Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Mâu thuẫn trong việc phát triển nền nông nghiệp bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.22 KB, 29 trang )

CAO ĐẲNG THỰC HÀNH FPT POLYTECHNIC

ASSIGNMENT
CHÍNH TRỊ
VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN ĐỂ PHÂN TÍCH NHỮNG
MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN NÔNG
NGHIỆP BỀN VỮNG Ở ĐĂK LĂK HIỆN NAY

Mã môn: VIE1024
Lớp: PTCT1
Nhóm: 02






Nguyễn Công Thắng
Phạm Trọng Tuấn
Võ Văn Triệu
Đỗ Quốc Bảo
Hoàng Văn Lưu

GVHD: Bùi Thanh Chung

Buôn Ma Thuột, tháng 10 năm 2018
MỤC LỤC

– PK00831
– PK00680
– PK00846


– PK00871
– PK00827


2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong chiến lược phát triển nền kinh tế Việt Nam, ưu tiên phát triển và xây
dựng nền nông nghiệp bền vững là mối quan tâm thường xuyên trong chính sách của
Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua, Đắk Lắk luôn chú trọng đến quá trình thúc
đẩy phát triển nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động nông thôn, từng bước nâng cao dân trí, thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu... Tuy
vậy, so với thế mạnh và nhiệm vụ đặt ra vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém cần khắc phục,
giải quyết. Nói chung, phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là một vấn đề
cấp thiết, nổi lên hàng đầu nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Thực hiện mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của người dân nông thôn. Tạo sự chuyển biến nhanh hơn đối với các vùng khó
khăn, xây dựng nông nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng bền vững. Để tiếp tục nâng
cao vai trò và thúc đẩy phát triển nông nghiệp Đắk Lắk, trong những năm tới đòi hỏi
tỉnh cần thiết phải nghiên cứu các giải pháp có tính khoa học và thực tiễn cao.
Cây cà phê gắn liền với đời sống của người dân ở Tây Nguyên và giữ vị trí đặc
biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Tây Nguyên. Trong nhiều
năm qua, cây cà phê là một trong những sản phẩm chính làm thay đổi thu nhập và mức
sống của đa số người dân Tây Nguyên. Nhưng việc phát triển cà phê ở Tây Nguyên
cũng đang đối mặt với những khó khăn, thách thức trước mắt cũng như trong dài hạn.
Để cà phê Tây Nguyên có thể phát triển mạnh mẽ hơn, vươn ra khỏi quy mô hiện tại,
đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và lâu dài.
Từ những lý do trên, nhóm chúng tôi chọn đề tài "Xây dựng nền nông nghiệp
bền vững ở tỉnh Đắk Lắk" để làm báo cáo cuối môn Chính trị. Mục tiêu trọng tâm của

đề tài này hướng vào việc đưa ra giải pháp và xây dựng một nền nông nghiệp bền
vững cho cây cà phê ở Tây Nguyên.

3


CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT MÂU THUẪN.
1.
1.1.

Khái quát về nội dung của quy luật mâu thuẫn.
Một số khái niệm cơ bản và các tính chất của quy luật mâu thuẫn.
1.1.1. Các khái niệm của quy luật mâu thuẫn.
1.1.1.1.
Mâu thuẫn là gì?
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và mang tính phổ biến, là nguồn gốc của
sự vận động và phát triển.
Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ nhận mâu thuẫn bên trong
của sự vật hiện tượng, chỉ thừa nhận có sự đối kháng, sự xung đột bên ngoài giữa các
sự vật hiện tượng với nhau, nhưng không cho đó là có tính quy luật.
Đấu tranh là gì?

1.1.1.2.

Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ phủ định biện chứng lẫn
nhau của các mặt đối lập (sự đấu tranh hiểu theo nghĩa tác động ảnh hưởng lẫn nhau
của các mặt đối lập chứ không phải theo nghĩa đen).
Sự đấu tranh của các mặt đối lập tuyệt đối vĩnh viễn. Nó diễn ra liên tục trong
suốt quá trình tồn tại của sự vật kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi
chuyển hóa nhảy vọt về chất. Sự đấu tranh của các mặt đối lập tạo nên tính chất tự

thân, liên tục của sự vận động phát triển của sự vật. Cũng vì vật muốn thay đổi sự vật
thì phải tăng cường đấu tranh.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp diễn ra từ thấp đến
cao, gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng:
o

Giai đoạn đầu: Mâu thuẫn biểu hiện ra ở sự khác nhau của hai mặt đối lập
song không phải sự khác nhau nào cũng là mâu thuẫn mà chỉ hai mặt khác
nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể có khuynh hướng
phát triển trái ngược nhau mới tạo thành giai đoạn đầu của mâu thuẫn, trong

o

giai đoạn này sự đấu tranh chưa rõ và gay gắt.
Giai đoạn sau: Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau biến
thành đối lập, khi đó hai mặt đối lập rõ ràng, càng sâu sắc thì sự đấu tranh
giữa chúng ngày càng gay gắt và quyết liệt, nếu có điều kiện chín muồi thì
hai mặt chuyển hóa lẫn nhau và mâu thuẫn được giải quyết.

4


1.1.1.3.

Thống nhất là gì?
Khái niệm "thống nhất" trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là 2 mặt đối lập liên

hệ nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn
tại và phát triển. (ví dụ: đồng hóa và dị hóa, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong xã
hội tư bản chủ nghĩa).

