Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

sang kien kinh nghiem một số biện pháp giải toán có lời văn cho hs lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.34 KB, 12 trang )

I. Đặt vấn đề
1. Lý do chọn sáng kiến
Năm học 2016- 2017 là năm học đầu tiên Trường Tiểu học Khánh Thành thực hiện
dạy học theo mô hình trường học mới VNEN mở rộng. Mô hình VNEN giúp
học sinh có tính tư duy, sáng tạo trong học tập, các hoạt động sư
phạm đã hoàn toàn đổi mới, chuyển đổi hình thức giảng dạy truyền thụ từ giáo
viên sang học sinh tự học là chính. Phương pháp dạy và học theo mô
hình VNEN: Coi quá trình tự học của học sinh là trung tâm hoạt
động giáo dục, giáo viên là người hướng dẫn, đồng hành với học
sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức, học tập
mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh;
chuyển việc truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn học
sinh tự học. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo
các hình thức như: Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân, làm việc
cả lớp và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm
là chủ yếu. Học sinh được học trong môi trường học tập thân
thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè,
với thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm
và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. Các em học
tốt hơn so với với các bạn khác sẽ được phát huy, học sinh học
chậm của nhóm được các bạn trong nhóm và giáo viên giúp đỡ
kịp thời ngay tại lớp nhằm nâng cao chất lượng toàn diện của nhà Trường
Tiểu học Khánh Thành nói chung và chất lượng lớp 3C nói riêng.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh ở cấp tiểu học các em phải
học tốt tất cả các môn học Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên- xã hội, Mĩ thuật, Hát nhạc, Thủ
công, Thể dục... Trong đó môn Toán là môn học có tầm quan trọng đặc biệt, vì môn
Toán có tính chất phát triển tư duy lôgíc cho học sinh. Thông qua môn Toán giúp cho
chúng ta lập luận có căn cứ, diễn đạt ý nghĩ của mình một cách ngắn gọn chính xác;
giúp cho các em trong rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương
pháp học tập và phương pháp giải quyết vấn đề. Môn Toán còn giúp các em phát triển
toàn diện nhân cách.


Trong nội dung chương trình môn toán lớp 3 gồm 5 mạch kiến thức: Các kiến thức
về số học, các kiến thức về yếu tố hình học, đại lượng và phép đo đại lượng, một số yếu
tố thống kê, giải toán có lời văn. Giải toán có lời văn là mạch kiến thức trọng tâm, có
một vị trí quan trọng vì nó góp phần rèn luyện trí thông minh, phát triển tư duy, đặc biệt
là tư duy giải toán cho học sinh Tiểu học, đồng thời nó còn giúp các em học tốt các
mạch kiến thức khác.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 3C theo mô hình trường học mới VNEN tôi nhận thấy
trong các kiến thức toán ở chương trình thì mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” là
mạch kiến thức khó nhất đối với học sinh bởi vì đối với một số học sinh vốn từ, vốn
hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgíc của các em còn rất hạn chế nên
khi giải toán có lời văn thường rất chậm so với các mạch kiến thức khác bởi vì các em
chủ yếu là con em đồng bào dân tộc thiểu số. Các em thực sự lúng túng khi giải bài
toán có lời văn: Chưa biết phân tích đề toán để tìm ra cách giải, đặt lời giải chưa
1


đúng, thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số của bài toán chưa chính xác, chưa biết
tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt chưa rõ ràng, thiếu lôgíc.
Vậy làm thế nào để học sinh hiểu đề bài, biết cách giải và tìm ra đáp số đúng của bài
toán, đó là điều khiến tôi rất trăn trở. Đây là lí do mà tôi chọn đề tài “Một số kinh
nghiệm rèn kĩ năng giải toán có lời văn theo mô hình VNEN cho học sinh lớp 3C tại
Trường Tiểu học Khánh Thành”. Nhằm góp phần giúp các em học tốt môn toán hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Giúp học sinh có lớp 3C nắm được quy trình giải toán có lời văn: Biết đọc kỹ đề bài,
biết cách giải và tìm ra đáp số đúng của bài toán có lời văn.Thông qua giải toán giúp
học sinh trình bày ngôn ngữ nói và viết tạo ra tính tự tin; giúp học sinh rèn luyện tư duy,
suy luận, quan sát và tìm tòi
Tìm ra được những điểm yếu của học sinh khi giải toán có lời văn.
Tìm hiểu các bước giải và ứng dụng của giải toán ở tiểu học.
Rèn kỹ năng tính toán và giải toán cho học sinh

