Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

Nông thôn việt nam qua tiểu thuyết thời xa vắng của lê lựu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.26 KB, 163 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Phan Thị Quyên

Xác nhận của khoa chuyên môn

Xác nhận của người hướng dẫn

GS. Phong Lê

i


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo hướng
dẫn là GS Phong Lê - người đã tận tình hướng dẫn, động viên, tạo điều kiện tốt
nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ Văn, đặc
biệt là các thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy khoá 24 chuyên ngành Văn học Việt
Nam, các cán bộ Khoa Sau đại học trường Đại học Sư phạm- Đại học Thái
Nguyên đã dạy dỗ, tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập.
Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính
là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn


Phan Thị Quyên

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ............................................................................................................ i
Mục lục ................................................................................................................ii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ..............................................................................................
1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu............................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................
6
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................
6
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................
7
7. Cấu trúc của luận văn ......................................................................................
7
Chương 1: THỜI XA VẮNG TRONG BỐI CẢNH CHUNG CỦA TIỂU THUYẾT THỜI
KỲ ĐỔI MỚI ........................................................................ 8
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới .......................................................... 8
1.1.1. Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật......................
8
1.1.2. Tiểu thuyết nông thôn trong bức tranh chung của tiểu thuyết thời kì đổi
mới. 10
1.2. Quan điểm nghệ thuật, con đường sáng tạo của Lê Lựu và vị trí của tiểu
thuyết Thời xa vắng ...........................................................................................

20
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật..............................................................................
20
1.2.2. Con đường sáng tạo của Lê Lựu.............................................................. 21
1.2.3. Vị trí của tiểu thuyết Thời xa vắng ..........................................................
iii


23
Tiểu kết chương 1 ..............................................................................................
26
Chương 2: NÔNG THÔN TRONG THỜI XA VẮNG - NHÌN TỪ PHƯƠNG
DIỆN NỘI DUNG.......................................................................... 27
2.1. Bức tranh hiện thực cuộc sống nông thôn ..................................................
27
2.1.1. Vùng quê nghèo khó................................................................................
28
2.1.2. Vùng quê “Đất lề quê thói” .....................................................................
31

iii


2.1.3. Vùng quê chuyển mình............................................................................ 35
2.2. Người nông dân với những bị kịch và khát vọng cá nhân ......................... 39
2.2.1. Bi kịch của con người không được sống là chính mình .......................... 40
2.2.2. Bi kịch của con người được sống là mình nhưng lại đánh mất chính mình
.... 46
2.2.3. Con người với khát vọng trong tình yêu, hôn nhân................................. 49
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 54

Chương 3: NÔNG THÔN TRONG THỜI XA VẮNG - NHÌN TỪ PHƯƠNG
THỨC THỂ HIỆN........................................................................ 55
3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật............................................................ 55
3.1.1. Không gian nghệ thuật............................................................................. 55
3.1.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................................
58
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ....................................................................
61
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và hành động ..........................................
61
3.2.2. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm...................................................................
66
3.3. Giọng điệu trần thuật ..................................................................................
69
3.3.1. Giọng giễu nhại, mỉa mai ........................................................................ 70
3.3.2. Giọng chiêm nghiệm, suy ngẫm .............................................................. 72
3.4. Ngôn ngữ .................................................................................................... 74
3.4.1. Ngôn ngữ đời thường, cá tính.................................................................. 75
3.4.2. Ngôn ngữ đậm chất triết lý ......................................................................
77
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 78
KẾT LUẬN....................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 81
iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8 cho đến thời kỳ Đổi mới- thập
niên 1980, cơ bản vẫn là một nước thuần nông nghiệp, nông dân vẫn là lực

