp (1993) không quy định thời hạn chịu trách
nhiệm trả nợ của chủ doanh nghiệp tư nhân nên sau khi bị tuyên bố phá sản,
nếu phát sinh tài sản mới vẫn không phải thanh toán nợ. Vì vậy, một số doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân đã lợi dụng thủ tục này để xin
giải quyết phá sản nhằm được xoá nợ và trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Để khắc
phục điểm bất cập này, Luật phá sản (2004) đã quy định: đối với trường hợp
phá sản của doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh, chủ doanh nghiệp,
thành viên hợp danh của công ty có nghĩa vụ phải tiếp tục trả nợ sau khi doanh
nghiệp đã giải thể, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (Điều 90). Quy
định này phù hợp với chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp
trong hai loại hình doanh nghiệp này.
Tính chất đặc biệt của thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản còn thể hiện ở chỗ, không có con nợ nào được quyền thanh
toán riêng rẽ mà không được sự cho phép của Thẩm phán. Kể từ khi có quyết
định mở thủ tục giải quyết phá sản, mọi giao dịch liên quan đến tài sản của
doanh nghiệp phải được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của Thẩm phán và Tổ
quản lý, thanh lý tài sản. Tài sản của doanh nghiệp được kiểm kê và quản lý
theo một thủ tục nhất định, đảm bảo bảo toàn tài sản và gia tăng tài sản một
cách hợp pháp để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và con nợ.


19

Các khoản nợ của doanh nghiệp được phân chia theo một thứ tự và tỉ lệ
nhất định: nợ có bảo đảm; phí phá sản; nợ lương, các khoản trợ cấp cho người
lao động; các khoản nợ không có bảo đảm.
Việc thanh toán này được thực hiện lần lượt theo thứ tự, từ hàng nọ
xuống hàng kia. Đến hàng nào mà số tài sản còn lại không đủ thanh toán thì
sẽ được chia theo tỉ lệ nợ của từng chủ nợ đến hết giá trị tài sản thì thôi (Điều

37 - Luật phá sản).
Sau khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, tất cả các khoản nợ chưa
thanh toán được coi là đã thanh toán (trừ trường hợp là chủ của doanh nghiệp
tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh). Con nợ chấm dứt sự tồn
tại của mình.
1.2.3. Thanh toán các khoản nợ chỉ được tiến hành sau khi có quyết
định của Toà án
Trong vụ kiện đòi nợ dân sự thông thường, thời điểm thanh toán các
khoản nợ có thể diễn ra bất kỳ lúc nào, theo phương thức do hai bên lựa chọn.
Tòa án hạn chế tối đa sự can thiệp vào quá trình giải quyết của các bên đương
sự. Còn trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, việc thanh toán các
khoản nợ được chỉ được tiến hành sau khi có quyết định của Toà án. Đó là các
quyết định thanh lý tài sản hoặc quyết định cho phép con nợ thanh toán một số
khoản nợ nhất định trong quá trình phục hồi kinh doanh. Chỉ khi Tòa án cho
phép, con nợ mới được thanh toán cho các chủ nợ.
Tóm lại, thủ tục thanh toán nợ (xử lí tài sản của doanh nghiệp phá
sản) được pháp luật phá sản nói chung và Luật phá sản (2004) nói riêng
quy định có những đặc điểm rất khác biệt so với thủ tục thanh toán nợ
thông thường trong dân sự, thương mại. Điều này xuất phát từ bản chất
của phá sản là mang lại sự phân chia công bằng các tài sản không đủ trả
nợ của bên mắc nợ cho các chủ nợ.


20

1.3. Vai trũ ca x lý ti sn ca doanh nghip lõm vo tỡnh trng
phỏ sn
1.3.1. Bảo vệ quyền lợi của chủ nợ
Phá sản, cho dù là ở các doanh nghiệp lớn hay nhỏ, đều gây ra những
hậu quả nhất định. Nhà đầu tư có nguy cơ mất một phần hay toàn bộ khoản