Khái niện "thống nhất" trong quy luật mâu thuẫn còn đồng nghĩa với khái niệm
"đồng nhất", đó là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau
trong tất cả các hiện tượng, các quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy. Song "đồng
nhất" còn có ý nghĩa khác, đó là sự chuyễn hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập; và như
vậy sự "đồng nhất" là không tách rời với sự khác nhau và đối lập, (ví dụ liên hệ: một
vật vừa là nó vừa không phải là nó; quan điểm này hoàn toàn đối lập với quan điểm
siêu hình, phiến diện, xem sự vật mang tính đồng nhất thuần túy không có đối lập,
không có sự chuyển hóa.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không thể tách rời sự
đấu tranh bài trừ nhau, phủ định nhau giữa chúng; hình thức đấu tranh được thể hiện
trong thế giới vật chất là rất đa dạng, từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp (ví dụ:
trong thế giới tự nhiên chỉ là những tác động ảnh hưởng lẫn nhau, trong xã hội đó là
những xung đột gay gắt, quyết liệt bằng bạo lực cách mạng mới có thể giải quyết căn
bản các mâu thuẫn).
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai
đoạn với những đặc điểm riêng của nó; khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được
biểu hiện ở sự khác nhau của 2 mặt có khuynh hướng trái ngược nhau; trong quá trình
phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau đó biến thành sự đối lập, khi 2 mặt đối lập
xung đột nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi sẽ chuyễn hóa lẫn nhau, mâu thuẫn
được giải quyết; kết quả là sự thống nhất giữa 2 mặt đối lập cũ bị phá hũy, sự thống
nhất của 2 mặt đối lập mới được hình thành cùng mới mâu thuẫn mới.
Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm
thời tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện
tượng; còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá
vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hóa về chất của các sự vật hiện tượng, làm cho vật
chất luôn vận động và phát triển.
5


6



1.1.1.4.

Mặt đối lập?
Đối lập, mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có những đặc

điểm, những thuộc tính, những khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một
cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy; chính những mặt đối lập này nằm
trong sự liên hệ tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau
của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này là tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng
luôn tác động qua lại và đấu tranh lẫn nhau theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau
gữa các mặt đối lập.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
đều tồn tại mâu thuẫn bên trong; mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa
các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau, những mặt đối lập nhau
nhưng lại ràng buộc nhau nên nó tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn là hiện tượng phổ
biến; mâu thuẫn tồn tại khách quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người;
tồn tại phổ biến chẳng những ở mọi sự vật hiện tượng mà còn phổ biến trong suốt quá
trình vận động và phát triển của chúng; mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại
được hình thành.
1.1.2. Các tính chất của quy luật mâu thuẫn.
1.1.2.1.
Tính khách quan và phổ biến của quy luật mâu thuẫn.

Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong tự nhiên, xã hội và tư duy cũng tồn tại, vận
động trên cơ sở các mâu thuẫn nội tại của các mặt đối lập của nó hoặc giữa nó với các
sự vật, hiện tượng khác.

1.1.2.2.

Tính đa dạng và phong phú của quy luật mâu thuẫn.
Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác

nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, giữ vị trí
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật. Đó là mâu thuẫn
bên trong, mâu thuẫn bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối
kháng và không đối kháng...Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu
thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của
mâu thuẫn.
7


1.2.

Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển của sự
vật hiện tượng.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu hướng tác động khác

nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng
bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của
sự vật, sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự
đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa
là: sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời, sự đấu tranh của các mặt
đối lập là tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện,
tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là
tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập

quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu
thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn
bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát
triển đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ
chuyễn hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay
thế bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. V.I. Lênin
viết: “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên, không
có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện
chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và
tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và
tính thay đổi của sự vật . Do đó mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự
phát triển. [1]
1.3.
Các loại mâu thuẫn của quy luật.
1.3.1. Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài.

Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có thể phân biệt thành mâu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.

8


1.3.1.1.

Mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại của các mặt, các khuynh hướng đối

lập của cùng một sự vật.
1.3.1.2.


Mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên ngoài là sự tác động qua lại giữa những mặt đối lập thuộc các sự

vật khác nhau. Song, sự phân biệt hai mâu thuẫn này có tính tương đối, phụ thuộc vào
phạm vi quan hệ được xem xét.
1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn không cơ bản.

Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu
thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
1.3.2.1.

Mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát

triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật.
Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.
1.3.2.2.

Mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào

đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được
giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
Theo Hồ Chí Minh thì: “Khi việc gì có mâu thuẫn, khi phải tìm cách giải quyết
tức là có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải nghiên cứu cho rõ cái gốc của mâu thuẫn là
vấn đề gì. Phải điều tra, phải nghiên cứu các mâu thuẫn đó. Phải phân tách rõ ràng và
có hệ thống, phải biết rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ. Phải đề
ra cách giải quyết.”
1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu.


Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật
trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và
mâu thuẫn thứ yếu.
1.3.3.1.

Mâu thuẫn chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển

nhất định của sự vật và chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết
9


được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai
đoạn phát triển mới.Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biển hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ
bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất
định. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn
cơ bản.
1.3.3.2.

Mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn

phát triển nào đó của sự vật nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn
chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu.
1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng, mâu khuẫn không đối kháng.

Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, có thể chia mâu thuẫn trong xã hội

thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
1.3.4.1.

Mâu thuẫn đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những lực lượng xã

hội, những xu hướng xã hội có lợi ích, địa vị cơ bản đối lập nhau. Chẳng hạn như giai
cấp vô sàn với giai cấp tư sản trong xã hội tư bản. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc
và các dân tộc thuộc địa, phục thuộc. mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa vô
sản với tư sản, giữa dân tộc bị xâm lược với bọn đi xâm lược.
1.3.4.2.

Mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn không đối kháng là những mâu thuẫn giữa giai cấp, lực lượng xã

hội, xu hướng xã hội đội lập nhau về lợi ích trước mắt, tạm thời, không cơ bản. Ví dụ:
mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân về những mặt lợi ích tạm
thời, cục bộ. Ví dụ: Ngành công nghiệp cần đất nông nghiệp xây dựng xí nghiệp, còn
ngành nông nghiệp muốn giữ đất đai để phát triển trồng trọt, chăn nuôi. Hoặc là mâu
thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn.

10


1.4.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật.
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng trong thế giới phải đặt nó trong những tình
-

huống đối lập nhau.