lượng cơ bản trong cấu trúc dân cư. Bởi vậy trong văn học, đề tài nông
thôn bao giờ cũng là một đề tài lớn, luôn có nhiều khoảng trống hứa hẹn và
thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ cầm bút. Với sự phản ánh hiện thực
nông thôn, từ lâu các nhà văn đã thể hiện được phần quan trọng cuộc sống,
con người Việt Nam qua các chặng đường phát triển của dân tộc. Tuy nhiên ở
mỗi thời kì cũng có những đặc trưng và ràng buộc lịch sử nhất định. Lịch sử
đã ghi danh nhiều tác giả, tác phẩm têu biểu về mảng đề tài này. Vấn đề nông
thôn và cuộc sống của người nông dân cũng luôn được Đảng và Chính phủ
quan tâm đặt lên hàng đầu, đã và đang là vấn đề thuộc định hướng An sinh xã
hội.
1.2. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đáp ứng nhu cầu đổi mới toàn
diện đất nước. Tinh thần đổi mới của Đại hội như một luồng gió mới thổi vào
đời sống văn học nghệ thuật, mở ra thời kì Đổi mới của văn học Việt Nam trên
tinh thần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật. Văn xuôi nói chung và tiểu
thuyết nói riêng viết về nông thôn vì thế cũng có những bước chuyển biến
quan trọng trong việc đổi mới tư duy và nghệ thuật biểu hiện. Đào sâu vào vấn
đề nhận thức và đánh giá lại lịch sử dân tộc, với cái nhìn thế sự, vấn đề nông
thôn và cuộc sống của người nông dân đã xuất hiện trên trang văn với những
cung bậc tình cảm, tâm trạng khác nhau. Nhà văn, nhà biên kịch Phạm Ngọc
Tiến là
người có nhiều say mê, tâm huyết ở mảng đề tài này, cho rằng: “Đất nước ta
là nông thôn. Chất dân dã của người nông dân tạo nên diện mạo cho nhân vật
có những tnh chất riêng biệt, điển hình, sinh sắc. Hình thái sinh hoạt nông
thôn dễ đưa vào tác phẩm. Đề tài nông thôn chứa đựng nhiều vấn đề về nhân
1


sinh, đổi đời, băng hoại đạo đức...” [75]. Cùng với đó là cuộc sống riêng tư, số
phận con người được quan tâm- chú ý trong nhiều chiều đã tạo ra ấn tượng
tốt, được độc giả tích cực đón nhận với thái độ trân trọng và chia sẻ.


2


1.3. Lê Lựu là một trong số những nhà văn trưởng thành trong cách mạng
và cũng là một trong số những nhà văn quan tâm đến bước chuyển mình
của đời sống nhân dân, đặc biệt là đời sống người nông dân. Nói đến nhà văn
Lê Lựu người ta thường nghĩ ngay đến Thời xa vắng, tác phẩm đưa ông trở
thành “sĩ quan” trong làng văn. Thời xa vắng là một trong những tểu thuyết
viết về nông thôn xuất sắc của văn học Việt Nam tền đổi mới. Tác phẩm đặt ra
một cách sáng rõ cái nhìn mới về nông thôn trong sự soi chiếu nhiều chiều,
đưa đến cho người đọc những khám phá, trải nghiệm riêng rất đáng ghi nhận.
Tìm hiểu Thời xa vắng của Lê Lựu, ta không chỉ hiểu thêm về bộ mặt của nông
thôn Việt Nam mà còn khẳng định vị trí, sự đóng góp của nhà văn cho sự phát
triển nền văn xuôi Việt Nam trong những năm đổi mới.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trên bình diện nghiên cứu, phê bình văn học đã có nhiều công trình, bài
viết trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến sáng tác của Lê Lựu nói chung và tiểu
thuyết Thời xa vắng nói riêng. Chúng tôi tạm chia các ý kiến thành hai loại:
những đánh giá chung về nhà văn Lê Lựu và sáng tác của ông, và những ý kiến
bàn riêng đến tiểu thuyết Thời xa vắng.
2.1. Những ý kiến chung về Lê Lựu và các sáng tác của ông
Trong sự phát triển không ngừng của văn học đương đại, Lê Lựu ngày
càng khẳng định được vị trí chắc chắn của mình trong lòng độc giả và thu
hút sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có những nhận xét độc đáo, tinh tường, khi cho
rằng: “Lê Lựu biết cuốn hút người đọc bằng một thứ văn đọc không nhạt. Ngay
ở những chuyện xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đó (...)
nghĩa là đọc anh không bị lỗ trắng, cũng bởi Lê Lựu là nhà văn không chấp
nhận sự nhạt nhẽo, tầm thường. Ở bất kì tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ, Lê

3


Lựu cũng có vấn đề gì đấy gửi gắm” [56, tr. 669].