Đối tượng nghiên cứu: học sinh lớp 3C trường Tiểu học Khánh Thành
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế chính lớp 3C.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp.
- Phương pháp dạy thực nghiệm, thực hành.
- Phương pháp làm mẫu.
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, kiểm tra đánh giá.
- Phương pháp rút ra kinh nghiệm sau các bài dạy
- Qua tình hình thực tế giảng dạy
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: học sinh lớp 3C trường Tiểu học Khánh Thành
Phạm vi nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giải chưa đúng bài toán có lời
văn của học sinh lớp học sinh lớp 3C trường Tiểu học Khánh Thành.
5. Kế hoạch nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu là 9 tháng trong năm học 2016- 2017
+Tháng 9/2016: Tìm hiểu thực trạng của lớp, chọn biện pháp
+Tháng 10 đến tháng 12/2016: thử nghiệm các biện pháp và xây dựng đề cương.
+Tháng 3/2017: Tiếp tục làm đề cương.
+Thàng 5/2017: Hoàn thành đề cương
II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lí luận:
Dạy học cho học sinh để giải được các bài toán có lời văn là một chủ đề quan trọng,
về: Môn toán là môn khoa học, đây là một trọng tâm được xuyên suốt trong chương
trình học Toán lớp 2,3,4,5.
Đây là những kĩ năng rất cần thiết để học sinh có cẩm nang học tiếp chương trình cấp
trên. Cũng là một mảng rất khó, trừu tượng và rất hấp dẫn nó ảnh hưởng đến kết quả
dạy Toán và bồi dưỡng phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh ở bậc Tiểu học.
Hay nói cách khác phải chỉ ra được mối quan hệ giữa các yếu tố toán học, số học và có
những câu trả lời đúng, lời giải đúng, đáp án đúng nhưng phải phù hợp. Có cách giải

như thế nào đi chăng nữa học sinh phải hiểu và giải toán theo yêu câu chương trình mới.
2


Đó mới cần phải trao đổi đối với chúng ta và trực tiếp người giảng dạy cho học sinh.
Giải toán có lời văn đó là một hoạt động cần có những thao tác, xác lập mối quan hệ với
các dữ liệu, giữa cái đó biết và cái cần tìm trong các bài toán.
Việc dạy học giải toán có lời văn ở tiểu học nhằm giúp cho học sinh có được kiến
thức, kĩ năng thực hành một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc dạy học giải toán mà
học sinh có điều kiện rèn luyện phát triển năng lực tư duy, biết sáng tạo, cẩn thận, chu
đáo. Qua giải toán giúp học sinh hình thành, củng cố, kiến thức, kỹ năng về toán. Đồng
thời qua giải toán giúp giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót trong
kiến thức, kỹ năng của học sinh để giúp các em phát huy những ưu điểm và khắc phục
thiếu sót.
2. Thực trạng
2.1. Về phía giáo viên
Trong quá trình dạy học theo mô hình VNEN giáo viên chưa chú ý tới việc làm thế
nào để học sinh nắm vững được lượng kiến thức, đặc biệt là dạng giải toán có lời văn.
Nguyên nhân là do giáo viên mới tiếp cận với chương trình dạy học theo kiểu mới này.
Thời gian dành nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học mới này còn hạn chế
Khi dạy giải toán có lời văn cho học sinh giáo viên chưa chú ý nhiều đến việc hướng
dẫn kĩ năng đọc đề toán cho học sinh, học sinh đọc đề vội vàng, chưa biết tập trung vào
những dữ kiện trọng tâm của đề toán, không chịu phân tích đề toán đã giải bài toán.
Giáo viên chưa khắc sâu quy trình giải toán có lời văn cho học sinh, chưa rèn kĩ năng
thực hành giải toán theo quy trình vì thực tế trong một tiết dạy 40 phút, vừa làm bài tập
ở nhiều mạch kiến thức khác nhau, trong đó có bài toán có lời văn thường ở cuối bài
nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều nên học sinh chưa khắc
sâu kiến thức, chưa nắm được mẹo để giải bài toán.
2.2. Về phía học sinh
Qua giảng dạy lớp 3C theo mô hình VNEN tại Trường Tiểu học Khánh Thành, tôi

thấy học sinh còn hạn chế về kĩ năng giải toán có lời văn như:
- Chưa đọc kỹ đề bài, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm hoặc đọc mà
không hiểu đề bài toán.
- Không chịu phân tích bài toàn dẫn đến không biết lựa chọn, chọn phép tính để giải.
- Các em còn lúng túng trong việc viết lời giải cho phép tính. Một số em viết phép
tính đúng rất nhanh nhưng lại không biết đặt lời giải thế nào cho đúng, cho hợp lý
- Viết phép tính và tính sai kết quả.
- Ghi đáp số sai và đơn vị của bài.
- Các em chưa nhận dạng được dạng bài toán là gì khi đọc đề bài.
- Các em giải bài toán lời văn còn chậm so với các dạng toán khác.
- Các em còn nhầm lẫn các dạng dạng toán với nhau
- Việc tìm hiểu đề toán, đang còn gặp nhiều khó khăn đối với học sinh học chậm của
lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và
hiểu đề còn thụ động, chậm ...
- Học sinh chưa có kĩ năng phân tích và tư duy khi gặp những bài toán phức tạp. Hầu
hết, các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các em thường gặp,
trong Hướng dẫn học Toán 3 khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một chút các em
không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ. Một số em biết tìm ra phép tính đúng
nhưng khi đặt lời giải thì còn lúng túng và có khi đặt lời giải cho bài toán chưa hợp lý.
3


- Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn đến nhiều
trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan.
-Các còn nhút nhát chưa mạnh dạn hỏi bạn bè, hỏi thầy cô khi gặp khó khan trong
giải bài
Ngoài ra, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình học sinh lớp tôi ngay khi được phân
công đầu năm. Tôi nghiên cứu tìm hiểu lực học của từng học sinh năm học trước đồng
thời tôi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm rõ hơn. Sau hơn một
tháng dạy các em tôi nhận thấy phân loại từng đối tượng học sinh đầu năm học 2016 2017 của lớp 3C như sau:

Tổng số
(12 học sinh)
Đầu năm

Hoàn thành
tốt
SL
%
2
%

Hoàn thành
SL
6

%
%

Chưa hoàn
thành
SL
%
4
%

3.Một số biện pháp thực hiện.
Trong giải toán có lời văn học sinh lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN nói
chung và giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3C nói riêng học sinh phải tư duy một
cách linh hoạt, áp dụng được tất cả các kiến thức, kỹ năng và khả năng đã có vào giải
toán, vào các tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp, phải biết vận dụng những

dữ kiện, những điều kiện chưa được nêu ra một cách rõ ràng. Học sinh phải tự linh động
trong giải toán, phát huy vai trò trung tâm, tích cực, chủ động của học sinh, vì vậy mạch
kiến thức giải toán có lời văn đóng vai trò quan trọng trong nội dung chương trình Toán
3.
Vì là mới bắt đầu giảng dạy theo mô hình VNEN, tôi nhận thấy học sinh khi giải toán
có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em rất lúng túng khi viết
lời giải tuy rằng các em biết ghi phép tính đúng. Nhiều em nêu lời giải không phù hợp
với yêu cầu đề toán đặt ra. Tất cả các nhóm khi làm đến dạng toán có lời văn đều có học
sinh giơ thẻ cứu trợ để giáo viên đến hướng dẫn.
3.1. Đối với bài hình thành kiến thức mới
Giúp học sinh nắm được trình tự của việc giải một bài toán có lời văn:
3.1.1. Đọc đề, tìm hiểu kĩ đề bài toán.
Đây là một bước rất quan trọng, giáo viên cần nhắc nhở cho học sinh đọc kĩ đề, đọc
nhiều lần (đọc thầm trong nhóm) để hiểu rõ đề toán cho biết gì? Như đã cho biết điều
kiện gì? Bài toán hỏi cái gì? Bài toán thuộc dạng nào? Khi đọc bài toán phải hiểu thật
kĩ một số từ, thuật ngữ quan trọng chỉ rõ tình huống Toán học được diễn đạt theo ngôn
ngữ thông thường.
Trong lớp giáo viên phải quan sát, nếu có một nhóm giơ thẻ cứu trợ thì ta đến nhóm
đó để hướng dẫn. Trường hợp nếu có nhiều nhóm cùng đưa thẻ cứu trợ thì giáo viên nên
cho các em cùng quay mặt lên bảng để giáo viên hướng dẫn.
Ví dụ: Có 35l mật ong đựng đều vào 7 can.
a) Hỏi mỗi can đựng bao nhiêu lít mật ong?
b) Hỏi 5 can như thế đựng bao nhiêu lít mật ong?
* Học sinh đọc đề, tìm hiểu đề bài. Sau đó học sinh có thể nêu được (có thể cho các em
tự hỏi đáp nhau)
4


- Bài toán cho biết gì? (Có 35l mật ong đựng đều vào 7 can).
- Bài toán hỏi gì? (a) Mỗi can đựng bao nhiêu lít mật ong? b) Hỏi 5 can như thế đựng

bao nhiêu lít mật ong?)
- Muốn biết mỗi can đựng bao nhiêu lít mật ong ta làm như thế nào? (Lấy số lít mật
ong chia cho số can 37: 7 = 5 l)
- Muốn biết 5 can như thế đựng bao nhiêu lít mật ong ta làm như thế nào?
(Lấy số lít mật ong trong mỗi can nhân với số can 5 x 5 = 25l)
3.1.2. Tóm tắt đề toán
Ở những dạng toán học sinh mới gặp lần đầu học sinh đọc tóm tắt dưới đề bài toán đã
cho; giáo viên có thể cùng học sinh tóm tắt hoặc gợi ý, hướng dẫn học sinh thảo luận
điền số liệu vào tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng đã cho ở dạng bài: Giải bài toán bằng hai
phép tính; Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Đây là dạng diễn đạt ngắn gọn đề toán, tóm tắt đúng sẽ giúp cho học sinh có cách giải
dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Nhìn vào tóm tắt là định ra các bước giải bài toán.
Đa số các bài toán có lời văn ở lớp 3 đều có thể tóm tắt bằng lời hoặc bằng sơ đồ, ...
Tuỳ vào dạng toán mà tôi hướng dẫn cho các em cách tóm tắt phù hợp. Ở lớp 3 tóm tắt
bằng lời và tóm tắt bằng sơ đồ là chủ yếu.
Ví dụ: (Bài 1, Ttrang 67 Hướng dẫn học Toán 3- Tập 2A)
Có 35l mật ong đựng đều vào 7 can.
a) Hỏi mỗi can đựng bao nhiêu lít mật ong?
b) Hỏi 5 can như thế đựng bao nhiêu lít mật ong?
* Viết số thích hợp vào chỗ chấm:
Tóm tắt:
…… l
7 can:
?l
5 can:
?l
3.1.3. Tìm lời giải đúng:
Trước khi làm bài phải nháp. Nếu không hiểu thì nên giơ phao cứu trợ hỏi giáo viên
hoặc các bạn khác trong nhóm.
Viết lời giải trong phần bài giải giáo viên để học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời,