Trong quá trình nhận thức sự vật, cần phải thấy sự tác độnng qua lại giữa các mặt
đối lập để từ đó biết được mâu thuẫn của nó và biết được nguồn gốc của sự vận

-

động phát triển.
Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét toàn diện các mặt đối lập, phải nắm được
quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển của mâu thuẫn, đánh giá đúng tính chất và

-

vai trò của mâu thuẫn trong từng giai đoạn.
Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức,

-

phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn.
Phải có biện pháp giải quyết thích hợp đối với từng loại mâu thuẫn.

11


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG NỀN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở ĐĂK LĂK HIỆN NAY
2. Khái quát quá trình xây dựng nền nông nghiệp ở Đăk Lăk hiện nay.
2.1.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Đăk Lăk.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của Đăk Lăk.

Đắk Lắk có địa hình có hướng thấp dần từ đông nam sang tây bắc: nằm ở phía

tây và cuối dãy Trương Sơn, là một cao nguyên rộng lớn, địa hình dốc thoải, khá bằng
phẳng xen kẽ với các đồng bằng thấp ven các dòng sông chính. Khí hậu toàn tỉnh được
chia thành hai tiểu vùng. Vùng phía tây bắc có khí hậu nắng nóng, khô hanh về mùa
khô, vùng phía đông và phía nam có khí hậu mát mẻ, ôn hoà. thời tiết chia làm 2 mùa
khá rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10
kèm theo gió tây nam thịnh hành, các tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 7,8,9,
lượng mưa chiếm 80-90% lượng mưa năm. Riêng vùng phía đông do chịu ảnh hưởng
của đông Trường Sơn nên mùa mưa kéo dài hơn tới tháng 11. Mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau, trong mùa này độ ẩm giảm, gió đông bắc thổi mạnh, bốc hơi lớn, gây
khô hạn nghiêm trọng. Lượng mưa trung bình nhiều năm toàn tỉnh đạt từ 1600–
1800 mm.
Rừng Đắk Lắk có diện tích và trữ lượng lớn nhất nước với nhiều chủng loại gỗ
quý hiếm, nhiều loại cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế vừa có giá trị khoa học, phân bố
trong điều kiện thuận lợi nên tái sinh rừng có mật độ khá lớn. Khoáng sản với trữ
lượng khác nhau, trong đó một số loại khoáng sản đã được xác định là sét cao lanh, sét
gạch ngói, ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có nhiều loại khoáng sản khác như vàng,
phốt pho, than bùn, đá quý… có trữ lượng không lớn phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh.
Đặc biệt có hơn 700.000 ha đất đỏ bazan có khả năng phát triển thành những vùng
chuyên canh cây công nghiệp lớn như cà phê, cao su, hồ tiêu, các loại cây công nghiệp
ngắn ngày có giá trị kinh tế cao.
Hệ thống sông suối trên địa bàn tỉnh khá phong phú, phân bố tương đối đồng
đều, tuy nhiên do địa hình dốc nên khả năng trữ nước kém, những khe suối nhỏ hầu
như không có nước trong mùa khô. Bên cạnh hệ thống sông suối khá phong phú, trên
địa bàn tỉnh hiện nay còn có rất nhiều hồ tự nhiên và hồ nhân tạo như hồ Lắk, Ea Kao,
Buôn Triết, Ea sô…[2]
2.1.2. Kinh tế - xã hội của Đăk Lăk.
12


Kinh tế.


2.1.2.1.

Kinh tế chủ đạo của Đăk Lăk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông sản,
lâm sản. Tỉnh có tiềm năng về du lịch sinh thái. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2017, tỉnh Đắk Lắk xếp ở vị trí thứ 31/63
tỉnh thành. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả
nước, với diện tích 182.343ha và sản lượng thu hoạch hàng năm đạt trên 400.000 tấn,
chiếm 40% sản lượng cả nước. Tỉnh cũng là nơi trồng bông, cacao, cao su, điều lớn
của Việt Nam. Đồng thời, là nơi phát triển các loại cây ăn trái khác, như cây bơ, sầu
riêng, chôm chôm, xoài...
Năm 2016, Đánh giá về việc thực hiện 18 chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2016
cho thấy, có 12 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra, nổi bật nhất là chỉ tiêu về tăng
trưởng kinh tế. Cụ thể, tổng sản phẩm xã hội (GRDP - theo giá so sánh 2010) khoảng
44.571 tỷ đồng, đạt 101,3% kế hoạch; tăng trưởng kinh tế 7,02%. Cơ cấu kinh tế (theo
giá hiện hành): nông - lâm - thủy sản đạt 44,81%; công nghiệp - xây dựng đạt 14,48%;
dịch vụ đạt 38,68% (kế hoạch năm 2016 tương ứng là: 43 - 44%, 16 - 17%, 36 - 37%).


Ngành nông, lâm, thủy sản ước đạt 18.892 tỷ đồng, bằng 107,6% KH, tăng
trưởng 4,25% (KH: 17.559 tỷ đồng, tăng 3,5-4%). Giá trị sản xuất của các
loại cây trồng lâu năm và hằng năm trên địa bàn tỉnh tăng khoảng 250,4 tỷ
đồng, tương ứng giá trị tăng thêm 118 tỷ đồng.



Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 4.100 tỷ đồng, bằng 97,6% kế
hoạch do HĐND tỉnh giao (kế hoạch: 4.200 tỷ đồng) và đạt 120,2% kế
hoạch Trung ương giao (kế hoạch: 3.671 tỷ đồng), tăng 20,2% so với thực
hiện năm 2015.




Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) năm 2016 thực hiện 13.750
tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2015, đạt 108,2% kế hoạch. Phấn đấu năm
2018, UBND tỉnh Đắk Lắk đề ra chỉ tiêu: Tổng sản phẩm xã hội đạt khoảng
51.480 tỷ đồng, tăng trưởng kinh tế 7,8-8%, thu nhập bình quân đầu người
41 triệu đồng, huy động vốn đầu tư toàn xã hội 27.720 tỷ đồng, tổng kim

13


ngạch xuất khẩu khoảng 600 triệu USD, thu ngân sách nhà nước khoảng
5.000 tỷ đồng.
Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo chiều hướng tích
cưc; cơ sở hạ tầng không ngừng được đầu tư, hoàn thiện; phát triển giáo dục, y tế, văn
hoá và môi trường từng bước được cải thiện, chất lượng giáo dục có nhiều chuyển biến
tích cực. Đây chính là những nhân tố thuận lợi để thúc đẩy phát triển nông nghiệp của
tỉnh.[2]
Xã hội.

2.1.2.2.

Nguồn lao động đồi dào, đa sắc tộc. Nhìn chung đồng bào các dân tộc còn
nghèo, có nơi còn thiếu đất canh tác, sản xuất; phương thức canh tác còn lạc hậu, hiểu
biết về thị trường hạn chế, tư tưởng bao cấp còn nặng nề. Người đồng bào có truyền
thống trồng trọt, thu nhặt lâm sản phụ từ rừng, chăn nuôi gia súc từ lâu đời. Cụ thể:
-

Dân cư:

o

Tính đến năm 2014, dân số toàn tỉnh Đắk Lắk đạt gần 1.834.800 người, mật
độ dân số đạt 135 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần
426.000 người, chiếm 27% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt
1.345.800 người, chiếm 73% dân số. Dân số nam đạt 894.200 người, trong khi
đó nữ đạt 877.600 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương
tăng 12,9 ‰

o

Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm
2009, toàn tỉnh Đắk Lắk có 13 Tôn giáo khác nhau chiếm 450.728 người.
Trong đó, nhiều nhất là Công giáo với 171.661 người, thứ hai là Đạo Tin
Lành với 149.526 người, thứ ba là Phật giáo với 125.698, thứ tư là Đạo Cao
Đài có 3.572 người, cùng với các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 162
người, Hồi giáo có 65 người, Bửu sơn kỳ hương có 23 người, Tịnh độ cư sĩ
Phật hội Việt Nam có ba người, Bahá'í có hai người, ít nhất là Minh Sư
Đạo, Minh Lý Đạo và Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa mỗi đạo có một người...

14


o

Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm
2009, toàn tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống.
Trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với 1.161.533 người, thứ hai là Người
Ê Đê có 298.534 người, thứ ba là Người Nùng có 71.461 người, thứ tư
là Người Tày có 51.285 người. Cùng các dân tộc ít người khác như M'nông có

40.344 người, Người Mông có 22.760 người, Người Thái có 17.135
người, Người Mường có 15.510 người.

15


-

Hành chính: Tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện bao gồm 1 thành phố, 1
thị xã và 13 huyện, được phân chia thành 184 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 20
phường, 12 thị trấn và 152 xã.[2]
2.2.
Các quan điểm xây dựng nền nông nghiệp của nước ta.
2.2.1. Quan điểm xây dựng nền nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta.

Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả bền vững trên
cơ sở phát huy những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các
vấn đề nông dân, nông thôn.
Trong điều kiện hiện nay, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại,
hiệu quả, bền vững theo quan điểm của Đảng cần được hiểu đó là nền sản xuất nông
nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Sản
xuất một số sản phẩm nông nghiệp hàng hóa ứng dụng công nghệ cao, có năng suất,
chất lượng và giá trị gia tăng cao. Đồng thời, phát triển nông nghiệp cũng tính tới
những yếu tố bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự hài
hòa về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.
Sản xuất các mặt hàng nông sản nhiệt đới từ trước tới nay vẫn là một thế mạnh
của Việt Nam. Nghị quyết của Đảng chỉ rõ: "Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và
khả năng cạnh tranh cao”. Theo đó, việc tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp phải

theo các quy hoạch, các chương trình, đề án được phê duyệt. Tập trung phát triển vùng
sản xuất hàng hóa cho từng cây, từng vùng, nhằm mục tiêu nâng tỷ trọng sản phẩm
hàng hóa, nhất là hàng hóa xuất khẩu.
Muốn đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại và sản xuất hàng hóa
lớn, đất đai là yếu tố quyết định và quan trọng hàng đầu, do đó quan điểm của Đảng là
"khuyến khích tập trung ruộng đất, phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù
hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng. Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ
giới hoá, áp dụng công nghệ hiện đại (nhất là công nghệ sinh học), bố trí lại cơ cấu cây
16


trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp,
vùng chuyên môn hoá, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn.”
Trong sản xuất nông nghiệp toàn diện, lúa gạo là mặt hàng quan trọng đối với
an ninh lương thực quốc gia và đem lại giá trị xuất khẩu cao, quan điểm của Đảng:
"giữ vững diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất
nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa sang sử dụng vào mục đích khác đi đôi với việc bảo
đảm lợi ích của người trồng lúa và địa phương trồng lúa”. Đối với các loại rau, màu,
cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế khác cũng cần mở rộng diện tích, áp dụng công
nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng. Đối với ngành chăn nuôi cần mở rộng theo
phương thức công nghiệp, bán công nghiệp với công nghệ tiên tiến. Một yếu tố quan
trọng khác đối với sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiện đại và sản xuất hàng hóa lớn
là sự hỗ trợ và đầu tư đối với nông nghiệp, Đảng ta xác định: “thực hiện gắn kết chặt
chẽ nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước, phát triển công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn, phát triển các hiệp hội nông dân, tiếp
tục đổi mới, xây dựng mô hình tổ chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ
chế thị trường; phát triển các hình thức bảo hiểm phù hợp trong nông nghiệp; đẩy
nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong tất cả các khâu của quá
trình sản xuất” [3]
2.2.2. Quan điểm xây dựng nền nông nghiệp của tỉnh Đăk Lăk hiện nay.