4


Nhận xét về tiểu thuyết Lê Lựu, tác giả Lê Hồng Lâm cho thấy: Sở dĩ tác
phẩm của Lê Lựu như Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông, Hai nhà… gây được dư
luận và có chỗ đứng riêng trên văn đàn là “bởi ông luôn viết hết mình như ông
sống, yêu ghét rạch ròi và đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách nhân vật (…). Ở
mức độ nào đó, nhà văn đã tạo ra những nhân vật điển hình trong những
hoàn cảnh điển hình” [56, tr.703].
Trần Bảo Hưng cho rằng “Thô mộc hồn nhiên và đầy ắp chất sống - ngay
cả khi nghĩ ngợi triết lí cũng rất hồn nhiên, cũng là triết lí bật lên trực tếp từ
đời sống”. Ông đánh giá “Tất cả dường như đã trở thành phong cách, thành cá
tính của Lê Lựu” [28].
Ngô Thảo trong một bài viết Về truyện ngắn Lê Lựu đã nhận định: “Lê
Lựu là một người đang tìm tòi. Truyện nào của anh cũng tìm được những nét
tính cách mới, những hướng khai thác vấn đề mới” [63, 227].
Đinh Quang Tốn đưa ra nhận định về vị trí của nhà văn Lê Lựu “Nếu
trong tổng số sáu trăm hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, cứ mười người
chọn lấy một người têu biểu, thì Lê Lựu là một trong số sáu mươi nhà văn
ấy" [56, tr. 663].
Những ý kiến trên đều thống nhất đề cao tâm huyết của Lê Lựu
trong sáng tạo nghệ thuật, khẳng định được vị trí, phong cách trong những
sáng tác của ông, góp phần tạo nên diện mạo của văn học Việt Nam thời kì đổi
mới.
2.2. Những ý kiến bàn riêng về tiểu thuyết Thời xa vắng

Năm 1986, cuốn tểu thuyết Thời xa vắng “trình làng” đã thu hút
được sự chú ý trong dư luận và được đánh giá là một “cọc tiêu tiền trạm” của
công cuộc đổi mới văn học. Tác phẩm này nhanh chóng thu nhận nhiều ý
kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình. Cuốn Lê Lựu Tạp ăn
(2002) là một công trình tổng hợp những bài viết, những bài phê bình văn
học của Lê Lựu đối với các nhà văn, nghề văn. Đặc biệt ở phần 4 cuốn sách
5


đã tập hợp khá nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, phê bình liên quan đến
tểu thuyết Thời xa vắng. Đó là Phong Vũ với “Tiểu thuyết đầu tên của một
cây bút viết

6


truyện ngắn”, là Lê Thành Nghị với “Thời xa vắng - một tâm sự nóng bỏng”,
là Thiếu Mai “nghĩ về một “Thời xa vắng chưa xa”, Nguyễn Hòa “Suy tư từ
một “Thời xa vắng”,…
Giáo sư Phong Lê cho rằng: “Giang Minh Sài thất bại, nhưng cả xã hội thì
thắng lợi, cả xã hội đang vật vã trong những chuẩn bị cho cái “thời xa vắng” ấy
qua đi. Không còn bi kịch của Giang Minh Sài, cho những Giang Minh Sài
khác được sống là mình ngay từ đầu…Thời xa vắng là “sự đón nhận trước yêu
cầu nhìn thẳng vào sự thật và nhận thức lại lịch sử được đề ra với Đại hội VI,
cuối năm 1986” [38].
Tác giả Nguyễn Hòa nhận thấy Thời xa vắng là sự: “đi tìm lại những chân
giá từng bị đánh mất, từng bị lãng quên”. “Viên đại bác Thời xa vắng khoan
thủng các tấm màn vô hình che giấu nhiều điều lâu nay chúng ta không rõ tới.
Quá khứ đâu chỉ là chiếc bánh ngọt ngào mà có cả vị đắng cay” [27].
Bàn về vấn đề nông thôn trong sáng tác của Lê Lựu, Trần Đăng Khoangười vô cùng quý mến Lê Lựu đã có những nhận xét xác đáng về cuốn tiểu