sau đó tập viết câu lời giải ra nháp. yêu cầu viết lời giải cần ngắn gọn, rõ ràng, đủ ý và
đúng với yêu cầu của bài toán là được.
Học sinh tự suy luận từ câu hỏi bài toán đến dữ kiện đã cho để tìm lời giải của bài
toán sau đó nêu và viết lời giải ra nháp.
Ví dụ: Số lít mật ong trong mỗi can là:/Mỗi can đựng được số lít mật ong là:/…
5 can đựng được số lít mật ong là:/Số lít mật ong đựng trong 5 can là:/…
Bài toán này có hai phép tính nhưng có thể có nhiều lời giải khác nhau mà vẫn phù
hợp.Việc cho học sinh tự tìm nhiều lời giải khác nhau có tác dụng lớn trong việc gây
hứng thú cho học sinh, thúc đẩy sự tìm tòi, sáng tạo và rèn luyện óc suy nghĩ linh hoạt,
độc lập.
5


3.1.4. Lựa chọn viết đúng phép tính
Đây là bước suy luận để tìm cách giải bài toán. Học sinh có thể ghi sai phép tính, tính
sai, hay không ghi danh số trong ngoặc đơn của phép tính nguyên nhân do học sinh
hổng kiến thức về phần thực hiện phép tính, giáo viên cần đến từng nhóm hướng dẫn cụ
thể và giải thích hướng dẫn cách ghi danh số.
Ví dụ: Từ đề bài đã nêu ở trên học sinh có thể viết phép tính: 37: 5 = 7 (l), không thể
viết 37: 5 = 6 (l) hoặc 37: 5 = 7 (can) là không đúng.
3.1.5. Ghi đúng đáp số:
Có những trường hợp học sinh ghi đáp số chưa đúng như còn ghi danh số trong dấu
ngoặc đơn mà không ghi cụ thể danh số của bài toán, không biết ghi hết những nội dung
bài toán yêu cầu.
Ví dụ:
a) Số lít mật ong trong mỗi can là:
37: 5 = 7 (l)
b) Số lít mật ong đựng trong 5 can là:
5 x 5 = 25(l)
Đáp số: a) 7l

b) 25l
Khi kiểm tra giáo viên cũng cần hướng dẫn cụ thể để học sinh sửa sai như sau:
a) Số lít mật ong trong mỗi can là:
37: 5 = 7 (l)
b) Số lít mật ong đựng trong 5 can là:
5 x 5 = 25(l)
Đáp số: a) 7l mật ong
b) 25l mật ong
3.1.6. Kiểm tra lại bài làm (lời giải và kiểm tra kết quả)
Việc kiểm tra này nhằm phân tích cách giải đúng hay sai, sai chỗ nào để sửa chữa,
kiểm tra lại trình tự các bước giải thử lại phép tính đã thực hiện trong bài giải ... Từ đó
giúp các em có thói quen kiểm tra đánh giá, sửa bài.
Khi giải xong từng thành viên báo cáo nhóm trưởng, trình bày bài giải của mình trước
nhóm, cả nhóm nghe trao đổi bổ sung cho nhau tạo sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
đối tượng học sinh trong nhóm, học sinh trong nhóm trao đổi ý kiến về cách làm bài
hoặc giải bài toán thống nhất ý kiến cả nhóm (học sinh tự suy nghĩ hoặc thảo luận nhóm
để tìm ra hướng giải quyết bài toán, lựa chọn cách giải hay nhất, phù hợp nhất) rồi
nhóm trưởng mới giơ thẻ báo cáo hoàn thành báo cáo với giáo viên.
Giáo viên đến kiểm tra các nhóm và nhắc nhở học sinh khi viết vào vở từng học sinh
ở trong nhóm phải viết chữ và số trong phép tính rõ ràng. Trình bày bài giải toán có lời
văn đúng, đẹp. Diễn đạt lời văn phải chính xác, cụ thể. Tạo cho học sinh tính mạnh dạn
để trao đổi ý kiến trong nhóm hoặc toàn lớp vì sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm,
lớp, góp phần làm các em mạnh dạn, tự tin hơn vào khả năng của bản thân, tự rút kinh
nghiệm về cách học của mình.
Việc giải các bài toán bằng nhiều cách giải khác nhau có tác dụng lớn trong việc xây
dựng hứng thú, thúc đẩy các em cố gắng tìm tòi, sáng tạo, rèn luyện óc suy nghĩ linh
hoạt, độc lập, có phê phán và tinh thần cải tiến trong giải toán có lời văn cho học sinh.
3.2. Đối với bài luyện tập thực hành
6