Phát huy hiệu quả nội lực, thu hút các nguồn ngoại lực nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế, chuyển dịch các ngành kinh tế, vùng lãnh thổ theo hướng chất lượng,
khai thác có chiều sâu các ngành, lĩnh vực kinh tế có lợi thế so sánh đi đôi với nâng
dần chất lượng các mặt xã hội.
Phát triển kinh tế Đắk Lắk theo hướng liên kết mở, hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế, trên cơ sở liên kết phát huy hiệu quả tổng hợp vùng Tây Nguyên, tham gia và
nâng dần vai trò của tỉnh trong chuỗi giá trị toàn cầu, khẳng định vị thế của tỉnh đối
với vùng Tây Nguyên, khu vực Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam và cả
nước.

17


Phát triển theo hướng tập trung ưu tiên các ngành có lợi thế, đầu tư có trọng
tâm, trọng điểm, theo chiều sâu vào các khâu, các lĩnh vực, các vùng có thể tạo hiệu
quả và sức lan tỏa, phù hợp với nguồn lực từ ngân sách nhằm huy động, lôi kéo các
nguồn lực khác tham gia đầu tư phát triển gắn với ban hành đồng bộ các chính sách
khuyến khích. Trong đó tập trung ưu tiên đầu tư vào hạ tầng nông nghiệp, nông thôn,
phát triển nhân lực.
Phát triển theo hướng bền vững gắn phát triển kinh tế đi đôi với nâng dần chất
lượng các mặt xã hội, đảm bảo môi trường sinh thái. Chú trọng hỗ trợ phát triển sinh
kế và hạ tầng xã hội cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít
người, giảm nghèo bền vững nhằm thu hẹp khoảng cách thụ hưởng đời sống văn hóa,
xã hội giữa các khu vực trong tỉnh. Gắn Mục tiêu kinh tế với các Mục tiêu bảo vệ môi
trường, ứng phó biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai.
Kết hợp giữa phát triển kinh tế với giữ vững quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự
an toàn xã hội. Xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc,
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.[4]
Thực trạng nền nông nghiệp ở Đăk Lăk hiện nay (xây dựng và phát triển cây


2.3.

cà phê bền vững).
2.3.1. Những thuận lợi trong quá trình xây dựng nền nông nghiệp bền vững ở Đăk Lăk
2.3.1.1.

hiện nay (xây dựng và phát triển cây cà phê bền vững).
Chính sách phát triển cây cà phê bền vững của Nhà nước và tỉnh ta.
Cà phê là một trong những ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta.

Ðồng thời là một ngành có vị trí quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội của đông
đảo đồng bào dân tộc Tây Nguyên, gắn với an ninh - quốc phòng của đất nước. Những
năm qua, ngành cà phê đã có những bước phát triển nhanh và mạnh, đưa Việt Nam trở
thành nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Nhưng, sự phát triển đó chưa mang
tính bền vững, vì vậy Nhà nước nói chung và tỉnh Đăk Lăk nói riêng đã xây dựng và
đưa ra Nghị quyết về phát triển cà phê bền vững của tỉnh Đăk Lăk đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 với các nội dung như sau:


Quan điểm và định hướng phát triển cà phê bền vững của tỉnh Đăk Lăk đến năm
2030.
18


+

Phát triển cà phê phải dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế đất đai,
nguồn nước, khí hậu, thời tiết theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu


+

thị trường, hiệu quả và bền vững.
Phát triển cà phê theo hướng tập trung đầu tư thâm canh, áp dụng khoa học,
công nghệ tiên tiến phù hợp để tạo năng suất cao, chất lượng, hiệu quả tốt,
tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm cà phê trên thị trường, tiến tới phát

+

triển sản xuất cà phê hữu cơ.
Phát triển công nghiệp chế biến cà phê, cơ cấu sản phẩm đa dạng, chất lượng
cao gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu, nhằm nâng cao giá trị gia

+

tăng.
Phát huy mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của nhà nước,
để đảm bảo sản xuất hiệu quả, bền vững tại các vùng sản xuất cà phê theo quy
hoạch, ưu tiên vùng sản xuất cà phê có chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột;
Giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế, xã hội gắn với bảo vệ môi trường và đảm



bảo giữ vững trật tự xã hội, an ninh quốc phòng.
Mục tiêu:
+ Mục tiêu chung: Xây dựng ngành cà phê tỉnh Đắk Lắk phát triển theo hướng
bền vững, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, mang lại giá trị gia
tăng cao, tiến tới phát triển sản xuất cà phê hữu cơ. Tập trung các nguồn lực,
chính sách đầu tư cho các vùng sản xuất cà phê theo quy hoạch, ưu tiên vùng
có chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột. Đổi mới tổ chức sản xuất, đẩy mạnh

liên kết dọc, liên kết ngang trong ngành hàng. Ưu tiên ứng dụng khoa học
công nghệ cao vào các khâu sản xuất, chế biến và tổ chức quản lý sản xuất;
Nâng cao thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp, quản lý tốt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái và ứng phó hiệu quả với biến
+

đổi khí hậu.
Mục tiêu cụ thể:
• Sản xuất cà phê:
o Giai đoạn 2016-2020: Giảm dần diện tích còn 180.000 ha và sản
lượng bình quân 450.000 tấn/năm; Đến 2030, diện tích ổn định
170.000 ha - 180.000 ha, sản lượng bình quân đạt từ 476.000 504.000 tấn/năm; Năng suất bình quân đến năm 2020 đạt 2,5 tấn/ha,
năm 2030 đạt 2,8 tấn/ha.