thuyết này: “Lê Lựu đã dựng lên một loạt bức tranh nông thôn đặc sắc.
Có nhiều trang đạt chuẩn Nam Cao. Có thể nói tắt từ Nam Cao qua một chút
Kim Lân đến Nguyễn Khắc Trường và Lê Lựu, chúng ta mới lại có nhà văn nông
thôn thứ thiệt” [56, tr. 677].
Hoàng Ngọc Hiến trong bài “Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu” đăng trên Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, số 4, năm 1987 đã nhận định vấn đề số phận cá nhân,
số phận người nhà quê trước những biến động của xã hội, cụ thể là cuộc
đời, số phận của nhân vật Giang Minh Sài. Theo ông thì anh nông dân Giang
Minh Sài “người nhà quê” của Lê Lựu phải chịu hai lần khốn khổ, vừa
xung đột với hệ tư tưởng gia trưởng, vừa xung đột với thành phố ở bộ
phân phức tạp nhất của nó là đàn bà, con gái” [26, tr. 119]; vậy nên
cuộc
sống của Sài mới bế tắc, vướng vào hết bi kịch này đến bi kịch khác. Và từ
câu chuyện trên, Hoàng Ngọc Hiến đặt ra những vấn đề bức xúc của xã hội :
“Lê Lựu chỉ đụng đến đề tài “người nhà quê và đô thị” một cách ngẫu nhiên:
7


chỉ là câu chuyện thương tâm một “anh nhà quê” chơi trèo với thành phố bị
hại. Trên đất nước ta sau khi thống nhất, không phải cán bộ tếp quản
nào

8


cũng trở thành chủ của thành phố, không ít “người nhà quê” khi tếp xúc với
đô thị đã bị hại hoàn toàn, sống dỡ chết dở, điêu đứng bi thảm, sự thất
bại của họ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc [26, tr. 119].
Đề tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ có
nhiều người viết, nhưng theo đánh giá của Đinh Quang Tốn thì “Lê Lựu là

người viết thành công nhất” [76, tr. 22]. “Thời xa vắng viết về hậu phương
chống Mỹ cứu nước với cả cái vui và cái buồn, cái nông nhiệt và sự non nớt,
những quầng sáng và bóng mờ, có cả nụ cười và nước mắt” [76, tr.18].
Tìm hiểu tểu thuyết Thời xa vắng, Thiếu Mai khẳng định tài năng xây
dựng nhân vật của Lê Lựu: “Lê Lựu tỏ ra hiểu nhân vật của mình đến chân tơ,
kẽ tóc, đến tận những ngọn ngành, sâu thẳm nhất của tình cảm, suy nghĩ” [48,
tr. 577].
Vương Trí Nhàn trong bài viết Một đóng góp vào việc nhận dạng con
người Việt Nam hôm nay cho rằng: “Lê Lựu chỉ nói riêng về con người,
những mối quan hệ giữa người với người. Một vấn đề muôn thủa mà cũng là
vấn đề chúng ta nói đi nói lại rất nhiều (…) làm thế nào để giúp con người
nhận thức về chính mình đầy đủ hơn từ đó tìm được cách sống hợp lí
hơn, đấy là nhiệm vụ thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay
muốn đảm nhận” [53].
Bên cạnh các nhận định khẳng định thành công về mặt nội dung cũng như
nghệ thuật của Thời xa vắng, một số ý kiến khác chỉ ra nhược điểm của Lê
Lựu về kết cấu yếu, câu chữ rối, rậm… Theo Thiếu Mai “Thời xa vắng tuy vẫn
còn những nhược điểm, còn thiếu một sự chặt chẽ, nhất quán cần thiết,
nhưng
với ưu điểm rất trội của nó, nó là một thành công, nó đóng góp vào nền văn
học đang có đà phát triển khởi sắc” [48, tr. 125].
Ngoài ra tiểu thuyết Thời xa vắng nói riêng và những sáng tác của Lê
Lựu nói chung đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều khóa luận
và luận văn tốt nghiệp. Các công trình đã tiếp cận tiểu thuyết Lê Lựu trên
các bình diện như: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật; nghệ thuật
9


trần thuật; yêu cầu nhận thức lại; các bi kịch cá nhân… Nhìn chung, các
công trình nghiên cứu về Lê Lựu đều có tiếng nói khá thống nhất, khẳng định