Mỗi học sinh phải độc lập suy nghĩ, làm việc tích cực. Có thói quen tự giác, chủ
động khi làm bài, không chép bài bạn, không giơ thẻ cứu trợ khi chưa suy nghĩ và chưa
đọc kĩ đề toán. Học sinh biết huy động các kiến thức của mình tham gia tích cực vào
việc giải quyết nội dung, yêu cầu bài toán.
3.2.1. Tìm hiểu kỹ đề bài toán
Là một công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, các em có đọc kĩ đề mới nắm bắt
được các dữ kiện của bài toán, nếu đọc qua loa sẽ hiểu nhầm, hiểu sai về mối quan hệ
giữa các dữ kiện của bài toán và gây khó khăn cho bước tiếp theo. Ở bước này tôi luôn
gọi những em giải toán chưa tốt đọc đề bài nhiều lần và nhấn mạnh ở những dữ kiện của
bài toán và giúp cho học sinh hiểu một số thuật ngữ của bài toán.
Ví dụ: Lần đầu người ta chuyển 27150 kg thóc vào kho, lần sau chuyển được số thóc
gấp đôi lần đầu. Hỏi cả hai lần chuyển vào kho được bao nhiêu ki - lô - gam thóc?
Học sinh tự đọc và trả lời được các câu hỏi (hoặc trao đổi hỏi đáp theo cặp):
+ Bài toán cho biết gì? (Lần đầu chuyển 27150 kg vào kho, lần sau chuyển được số
thóc gấp đôi lần đầu).
+ Bài toán hỏi gì? (Cả hai lần chuyển vào kho được bao nhiêu ki - lô - gam thóc?
+ Lần sau chuyển được bao nhiêu ki - lô - gam thóc? (Chuyển được gấp đôi lần đầu).
+ Để làm được bài toán này phải làm bằng mấy phép tính?
+ Phép tính nào làm trước, phép tính nào làm sau?
3.2.2. Viết đúng lời giải
Viết lời giải trong phần bài giải học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời, sau đó tập
viết lời giải ra nháp. Thực tế cho thấy vốn từ của học sinh còn nghèo nàn, khả năng viết
câu của HS còn hạn chế, nên giáo viên phải theo sát từng học sinh để hướng dẫn cách
viết, yêu cầu viết câu lời giải cần ngắn gọn, rõ ràng, đủ ý và đúng với yêu cầu của bài
toán là được.
Ví dụ: Số ki - lô - gam xi măng cửa hàng đã bán là/Cửa hàng đã bán số ki - lô - gam
xi măng là:
36550 : 5 = 7310 (kg)
Số ki – lô – gam xi măng cửa hàng còn lại là/Cửa hàng còn lại số ki – lô – gam

xi măng là:
36550 - 7310 = 29 240 (kg)
Lời giải phải đúng ý nghĩa toán học vừa phải đúng văn phạm Tiếng việt. Do đó cần
cho HS trả lời miệng, cho HS khá, giỏi giúp HS yếu, sau đó mới viết câu lời giải.
Mỗi bài toán có thể có nhiều lời giải khác nhau mà vẫn phù hợp.Việc cho học sinh tự
tìm nhiều lời giải khác nhau có tác dụng lớn trong việc gây hứng thú cho học sinh, thúc
đẩy sự tìm tòi, sáng tạo và rèn luyện óc suy nghĩ linh hoạt, độc lập.
3.2.3. Lựa chọn phép tính để giải.
Đây là bước suy luận để tìm cách giải bài toán. Việc tìm ra phương pháp giải liên
quan đến tính chất của hai loại bài toán có ở lớp 3: Toán đơn và toán hợp. Có kĩ năng
giải toán đơn học sinh mới có cơ sở giải các bài toán hợp.
Từ việc giải một bài toán đơn sang một bài toán hợp, học sinh phải giải quyết một
nhiệm vụ khó khăn là phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn. Mà phân tích
thường được hiểu dưới hai dạng:
+ Phân tích để sàng lọc: Nhằm loại bỏ các yếu tố thừa, các tình tiết hay trường hợp
không cơ bản, đối với việc giải toán.
7