19


o

Giai đoạn 2016-2020 tái canh 32.335 ha cà phê, bình quân mỗi năm
tái canh trên 6.000ha/năm. Giai đoạn 2020-2030 tái canh từ 1.000

o

ha/năm - 1.500 ha/năm.
Quản lý tốt chất lượng cây giống để phục vụ tái canh cà phê đạt hiệu
quả: Đảm bảo đến năm 2020, 70% diện tích cà phê tái canh ghép cải
tạo và trồng mới sử dụng giống cà phê mới (có năng suất, chất lượng
cao). Đến năm 2030: 90% diện tích cà phê tái canh sử dụng giống mới


o

có chất lượng.
Quản lý và sử dụng nguồn nước hợp lý: Giai đoạn 2016 - 2020 có 7580% diện tích cà phê chủ động được nước tưới, có 10.000 ha ứng
dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm. Định hướng đến năm 2030 có 8590% diện tích cà phê chủ động được nước tưới và 20.000 ha tưới nước

o

tiết kiệm.
Áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất cà phê bền vững theo yêu cầu của
thị trường trong nước và thế giới: Đến năm 2020 có khoảng 80% diện
tích cà phê được áp dụng quy trình sản xuất cà phê bền vững có chứng
nhận. Định hướng đến năm 2030 có 90% diện tích cà phê áp dụng quy

o


trình kỹ thuật sản xuất cà phê bền vững.
Xây dựng 2 đến 3 mô hình sản xuất cà phê hữu cơ, tiến tới nhân rộng

mô hình.
Thu hoạch và chế biến.
o Đến năm 2020: 80% đến 85% sản lượng cà phê được thu hái, phơi sấy
o

và bảo quản theo đúng quy trình kỹ thuật hiện hành.
100% cơ sở chế biến cà phê nhân xuất khẩu tuân thủ đúng Quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia: Cơ sở chế biến cà phê đạt điều kiện đảm bảo vệ

o


sinh an toàn thực phẩm.
Ít nhất 03 doanh nghiệp chế biến cà phê nhân xuất khẩu, chế biến sâu

o

áp dụng công nghệ và quy trình quản lý tiên tiến.
Tỷ lệ chế biến sâu (cà phê bột, cà phê hòa tan, các loại cà phê khác
biệt khác theo thị hiếu của thị trường ....) đạt từ 8-10% sản lượng của

o

niên vụ.
Định hướng đến năm 2030: Sản lượng cà phê được chế biến sâu đạt từ
15% đến 20% sản lượng cà phê của niên vụ. Tỷ lệ sản lượng cà phê
được thu hái, phơi sấy và bảo quản đạt tiêu chuẩn nâng lên từ 85%
đến 95%.
20




Thương mại và quảng bá sản phẩm.
o Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh sản
o

phẩm đặc trưng của địa phương; phát triển thị trường tiêu thụ nội địa.
Đến năm 2020 kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt bình quân 600 triệu
USD/năm đến 650 triệu USD/năm. Định hướng từ sau năm 2020,
phấn đấu kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt từ 700 triệu USD/năm


o

đến 800 triệu USD/năm.
Phát triển thương hiệu, bảo hộ, bảo vệ và tăng diện tích cà phê có chỉ
dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột; Phát triển các nhãn hiệu mạnh của



doanh nghiệp.
Tổ chức và quản lý sản xuất.
o Đến năm 2020: Hỗ trợ phát triển 30 Hợp tác xã nông nghiệp (bao gồm
số Hợp tác xã hiện có và thành lập mới) tại các vùng sản xuất cà phê.
Hỗ trợ thành lập ít nhất 10 tổ hợp tác sản xuất cà phê bền vững tại



o

vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Củng cố các liên minh sản xuất cà phê bền vững đã có và xây dựng 03

o

liên minh sản xuất cà phê theo chuỗi giá trị.
Phát huy hiệu quả hoạt động của Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột là

đầu mối kết nối các tác nhân trong ngành hàng.
Kinh phí thực hiện:
+ Tổng kinh phí thực hiện: 2.939 tỷ đồng (Hai nghìn, chín trăm ba mươi chín tỷ

đồng), trong đó:
• Nguồn vốn ngân sách tỉnh: 15 tỷ đồng.
• Nguồn vốn từ doanh nghiệp và nông dân: 2.653 tỷ đồng.
• Nguồn vốn từ dự án hỗ trợ chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT):
271 tỷ đồng (IDA: 163 tỷ đồng, Chính phủ: 52 tỷ đồng, doanh nghiệp và

2.3.1.2.

nông dân: 56 tỷ đồng). [5]
Sự ưu đãi của điều kiện tự nhiên trong việc phát triển cây cà phê ở Đăk Lăk

-

hiện nay.
Địa hình cao nguyên badan rộng lớn (1,4 triệu ha diện tích đất badan), tập trung

-

thành một vùng rộng, đất tơi xốp giàu dinh dưỡng rất thích hợp với cây cà phê.
Khí hậu cận xích đạo nóng quanh năm, phù hợp với điều kiện sinh trưởng và phát
triển cây cà phê.
+ Có sự phân hóa theo độ cao: trên các cao nguyên cao 400 - 500m, khí hậu
khá nóng thuận lợi cho việc phát triển cây cà phê vối; các cao nguyên trên
1000m khí hậu mát mẻ thuận lợi để phát triển cây cà phê chè.