tài năng và tnh thần lao động miệt mài của nhà văn trên con đường tìm
tòi,

10


sáng tạo một hướng đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu hình ảnh nông thôn Việt
Nam thể hiện trong tác phẩm, mà chỉ chạm tới hoặc chỉ nói qua. Vì vậy, trên
cơ sở những công trình đã nghiên cứu, chúng tôi cố gắng tìm ra những
khoảng trống để tếp cận, tìm hiểu và xử lý đề tài với mong mỏi góp thêm
tiếng nói khẳng định hơn nữa giá trị văn chương Lê Lựu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là nông thôn Việt Nam qua
tểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. Luận văn sẽ khảo sát toàn bộ cuốn
tểu thuyết Thời xa vắng, và trong một chừng mực nhất định sẽ so sánh, đối
chiếu với những cuốn tiếu thuyết của các nhà văn viết cùng về đề tài nông
thôn trước và sau đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Người viết đi sâu tìm hiểu nông thôn Việt Nam qua tểu thuyết Thời xa
vắng của Lê Lựu.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Khẳng định vị trí của nhà văn Lê Lựu - một tác giả tiêu biểu của văn xuôi
Việt Nam thời kì tiền đổi mới, nhất là từ những năm đầu thập niên 1980 và
những đóng góp của nhà văn cho tiểu thuyết thời kì này.
Cảm thụ toàn diện hơn về hiện thực cuộc sống nông thôn Việt Nam thời kì
đổi mới, đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc trong phương thức nghệ thuật thể
hiện hình ảnh nông thôn của tiểu thuyết Thời xa vắng so với những cuốn tiểu

thuyết trước và sau đó.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến luận văn.
Làm rõ những giá trị của tác phẩm trên phương diện nội dung và nghệ
thuật.
Đánh giá, đối sánh với một số tác phẩm trước và sau thời kì đổi mới cùng
11


viết về nông thôn Việt Nam.

12


5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn, người viết kết hợp vận dụng một số phương
pháp
nghiên cứu cơ bản như sau:
Phương pháp thống kê: Thao tác thống kê mang lại rất nhiều tác phẩm
viết về đề tài nông thông qua các giai đoạn, làm cơ sở cho bước so sánh trong
quá trình triển khai nội dung. Thao tác phân loại rất quan trọng để lựa chọn ra
một nhóm tác phẩm phù hợp với đối tượng và mục đích của đề tài.
Phương pháp phân tch tổng hợp: Nắm vững đặc trưng, phương pháp
luận loại hình thể loại tiểu thuyết để khái quát bức tranh nông thôn, tìm ra và
phân tch những vấn đề chung, những biến đổi của xã hội, của con người và
những bi kịch mà con người phải chịu đựng sau luỹ tre làng.
Phương pháp so sánh: Việc sử dụng phương pháp so sánh giúp chúng
tôi có điều kiện so sánh sự chuyển hướng nghệ thuật của Lê Lựu trong thời kỳ
đổi mới cũng như những điểm nổi trội đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu so với
tiểu thuyết của các tác giả cùng thời.

6. Đóng góp của luận văn
Về mặt lí luận, với luận văn này, người viết gắng làm nổi bật nét đặc sắc
về phương thức thể hiện hình ảnh nông thôn Việt Nam trong tiểu thuyết
Thời xa vắng của Lê Lựu.
Về mặt thực tiễn, người viết muốn tìm hiểu những đóng góp mới, riêng
của Lê Lựu về nội dung phản ánh và hình thức thể hiện qua tiểu thuyết
Thời xa vắng. Thông qua đó góp phần khẳng định tài năng, vị trí của Lê Lựu
trong văn học thời kì đổi mới, đồng thời giúp người đọc có những kiến giải
sâu sắc về nhà văn này.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo. Phần Nội
dung của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Thời xa vắng trong bối cảnh chung của tểu thuyết thời kỳ đổi
mới Chương 2: Nông thôn trong Thời xa vắng- nhìn từ phương diện nội
dung Chương 3: Nông thôn trong Thời xa vắng- nhìn từ phương diện
biểu hiện
13