đầu tư vào doanh nghiệp. Điều này sẽ gây tâm lý hoang mang, không ổn định
cho giới đầu tư và không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của họ. Do đó, xu
hướng tất yếu là các chủ nợ sẽ mạnh ai nấy đòi, các chủ nợ chậm chân sẽ trở
thành người ngoài cuộc. Về phía doanh nghiệp, do số tài sản của doanh nghiệp
là không đủ trả các khoản nợ, chủ doanh nghiệp cũng có nguy cơ mất toàn bộ
sản nghiệp kinh doanh. Do đó, cũng rất dễ dẫn đến hành vi tìm mọi cách tẩu
tán tài sản, thậm chí có trường hợp còn câu kết với một số chủ nợ, người thứ
ba để tìm cách trốn tránh các khoản nợ. Trong trường hợp đó, quyền lợi của
các chủ nợ khác cũng có nguy cơ bị xâm hại.
Là một công cụ pháp lý rất quan trọng đảm bảo cho sự vận hành của nền
kinh tế thị trường, pháp luật phá sản sẽ giải quyết các vụ phá sản theo một trình tự
chặt chẽ, đảm bảo bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ tối đa. Nó góp phần khuyến
khích chủ nợ cho vay tiền do cảm thấy yên tâm vì pháp luật sẽ bảo vệ quyền được
thanh toán của họ và họ có thể ước tính chính xác mức độ rủi ro xảy ra. Pháp luật
phá sản đặt ra các quy định nhằm kiểm soát được tài sản của doanh nghiệp phá sản
và các giao dịch có liên quan, tránh hiện tượng tẩu tán tài sản.
Các chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án ra các quyết định cần thiết nhằm
bảo toàn tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Đây là một
điểm mới, tiến bộ của Luật phá sản (2004). Rõ ràng quy định này là hợp lý, vì
chủ nợ là những người có lợi ích và mối quan tâm trực tiếp đến tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, do đó, họ có quyền và có khả năng
giám sát đối với các tài sản này để đảm bảo quyền lợi của mình. Chủ nợ
không có bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch của doanh
nghiệp là vô hiệu (Điều 44); các chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết
định đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản (Điều 45).


21


Ngoài ra, Luật phá sản (2004) cũng quy định các trường hợp giao dịch
vô hiệu, các biện pháp bảo toàn tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm, chính là
để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, tránh việc thất thoát, tẩu tán tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, làm hao hụt khối tài sản phá sản.
1.3.2. Bảo vệ quyền lợi của con nợ, đem lại cơ hội cho con nợ rút lui
khỏi thương trường một cách trật tự
Bản chất của kinh doanh là có độ mạo hiểm, rủi ro nhất định. Việc
thua lỗ, không trả được nợ đến hạn hầu hết không phải là do doanh nghiệp cố
ý nhằm chiếm đoạt tài sản của các nhà đầu tư, mà đa số là do các nguyên
nhân khách quan như: thiên thai, thảm họa, rủi ro trong kinh doanhĐó là
lý do pháp luật phá sản nói chung và xử lý tài sản trong doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản có mục đích là đảm bảo quyền rút lui có trật tự ra
khỏi thương trường cho doanh nghiệp khi sa cơ lỡ vận. Điều này cũng góp
phần bảo vệ quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, vì doanh nghiệp có
thể tự do tham gia vào thương trường thì cũng có quyền rút lui có trật tự khi
không còn đủ khả năng tồn tại nữa.
Vì vậy, để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, bảo vệ
quyền lợi chính đáng của họ, pháp luật phá sản quy định nhiều nội dung bảo
vệ quyền lợi của con nợ.
Trước hết, đó là chỉ thanh toán nợ trong phạm vi tài sản còn lại của con
nợ: Sau khi thanh toán hết tài sản này, các khoản nợ chưa được thanh toán coi
như đã được thanh toán. Con nợ được giải phóng khỏi trách nhiệm đối với các
khoản nợ này trừ một số đối tượng đặc biệt do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn
như chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
Mặt khác, không chủ nợ nào có quyền gây áp lực đòi nợ riêng rẽ. Sau
khi có quyết định mở thủ tục phá sản, mọi giao dịch đều phải chịu sự giám sát
của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Các chủ nợ không thể tùy tiện
yêu cầu doanh nghiệp mắc nợ thanh toán riêng rẽ các khoản nợ mà không
được sự đồng ý của Thẩm phán.
Doanh nghiệp mắc nợ cũng được bảo vệ quyền lợi của mình thông qua

người đại diện tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản (Điều 9 - Luật phá sản).


×