21


+


Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 thuận lợi cho việc bảo quản, phơi

sấy sản phẩm.
Nguồn nước trên mặt và nước ngầm phong phú, có giá trị lớn cho việc cung cấp

-

nước tưới (đặc biệt trong mùa khô).
2.3.2. Những khó khăn trong quá trình xây dựng nền nông nghiệp bền vững ở Đăk

Lăk hiện nay (xây dựng và phát triển cây cà phê bền vững).
2.3.2.1.
Chưa có sự kết hợp giữa Nhà nước – nhà doanh nghiệp – khoa học – nhà
nông.
Liên kết bốn nhà trong nông nghiệp là sự liên kết giữa nông dân với doanh
nghiệp và nhà khoa học dưới sự hỗ trợ của nhà nước nhằm gắn sản xuất với chế biến
và tiêu thụ để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, bền vững; tiến tới sản
xuất hàng hóa quy mô lớn, hiện đại.
-

Nhà nước: Tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp liên
kết sản xuất hàng hóa:
+ Tổ chức lại sản xuất dựa trên nguyên tắc gắn chặt với thị trường, quy hoạch
vùng sản xuất, cơ cấu sản phẩm, nhất là các sản phẩm chủ lực theo hướng phát
huy vai trò, thế mạnh của từng từng địa phương; tổ chức liên kết nông dân sản

-

-


+

xuất hàng hóa, tạo dựng liên kết tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi ngành hàng.
Kết nối giữ nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà nông để sản xuất và tiêu thụ

+

nông sản.
Đảm bảo lợi ích hào hòa giữa các bên tham gia; đảm bảo việc thực hiện các

điều khoản của hợp đồng khi các bên đã ký kết.
Nhà buôn:
+ Nhà Doanh nghiệp và nhà nông là hai tác nhân chính trong chuỗi ngành hàng
+
+
+
+
+
+

nông sản.
Hỗ trợ đầu vào cho nhà nông, hình thành vùng nguyên liệu sản xuất.
Mục đích theo đuổi là lợi nhuận.
Trực tiếp sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Có khả năng sản xuất những sản phẩm mà xã hội cần.
Là người cần nguồn lao động, nguyên vật liệu.
Là người nắm vững kỹ thuật sản xuất, có vốn đầu tư và sẵn sàng đầu tư để thu

+


được lợi nhuận.
Tùy từng điều kiện, nhà doanh nghiệp cung cấp giống, vật tư, kỹ thuật hỗ trợ

+

nông dân sản xuất hàng hóa.
Đồng thời, Doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm đầu ra cho nồng dân (đây là vai

trò chủ yếu).
Nhà khoa học: Nghiên cứu: các giống vật nuôi, cây trồng mới có năng suất cao,
chất lượng tốt phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng, miền; quy trình kỹ thuật
22


canh tác công nghệ cao, công nghệ chế biến bảo quản sau thu hoạch; đưa máy
móc, công cụ giải pháp sản xuất phù hợp với từng đối tượng, từng điều kiện sản
xuất để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, tạo sản phẩm đạt tiêu chuẩn
quốc gia, trong nước và khu vực.… Huấn luyện đào tạo nhà nông tiếp thu, ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật.
Nhà nông: Nông dân sản xuất hàng hóa theo yêu cầu của Doanh nghiêp. [6]
 Về cơ bản thì nhà nước đã có sự kết hợp bốn nhà như đã kể ở trên với nhau bằng các
chính sách hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy việc xây dựng liên kết giữa nông dân với các
nhà để sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa. Nhưng khi nhìn nhận thực tế thì liên
kết “4 nhà” hiện nay vẫn chưa đủ mạnh, nguyên nhân là do doanh nghiệp trong nông
nghiệp còn ít; những doanh nghiệp thực sự muốn liên kết có năng lực về tài chính, kho
tàng, cơ sở chế biến có thể liên kết và thực hiện liên kết không nhiều. Các hình thức
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phát triển chậm và nếu đã hình thành thì cũng chưa
đủ mạnh để đảm nhận vai trò trung gian gắn kết nông dân với Doanh nghiệp. Nhận
thức về vai trò của từng nhà trong liên kết “4 nhà” còn hạn chế. Quan trọng nhất vẫn là
sự kết hợp giữa “4 nhà” vẫn còn quá hời hợt, chưa chặt chẽ, bởi vì Chính quyền, cơ

quan, ban, ngành liên quan chưa mạnh dạn và vào cuộc quyết liệt để tổ chức liên kết,
hỗ trợ liên kết; chưa xây dựng được một cơ chế, chính sách phù hợp để xâu chuỗi gắn
kết “4 nhà”, xử lý vi phạm hợp đồng và chia sẻ lợi ích cũng như rủi ro của “4 nhà”.
2.3.2.2.

Việc sản xuất cây cà phê còn phụ thuộc quá nhiều điều kiện tự nhiên.
Việc sản xuất cây cà phê chủ yếu phụ thuộc vào các điều kiện thời tiết và cả ý

thức của người nông dân, và yếu tố quan trọng nhất là vốn.
Để có thể xây dựng được nền nông nghiệp cà phê bền vững ở tỉnh ta thì việc
đầu tiên cần làm là tái canh cà phê, phần lớn cà phê tại tỉnh ta được trồng từ đầu thập
niên của thế kỷ trước, đến nay đã có tuổi đời từ 25 đến 30 năm, nhiều vườn đã già cỗi,
thái hóa, năng suất, chất lượng thấp. Tuy nhiên diện tích cà phê cần tái canh khoảng
150 nghìn ha cà phê, theo tính toán thì chi phí vốn bỏ ra lên đến 30 nghìn tỷ đồng và
ba năm tiếp theo cần lượng vốn 10 nghìn tỷ đồng để phục vụ cho “một năm trồng, hai
năm chăm sóc”. [7]
Kéo theo vấn đề về vốn chính là ý thức của người nông dân về tầm quan trọng
của việc tái canh cà phê, đa phần diện tích đất canh tác cà phê ở Tây Nguyên nói

23


chung và Đăk Lăk nói riêng chủ yếu thuộc sở hữu của người đồng bào, vậy nên việc
tuyên truyền và hỗ trợ người dân là rất quan trọng.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ, ngành, UBND các
tỉnh Tây Nguyên đã ký kết trương trình cho vay tái canh cà phê. Trong đó, ngân hàng
cam kết cung ứng gói tín dụng hơn 12.500 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến nay mới giải ngân
được 758 tỷ đồng (xấp xỉ 6%). Qua tình trạng trên có thể thấy được người dân vẫn còn
quá thờ ơ với việc tái canh cây cà phê mặc dù đã được hỗ trợ vốn từ phía nhà nước,
ngân hàng,…[8]