Chương 1
THỜI XA VẮNG TRONG BỐI CẢNH CHUNG CỦA
TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
1.1.1. Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật
Sau Đại thắng mùa xuân 1975, lịch sử dân tộc ta đã sang một trang mới,
cuộc sống thời bình đã mở ra với vô số những biến động của đời thường. Quá
trình đổi mới của đất nước mở ra những cơ hội, thuận lợi mới cùng
những thách thức, khó khăn cho sự phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật.
Yêu cầu mới của đất nước, nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn học, nghệ thuật
của nhân dân thay đổi, trong đó có những mặt cao hơn; sự thay đổi nhanh

chóng, sâu sắc trong mọi mặt đời sống xã hội tác động trực tiếp đến chính quá
trình sáng tạo, tếp nhận văn học, nghệ thuật.
Trước những biến chuyển đó của thời đại, văn học tự bản thân
cũng xuất hiện những nhu cầu đổi mới. Được cổ vũ bởi tnh thần dân chủ của
Đại hội Đảng VI, các cây bút sau 1975 đã có nhiều nỗ lực trong lao động nghệ
thuật, tạo được những hướng đi mới táo bạo, độc đáo nhằm đáp ứng nhu
cầu, thị hiếu của văn học và độc giả hiện thời. Có thể nói “chưa bao giờ văn
xuôi phát triển mạnh mẽ như bây giờ và cũng chưa bao giờ nhà văn được
thành thật như bây giờ”. Sự đổi mới của văn học được thể hiện trên nhiều
phương diện và trong nhiều thể loại.
Văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng từ sau Đổi mới đã có những
thay đổi đáng kể, với định hướng của Đảng “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”, văn chương nói chung không còn e ngại hướng
về phản ánh và biểu hiện mặt “suồng sã, thô thám, xô lệch của hiện thực”. Bức
tranh đời sống với mọi góc khuất sâu kín được đưa vào trong văn học đầy trăn
trở, phức tạp. Những sáng tạo văn học trở về với qui luật vĩnh hằng của đời
14


sống, coi tnh chân thật là phẩm chất quan trọng của văn chương nghệ
thuật.

15


Mỗi trang văn không chỉ có không khí hào hùng của những cuộc đấu tranh, với
những chiến sĩ anh dũng hi sinh hoặc chiến thắng vẻ vang; mà có cả những ngõ
cùng xóm nhỏ, những làng quê nghèo khó với những cuộc vật lộn sinh
tồn, ghen ghét đố kị, những con người rất bình thường với suy nghĩ, những
khao khát đời thường... Có những điều nhỏ bé tưởng chừng chẳng có gì

để nói, chẳng có gì đáng nói lại được những ngòi bút tài năng tái hiện trên
những trang viết đầy sinh động và ám ảnh.
Các nhà văn đón nhận nhu cầu này như một thách thức trong quá trình
sáng tạo. Không ít nhà văn trăn trở, tìm cách đổi mới tư duy nghệ thuật trong
việc phản ánh hiện thực để đáp ứng nhu cầu đổi mới văn học. Nguyễn Minh
Châu được coi là nhà văn tiên phong, người mở đầu tnh anh trong công cuộc
đổi mới văn học. Ông kêu gọi “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh họa, các nhà văn phải tự “cởi trói” trong sáng tác” [10]. Nhà văn Nguyên
Ngọc đề nghị “Phát huy đầy đủ chức năng xã hội của văn học nghệ thuật” khắc
phục tình trạng văn nghệ chỉ làm nhiệm vụ “minh họa chính trị” [50], vì cuộc
sống đâu phải phẳng lì, đơn điệu, nó phức tạp, xù xì, gai góc và đó mới là
khuôn mặt đích thực của nó. Nhiều nhà văn đánh giá lại sáng tác của
chính mình trên quan điểm đổi mới. Nguyễn Khải gọi các sáng tác của mình
trong giai đoạn 1945 - 1975 là “cái thời lãng mạn”; còn nhà văn Lê Lựu cho
rằng các sáng tác của ông trước Thời xa vắng là “văn học sự vụ”, văn học công
việc”; và tuyên bố: “Tôi tự bảo không thể viết như trước được nữa” [59].
Như vậy, những quan niệm mới mẻ về văn hóa, văn nghệ của Đảng
làm thay đổi quan điểm, nhận thức về văn học và nhận thức lại thực
tại không còn là nhu cầu của cá nhân nghệ sĩ mà còn là nhu cầu của thời đại.
Sự nhận thức lại ở đây không phải là sự phủ nhận hoàn toàn quá khứ, gạt bỏ
hết những thành quả mà chúng ta đã đạt được. Yêu cầu của sự nhận thức
lại là phải khám phá sâu hơn, toàn diện hơn về những mảng hiện thực
mà trước đây văn học chưa hoặc ít được đề cập.
16