+ Phân tích thông qua tổng: Khi phân tích thông qua tổng hợp, ta đem các dữ kiện
của bài toán đối với yêu cầu giải bài toán để hướng các suy nghĩ vào mục tiêu cần đạt là
tách được các mối quan hệ giữa cái cần tìm và các giữ kiện.
Việc hướng dẫn các em sử dụng phép tính – tổng hợp được thực hiện bằng một hệ
thống câu hỏi – đáp phù hợp. VD: Cái gì đã biết? Cái gì là điều kiện? Cái gì cần tìm?
Cần biết gì? Dùng phép tính gì?
Ví dụ: Một cửa hàng có 36550 xi măng, đã bán

1
số xi măng đó. Hỏi cửa hàng còn lại
5


bao nhiêu ki - lô - gam xi măng?
+ Bài toán cho biết gì? (Một cửa hàng có 36550 xi măng, đã bán

1
số xi măng đó.
5

+ Bài toán hỏi gì? (Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu ki – lô – gam xi măng?).
+ Muốn tìm số xi măng của cửa hàng còn lại bao nhiêu ta làm thế nào? (Tính số ki lô - gam xi măng của cửa hàng đã bán).
+ Cửa hàng có bao nhiêu kg xi măng? (biết rồi)
+ Số kg xi măng cửa hàng đã bán biết chưa? (chưa biết)
+ Muốn tìm số kg xi măng cửa hàng đã bán ta làm thế nào? (lấy số kg xi măng cửa
hàng có chia cho 5 hoặc tìm

1
của 36550 kg)
5

+ Muốn tìm số kg xi măng còn lại của cửa hàng ta làm thế nào? (Lấy số ki – lô gam xi măng cửa hàng có trừ đi số ki – lô gam xi măng đã bán)
3.2.4. Ghi đúng đáp số:
Có những trường hợp HS ghi đáp số chưa đúng như còn ghi danh số trong dấu ngoặc
đơn mà không ghi cụ thể danh số của bài toán, không biết ghi hết những nội dung bài
toán yêu cầu.
Ví dụ: Bài 2 trang 51 Hướng dẫn học Toán 3 (tập 2B). Học sinh có thể viết sai đáp số
như sau:
Số ki - lô - gam xi măng cửa hàng đã bán là:
36550 : 5 = 7310 (kg)
Số ki – lô – gam xi măng cửa hàng còn lại là:
36550 - 7310 = 29240 (kg)

Đáp số: 29310
Khi kiểm tra giáo viên cần hướng dẫn cụ thể để học sinh sửa sai ngay:
Số ki - lô - gam xi măng cửa hàng đã bán là:
36550 : 5 = 7310 (kg)
Số ki – lô – gam xi măng cửa hàng còn lại là:
36550 - 7310 = 29 240 (kg)
Đáp số: 29 310 kg xi măng
3.2.5. Kiểm tra lại bài làm (lời giải và kiểm tra kết quả)
Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường
coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm dược câu trả lời. Khi giáo viên hỏi
để khẳng định lại kết quả thì các em còn lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết
quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho
nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các kiểm tra theo các bước sau:
- Đọc lời giải.
8


- Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt
trong lời giải đúng chưa.
- Thử lại kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
- Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập
phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư
duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc nhở, rèn
luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp giữa chữ viết
đẹp, và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong
quá trình học giải toán có lời văn của các em.
Khi giải xong từng thành viên báo cáo với giáo viên, giáo viên sang kiểm tra bài giải
của học sinh, giáo viên đặt câu hỏi phụ để hỏi học sinh về cách giải bài toán đó (Giáo

viên có thể giao cho nhóm trưởng kiểm tra thay mình khi có học sinh ở nhóm khác giơ
thẻ báo cáo hoàn thành, học sinh tự đặt câu hỏi để hỏi bạn về cách giải bài toán đó)
Trong khi đến kiểm tra các cá nhân giáo viên nhắc nhở học sinh khi viết vào vở phải
viết chữ và số trong phép tính rõ ràng. Trình bày bài giải toán có lời văn đúng, đẹp.
Diễn đạt lời văn phải chính xác, cụ thể.
Cần rèn ý chí vượt khó cho các em khi làm bài. Khi giải toán gặp các bài toán khó,
giáo viên cần giúp các em có sự tự tin, không nên nản lòng. Khuyến khích các em tự lực
làm bài, tìm tòi hướng giải quyết để đạt được kết quả cao trong học tập.
Việc giải các bài toán bằng nhiều cách giải khác nhau có tác dụng lớn trong việc xây
dựng hứng thú, thúc đẩy các em cố gắng tìm tòi, sáng tạo, rèn luyện óc suy nghĩ linh
hoạt, độc lập, có phê phán và tinh thần cải tiến trong giải toán có lời văn cho học sinh.
3.3. Các biện pháp khắc giúp học sinh giải toán có lời văn:
Dạy học theo mô hình mới này đòi hỏi người giáo viên khi chia nhóm giáo viên chia
đủ các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu. Khi học tập, làm việc theo nhóm, học sinh
thường mạnh dạn trao đổi ý kiến, khuyến khích học sinh tìm tòi, sáng tạo, biết đánh giá
ý kiến của bạn. Chẳng hạn một bài toán khó, nếu như nhiều em cùng bàn bạc, phân tích
thì nhất định sẽ tìm cách giải hay. Nhờ như vậy các em tự tin hơn trong khi làm bài.
Giáo viên cần động viên, tuyên dương kịp thời khi đến từng nhóm kiểm tra để học
sinh có sự hứng thú trong học tập. Nhất là các học sinh trung bình, yếu. Giáo viên phải
theo dõi nhận xét, bổ sung khuyến khích, khen các em khi các em trả lời đúng.
Việc tổ chức hướng dẫn cho học sinh làm bài tập là việc làm rất quan trọng, nên mỗi
câu hỏi của giáo viên đều phải có nội dung chính xác phù hợp với mục đích yêu cầu, nội
dung bài học, câu hỏi rõ ràng. Cùng nội dung có thể đặt câu hỏi dưới những hình thức
khác nhau để giúp học sinh nắm vững kiến thức và linh hoạt trong suy nghĩ.
Tổ chức học sinh khá giỏi trong nhóm thường xuyên giúp đỡ các bạn yếu, kém, nếu
các bạn có yêu cầu về phương pháp vận dụng kiến thức.
Tổ chức kèm cặp, phụ đạo học sinh vào các tiết Toán tăng các buổi chiều từ thứ hai
đến thứ năm hàng tuần. Trong các tiết này chủ yếu là ôn tập củng cố lại các kiến thức
đã học buổi sáng để các em nắm vững kiến thức hơn.
Sử dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học linh hoạt sát đối tượng học sinh,