Điều kiện tự nhiên cũng là yếu tố chủ yếu quyết định sản lượng và chất lượng
của cà phê ở Đăk Lăk. Tuy đặc thù vùng miền nơi đây rất ưu ái cho việc trồng cà phê
như đất Bazan rộng lớn, khí hậu cận xích đạo, mạng lưới nước trên bề mặt và nước
ngầm đa dạng và phong phú, nhưng diễn biến về thời tiết tại Tây Nguyên ngày càng
khó lường trong những năm gần đây, điển hình như hạn hán kéo dài khiến cho việc
tưới tiêu trở nên khó khăn khi suối khô, giếng cạn,… nhiều diện tích cà phê trở nên
héo khô, ủ rũ vì thiếu nước tưới, buộc người dân phải chi một khoảng kinh phí lớn để
khoang, đào ghiếng tìm nước, chi phí tái canh chưa trả thì, nợ mới lại phát sinh.
 Những mâu thuẫn chủ yếu như trên đã ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển cà phê

bền vững ở Tỉnh Đăk Lăk chúng ta, cần phải có những định hướng, hỗ trợ và đầu tư
toàn diện hơn để có thể phát triển bền vững cây cà phê.
2.4.

Những nguyên nhân đạt được và hạn chế trong quá trình xây dựng nền
nông nghiệp bền vững (xây dựng và phát triển cây cà phê) ở Đăk Lăk hiện

nay.
2.4.1. Những nguyên nhân đạt được trong xây dựng và phát triển cây cà phê bền vững
-

ở Đăk Lăk hiện nay.
Cà phê là cây trồng chủ lực ở Đắk Lắk, chiếm hơn 70% tổng diện tích cây công

-

nghiệp dài ngày và 33% tổng diện tích gieo trồng của tỉnh.
Trong nhiều năm tỉnh Đắk Lắk đã tập trung các nguồn lực khai thác tốt tiềm năng
đất đai, nhất là nguồn tài nguyên đất đỏ ba-dan để phát triển cây cà phê, đưa Đắk


-

Lắk trở thành thủ phủ cà phê của cả nước.
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) tỉnh
Đắk Lắk, đến nay toàn tỉnh có 203.746 ha cà phê, chiếm gần 41% diện tích cà phê
của Tây Nguyên và 30% diện tích cà phê của cả nước, với sản lượng mỗi năm đạt
từ 450.000 tấn cà phê nhân trở lên. Đây cũng là mặt hàng nông sản chiếm đến 86%
24


kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông sản, đóng góp hơn 60% tổng thu ngân
-

sách hằng năm của tỉnh.
Việc sản xuất cà phê ở Đắk Lắk còn giải quyết việc làm cho hơn 300.000 lao động
trực tiếp và hơn 100.000 lao động gián tiếp. Đời sống của những hộ đồng bào dân
tộc trồng cà phê trong tỉnh ngày càng được cải thiện, tỷ lệ hộ khá, giàu ngày càng

tăng, số hộ nghèo giảm nhanh.
2.4.2. Những nguyên nhân hạn chế.
Trong những năm giá cà phê tăng cao, người dân trong tỉnh ồ ạt trồng khiến cho
-

diện tích cà phê tăng nhanh, vượt quá quy hoạch.
Theo quy hoạch đã được UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt, đến năm 2015 diện tích
cà phê của tỉnh là 180.000 ha với sản lượng 450.000 tấn, đến năm 2020 diện tích
ổn định là 170.000 ha, sản lượng 430.000 tấn, nhưng đến cuối năm 2015 diện tích

-


cà phê của tỉnh đạt 203.746 ha, vượt hơn 23.746 ha so với quy hoạch.
Nhiều diện tích trồng không thích hợp như tầng đất nông, độ dốc lớn, thiếu nguồn
nước tưới… Trong khi đó, hệ thống thủy lợi phục vụ tưới cà phê toàn tỉnh chỉ
khoảng 46.163 ha, chiếm 25% diện tích cà phê, 75% diện tích còn lại phải sử dụng

-

nước tưới từ giếng đào, giếng khoan và bơm trực tiếp từ sông, suối.
Cơ cấu diện tích cà phê ở Đắk Lắk khá manh mún. Đến nay chỉ có khoảng hơn
10% diện tích cà phê trong tỉnh do các doanh nghiệp quản lý, gần 90% diện tích

-

còn lại do các hộ cá thể quản lý, với quy mô trung bình 0,8 đến 1 ha/hộ.
Triển khai đồng bộ những tiến bộ khoa học – kỹ thuật, đầu tư chế biến nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng cà phê từ khâu sản xuất, thu hoạch đến xuất khẩu còn

-

nhiều bất cập.
Hiện có khoảng 80% số vườn cà phê trong tỉnh được người dân trồng bằng cây
thực sinh tự ươm hạt của cây bố mẹ mà không qua chọn lọc và kiểm nghiệm của
các ngành chức năng. Do vậy, năng suất cà phê không cao, kích thước hạt nhỏ,

-

không đồng đều, chín không tập trung và dễ bị nhiễm bệnh.
Tình trạng người dân lạm dụng bón phân hóa học, phun thuốc bảo vệ thực vật,
tưới nước với lượng lớn… để đạt được năng suất tối đa, không những làm cho cây
cà phê nhanh chóng bị kiệt sức, sớm già cỗi mà còn làm cho môi trường đất bị ô


-

nhiễm nghiêm trọng, phát sinh nhiều loại sâu bệnh.
Hiện nay cà phê Robusta của tỉnh được xuất khẩu sang hơn 60 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới, nhưng việc xuất khẩu chủ yếu thông qua hình thức trung gian,
chưa tham gia giao dịch trực tiếp trên các sàn giao dịch thế giới. Các doanh nghiệp
xuất khẩu cà phê cũng chỉ áp dụng tiêu chuẩn chất lượng theo hình thức thỏa
25


×