1.1.2. Tiểu thuyết nông thôn trong bức tranh chung của tiểu thuyết thời kì
đổi
mới
Chặng đường phát triển của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói

riêng đều trải qua những quy luật phát triển nội tại trước những tác động
của bối cảnh xã hội. Đánh giá sự chuyển động đó, nhiều nhà nghiên cứu văn
học như Phong Lê, Nguyên Ngọc, Vũ Tuấn Anh, Bùi Việt Thắng... đều
thống nhất nhận định: văn xuôi nước ta từ năm 1975 đến những năm 1980
vẫn vận động và phát triển theo “quán tính” cũ, “vẫn nghiêng về sự kiện, về
sự bao quát hiện thực trong một diện rộng”; và “cảm hứng sử thi vẫn
chiếm một vị trí đáng kể trong tư duy nghệ thuật” [70]. Một số nhà văn đã
trình làng một số sáng tác ngay sau chiến tranh như: Trong cơn lốc (Khuất
Quang Thụy), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Miền cháy (Nguyễn Minh
Châu), Nắng đồng bằng (Chu Lai), Mở rừng (Lê Lựu)... Tuy nhiên, những
tác phẩm trên
cơ bản vẫn chưa thoát ra được âm hưởng, dấu ấn quen thuộc của văn
học thời kỳ trước. Đến đầu những năm 1980 mới xuất hiện một vài tiểu
thuyết với những dấu hiệu đổi mới khá rõ rệt trong cách nhìn nhận và miêu
tả hiện thực như: Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Gặp gỡ
cuối năm (Nguyễn Khải)... Nhưng phải từ năm 1986, dưới sự tác động của
bối cảnh xã hội mới và trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị
truyền thống, tiểu thuyết Việt Nam mới có những đổi mới thực sự trong
quan niệm nghệ thuật về hiện thực, về con người và những cách tân trong
kỹ thuật tiểu thuyết.
Hiện thực cuộc sống những năm đổi mới với tất cả tnh đa dạng, phức
tạp của nó đều là chất liệu cho sự sáng tạo của tiểu thuyết. Nửa sau thập
niên
1980, thập niên 1990 của thế kỷ XX, đời sống văn học xuất hiện một loạt
17


tiểu thuyết “làm cho văn đàn sôi động và sóng gió”. Và một trong những
điểm nhấn lớn nhất của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới vẫn là đề tài chiến
tranh và người lính. Khi chiến tranh đã lùi xa, con người bắt đầu làm