hướng dẫn học sinh trong từng nhóm để học sinh lĩnh hội được nội dung cơ bản của bài
học.
9


Cần hướng dẫn cụ thể khi kiểm tra từng nhóm, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày
cách giải hay lời giải bằng cách diễn đạt của mình, không nhất thiết phải lắp nguyên
văn theo sách.
Thường xuyên rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong tất cả các giờ học. Luyện kĩ năng
hỏi - đáp để các em có vốn từ lưu loát hơn.
Nghiên cứu kĩ tài liệu Hướng dẫn học Toán 3, nhất là các dạng bài toán có lời văn,
lập kế hoạch cụ thể cho từng tiết. Trong tiết dạy phải kiên trì giúp đỡ từng em, biết cách
gợi mở và nâng cao tri thức mỗi em.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố
không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong muốn
nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn.
Như chúng ta đã biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng có trí
thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho
việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất rễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp
đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển
hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn
thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một
thời gian dài.
4. Kết quả
Qua vận dụng sáng kiến vào thực tế giảng dạy tại lớp 3C, học sinh giải được bài
toán có lời văn đúng theo quy trình, các em đã có kỹ năng giải toán và tự lập được kế
hoạch giải toán một cách độc lập. So sánh chất lượng học sinh qua một năm thực hiện
thì thấy có hiệu quả rõ rệt.
Hoàn thành
Chưa hoàn

Hoàn thành
tốt
thành
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu năm
2
%
6
%
4
%
Cuối năm
4
%
8
%
0
0%
Với những biện pháp trên tôi nhận thấy kĩ năng giải toán của học sinh được nâng lên
rõ rệt, các em đã biết cách phân tích đề toán, biết đâu là “Cái đã cho” đâu là “Cái cần
tìm”, tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều biết cách trình bày bài toán giải, nhiều
em đạt bài khá, giỏi vì có các câu trả lời rất sáng tạo phù hợp với yêu cầu cần tìm của
bài toán. Đặc biệt các hình thức học nhóm thảo luận tìm cách giải hay các hình thức
dưới dạng tổ chức trò chơi được học sinh hưởng ứng và tham gia rất tích cực.
III. Bài học kinh nghiệm

Dạy toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng là cả một quá trình kiên trì, đầy sự
sáng tạo, nhất là đối với dạng giải các bài toán có lời văn. Cho nên khi hướng dẫn học
sinh giải toán, giáo viên cần phải:
- Tạo niềm hứng thú, sự say mê giải toán, bởi các em có thích học toán thì các em
mới có sự suy nghĩ, tìm tòi các phương pháp giải bài toán một cách thích hợp.
- Giáo viên cần nắm bắt và hiểu rõ quan điểm xây dựng nội dung, chương trình
Hướng dẫn học Toán 3. Đồng thời đổi mới phương pháp trong dạy học theo (5 bước
dạy; 10 bước học tập) theo mô hình trường học mới VNEN, chuẩn bị tốt các phương
tiện, các đồ dùng cần thiết cho tiết học. Luôn chọn cho mình phương pháp dạy phù hợp
Tổng số
(12 học sinh)