quen với cuộc sống đời thường, thì một số nhà văn vẫn hồi ức về chiến
tranh, về

18


những năm tháng ác liệt đã qua. Quả thực, trong chiến tranh “tất cả để chiến
thắng” song không phải “tất cả là chiến thắng”, đằng sau “tấm huy chương”
còn là bi kịch, là thảm kịch; còn là máu, là nước mắt mà “máu thấm vào lòng
đất đã sâu, sao trang giấy lòng anh suy nghĩ cạn?” (Chế Lan Viên).
Một loạt tác phẩm như Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Chim én bay
của Nguyễn Trí Huân, Nước mắt đỏ của Trần Huy Quang, Ăn mày dĩ vãng của
Chu Lai, Không phải trò đùa của Khuất Quang Thụy, Bến không chồng của
Dương Hướng... đã xoáy vào “mặt trái của tấm huy chương” với những “di họa
chiến tranh” còn ám ảnh, đeo đẳng bao số phận con người. Chiến tranh đã lùi
xa nhưng vẫn còn để lại bao hậu quả nghiệt ngã cho con người, nó vẫn là một
“siêu đề tài” cho văn học khám phá, biểu hiện. Nói như Giáo sư Phong Lê thì
“còn lâu về sau, chiến tranh vẫn cứ là một đề tài lớn, một kho chất liệu không
thể nào vơi cạn còn nằm sâu trong ký ức của con người” [46].
Hiện thực trong văn học thời kì đổi mới được nới rộng phạm vi thể
hiện. Không chỉ có hiện thực cách mạng, các biến cố trong đời sống cộng
đồng mà còn có hiện thực của cuộc sống ngày thường, đời thường với
các quan hệ thế sự phức tạp. Đó là các vấn đề về văn hoá, phong tục, hủ
tục ở nông thôn; vấn đề sản xuất, quản lý kinh tế- xã hội trong thời kỳ đổi
mới; những mặt trái của đời sống đô thị, của cơ chế thị trường; đó còn là
vấn đề hôn nhân gia đình, tâm lý xã hội... Viết về chủ đề gia đình - nơi
gìn giữ những giá trị thiêng của con người, các nhà văn thời kỳ Đổi mới lại
cho thấy gia đình nhiều khi không còn là nơi “nghỉ ngơi tuyệt đối an toàn”
của con người. Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn
Kháng), Phố (Chu Lai)... Thời xa vắng (Lê Lựu) làm nổi bật bi kịch trong mối

quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Sự nhu nhược, thiếu bản lĩnh cá
nhân là nguyên nhân chủ yếu đẩy cuộc đời Sài vào bi kịch. Nhưng nguyên
nhân sâu xa hơn là sự áp đặt của cộng đồng lên cá nhân. Chính gia đình, họ
hàng, đơn vị... đã đè bẹp ý thức cá nhân của Giang Minh Sài.
19


Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới còn gia tăng những chủ đề thời sự. Một
số tác phẩm đã “áp sát” cuộc sống đời thường, đã bắt chạm đến nhiều góc
khuất của đời sống hiện đại. Một thế giới không có đàn bà (Bùi Anh Tấn), Cuộc
đời dài lắm (Chu Lai), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Cơ hội của chúa
(Nguyễn Việt Hà)... Một số tác giả lại có xu hướng “lật lại quá khứ, soi sáng lịch
sử”. Chẳng hạn, Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh) tái hiện khoảnh khắc lịch sử
đầy biến động, phức tạp cuối đời Trần. An lạc dưới trời (Nguyễn Xuân Hưng)
cũng đặt lại những vấn đề xã hội trong các thời đoạn phức tạp nhất của lịch sử.
Sau năm 1986, đất nước đổi mới toàn diện đã từng bước đem lại những
biến chuyển lớn trong đời sống vật chất và trong nếp nghĩ, hành động của mỗi
người nông dân. Nhà văn từ đó cũng có điều kiện thuận lợi để thể hiện những
trăn trở, suy tư về những vấn đề cốt lõi của nông thôn và nông dân một cách
trực diện, thấu đáo. Viết về nông thôn, các nhà văn vốn đã có thành tựu trước
đó, nay có cơ hội thể nghiệm nghệ thuật mới.
Điểm qua các chặng đường phát triển của văn học viết về nông thôn có
thế thấy, ngay ở giai đoạn 1930-1945, một số sáng tác của nhóm Tự lực văn
đoàn đã quan tâm đến đời sống nông thôn như tập truyện Gió lạnh đầu mùa
của Thạch Lam, phóng sự Bùn lầy nước đọng của Hoàng Đạo... Tuy nhiên,
tác phẩm của họ mới chỉ dừng lại ở sự cảm thông với cảnh sống nghèo
khổ, tối tăm, do những thói quen, hoặc do trình độ thấp kém.
Đến văn học hiện thực phê phán, đề tài nông thôn được khai thác có
chiều sâu và gặt hái nhiều thành tựu. Các nhà văn hiện thực phê phán như
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao… đã tái hiện bức tranh hiện thực

nông thôn hiện lên với sự khắc nghiệt của sưu cao thuế nặng, của những
thủ
đoạn bóc lột tàn nhẫn, trắng trợn (Tắt đèn, Bước đường cùng). Đó là
nông thôn của những hủ tục nhiêu khê, rườm rà; của những mâu thuẫn,
chèn ép giữa các phe cánh tranh nhau quyền lợi, địa vị (Việc làng). Đó là
20


×