10


nhất cho từng bài toán sẽ có hiệu quả thiết thực và điều chỉnh trên cơ sở tổ chức các
hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Chú trọng việc dạy học giải toán có lời văn.
- Nắm vững quy trình giải toán có lời văn.
- Đặc biệt giáo viên cần theo dõi thường xuyên đến kết quả học tập trên lớp qua tinh
thần, thái độ học tập của học sinh. Nếu có dấu hiệu bất thường thể hiện sự sa sút trong
học tập của học sinh, nên áp dụng các biện pháp về nghiệp vụ tìm hiểu các nguyên nhân
trực tiếp và gián tiếp nhằm phát hiện kịp thời trường hợp học sinh gặp khó khăn trong
rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn, đi sâu vào tìm hiểu dạng bài cụ thể. Sau khi giải
xong mỗi bài toán có lời văn, để khắc sâu kiến thức cho học sinh, giáo viên nên liên hệ
những nội dung của giải toán với cuộc sống thực tế hàng ngày. Điều này sẽ làm cho các
em thấy thích thú, nhớ lâu hơn. Mặt khác còn khuyến khích các em học đi đôi với hành,
tránh lý thuyết suông học sinh không biết vận dụng vào làm thực hành. Gần gũi, động
viên những em học yếu môn toán để các em tiến bộ, giúp đỡ nhẹ nhàng khi cần thiết.
- Hướng dẫn học sinh nắm đầy đủ các kĩ năng cần thiết khi giải toán bằng phương

pháp phù hợp, nhẹ nhàng, không gò bó. Kích thích tư duy sáng tạo, khả năng phân tích,
tổng hợp trong khi tìm tòi.
- Tập cho học sinh có kĩ năng tự phân tích bài toán, tự kiểm tra đánh giá kết quả của
bài toán, tập đặt các câu hỏi gợi mở cho các bước giải trong bài toán.
- Coi việc giải toán có lời văn là cả một quá trình, không nóng vội mà phải kiên trì
và phát hiện ra chỗ hổng sau mỗi lần hướng dẫn để khắc phục, rèn luyện.
- Việc hướng dẫn học sinh lớp 3 giải đúng các bài toán có lời văn là một khó khăn
lớn đối với người giáo viên, do đó trong giờ học toán bên cạnh việc tìm ra cách giải
bài toán của học sinh thì giáo viên cần động viên và giúp đỡ các em khi các em cần
cứu trợ bằng cách dùng những câu hỏi gợi mở như: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu
cầu gì? Dựa vào yêu cầu của đề toán mỗi em nêu lên lời giải nhằm giúp các em ghi lời
giải đúng, viết đúng phép tính và đáp số của bài toán.
- Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 3 không thể nóng vội mà phải hết sức
bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỷ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình thành cho các em một
phương pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, tư duy lôgíc. Rèn
cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong “Giải toán có lời văn”. Làm tốt việc dạy
“Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 3 sẽ góp phần vô cùng quan trọng để phát triển
trí tuệ cho các em một cách tổng hợp. Từ đó các em sẽ có một nền tảng vững chắc để
học các môn học khác và tiếp tục học lên các lớp trên.
- Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 3 là một quá trình rất khó khăn đối
với giáo viên và là một đòi hỏi thiết thực trong nhà trường hiện nay khi mà dạy học
theo mô hình mới VNEN đòi hỏi các em tự lập, tự học, tự sáng tạo khi mà rất nhiều và
rất nhiều em khi giải toán có lời văn chưa biết cách giải hoặc giải sai nhiều, các em
chưa có ý thức cao trong học tập hơn nữa khả năng đọc viết còn chậm, tư duy của các
em còn nhiều hạn chế do đó đòi hỏi người giáo viên khi dạy phải tận tuỵ với công việc
mới tìm ra được những kinh nghiệm giúp các em khắc phục được những khó khăn ấy.
Để giải được các bài toán có lời văn, trước hết giáo viên phải rèn cho các em phải
các kĩ năng đọc, viết số, kĩ năng đặt tính, kĩ năng vận dụng các tính chất của phép tính,
kĩ năng tự kiểm tra. Ngoài ra, còn rèn choc ho các em kĩ năng nghe- nói- đọc- viết
trong môn tiếng việt, luyện kĩ năng hỏi- đáp cho các em mạnh dạn hơn.

11


- Tập cho học sinh từng bước biết xem xét các đối tượng toán dưới nhiều hình thức
khác nhau và tập diễn đạt theo lời văn của mình.
- Hình thành cho học sinh làm quen với các thao tác tư duy, phân tích, tổng hợp, so
sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa, ...
- Hình thành và phát triển ở các em các năng lực quan sát, ghi nhớ, tưởng tượng, tư
duy qua bài toán.
- Giáo viên cần quan tâm, động viên, khuyến khích và giúp đỡ các em
Giải các bài toán có lời văn còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn đề,
tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự mình kiểm
tra lại kết quả ... Do đó giải toán có lời văn là một cách rất tốt để rèn luyện đức tính kiên
trì, tự lực vượt khó, cẩn thận, chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác.
Khánh Thành, ngày 27 tháng 9 năm 2017
Người viết

Trần Thị Duyên

12



×