Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ ANH TUẤN

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI
VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngành: Luật học
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. GVC. LÊ VĂN BÍNH

Hà Nội – 2017
1


MỤC LỤC
Trang
Mục lục
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
MỞ ĐẦU

1

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM, PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT


MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ LĨNH VỰC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI

9

1.1. Quản lý đầu tư nước ngoài và vai trò của pháp luật trong quản lý
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

9

1.1.1. Khái niệm quản lý đầu tư nước ngoài và giải quyết tranh chấp đầu tư
nước ngoài

9

1.1.2. Ý nghĩa và vai trò quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

16

1.1.3. Nội dung quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

20

1.2. Áp dụng điều ước quốc tế trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam

25

1.3. Pháp luật quốc tế về lĩnh vực đầu tư


26

1.4. Các Hiệp định đầu tư ASEAN

33

1.5.Công ước Washington năm 1965 và Trung tâm giải quyết tranh chấp
đầu tư quốc tế (ICSID)

39

1.6. Pháp luật một số quốc gia về lĩnh vực quản lý hoạt động đầu tư nước
ngoài

42

1.6.1. Khái lược pháp luật nước ngoài về quản lý hoạt động đầu tư

42

1.6.2. Pháp luật một số quốc gia về quản lý hoạt động đầu tư

44

2


Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM


49

2.1. Pháp luật Việt Nam về đầu tư và thực trạng hệ thống pháp luật Việt
Nam về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài

49

2.1.1.Pháp luật Việt Nam về đầu tư

49

2.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đầu tư nước ngoài

51

2.2. Vai trò của pháp luật và chính sách của nhà nước trong quản lý hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

60

2.3. Những kết quả đạt được trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam

66

2.3.1. Những kết quả đạt được

66

2.3.2. Những hạn chế bất cập của công tác quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt

Nam dưới góc nhìn qua sự cố môi trường từ Dự án FDI Formosa Hà Tĩnh

69

Chương 3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM

77

3.1. Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý hoạt động
đầu tư

77

3.2. Một số nhóm giải pháp phục vụ cho việc hoàn thiện pháp luật về
quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

82

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

93

I. Tài liệu Tiếng Việt


93

II. Tài liệu Tiếng Anh

95

PHỤ LỤC I

97

PHỤ LỤC II

102

3


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có tham
khảo, nghiên cứu và kế thừa các công trình, ấn phẩm và các bài viết đã công bố có
liên quan đến đề tài nghiên cứu. Các kết quả nêu trong Luận văn là có tính lý luận
và thực tiễn. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

NGÔ ANH TUẤN

4



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo kinh nghiệm quốc tế về đầu tư, thì tại Việt Nam gần đây vấn đề mở cửa
thị trường, mở cửa đón các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam đang
ngày được chú trọng và gần như đã trở thành một trong những vấn đề tâm điểm
được công chúng và cả cộng đồng chào đón. Kể từ khi gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) năm 2007 đến nay, Việt Nam đã tạo ra những bước ngoặt lớn
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào
Việt Nam tăng đột biến, nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong
các năm từ 2006 – đến nay (ví dụ chỉ riêng năm 2007 tăng trên 80% và đạt mức kỷ
lục gần 72 tỷ USD vào năm 2008). Tuy nhiên, sau đó lượng FDI lại liên tục giảm
và không đồng đều trong các năm 2009 – 2013. Bên cạnh những nguyên nhân tác
động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến dòng vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam bị sụt giảm, môi trường đầu tư kinh doanh còn nhiều bất cập, quy
hoạch chính sách đầu tư phát triển kinh tế chưa hợp lý, trình độ lao động kỹ thuật
hạn chế, sự liên kết giữa các doanh nghiệp đầu tư chưa tốt, sự cạnh tranh đầu tư
nước ngoài quyết liệt từ Trung Quốc và các nước ASEAN thì một trong những
nguyên nhân quan trọng là hiệu quả của việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam chưa cao.
Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 07/04/2009 của Chính phủ1 nhận định rằng
thu hút đầu tư nước ngoài có định hướng và có chọn lọc vào các lĩnh vực quan
trọng, đồng thời nhấn mạnh rằng các quy định pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư,
đất đai, xây dựng, kinh doanh và các văn bản pháp luật chuyên ngành phải được rà
soát, thống nhất đồng bộ; hệ thống các quy định về điều kiện đầu tư và kinh doanh
chuyên ngành phải được xây dựng đầy đủ và công bố công khai nhằm minh bạch
hóa các tiêu chuẩn, điều kiện tiếp cận thị trường, và tạo cơ sở cho các cơ quan quản
lý nhà nước thực thi chức năng quản lý, kiểm tra, giám sát, tránh tình trạng mất cân
1


Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 07/04/2009 của Chính phủ đang còn hiệu lực.

5


đối, cấp phép tràn lan, gây dư thừa, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp trong bối cảnh
việc cấp phép và quản lý đầu tư đã được phân cấp về các địa phương. Công tác
quản lý nhà nước, phối hợp giữa các cơ quan trung ương và địa phương cần được
tăng cường. Xây dựng cơ chế báo cáo để tổng hợp thông tin kịp thời, đánh giá tình
hình nhằm đề xuất các giải pháp điều hành của Chính phủ có hiệu quả.
Trong quá trình xây dựng, sửa đổi và ban hành Luật đầu tư năm 2014, Nghị
quyết số 22-NQ/TW ngày 10/04/20131 của Ban chấp hành trung ương đã tiếp tục
khẳng định rằng không ngừng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, gắn
thu hút đầu tư với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh tế, hiệu quả
kinh tế, xã hội và môi trường. Có thể nói rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam không
chỉ tập trung xây dựng chính sách thu hút đầu tư nước ngoài mà còn đặc biệt quan
tâm tới việc xây dựng các chính sách pháp luật quản lý, giám sát hoạt động đầu tư
nước ngoài có hiệu quả nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, loại bỏ
những nguy cơ rủi ro về kinh tế (thất thu thuế, cạnh tranh không làm mạnh, độc
quyền và lũng đoạn thị trường) và môi trường từ các hoạt động đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây bên cạnh những hiệu quả kinh tế
rõ rệt từ hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều hệ lụy
không tốt về mặt quản lý trật tự kinh tế, chuyển giao công nghệ lạc hậu (ví dụ: đầu
tư máy móc công nghệ trong ngành than, đầu tư sản xuất điện tại các tỉnh biên
giới), thực thi chính sách thuế (ví dụ: chuyển nhượng vốn đầu tư trái pháp luật
nhằm mục đích trốn thuế) và ảnh hưởng tác động xấu đến môi trường (ví dụ: không
đảm bảo các tiêu chuẩn về xử lý chất thải) từ hoạt động kinh doanh, xây dựng, sản
xuất của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Có thể minh chứng bằng một số

vụ việc, như: việc xả thải làm hủy hoại môi trường trong hoạt động đầu tư của Tập
đoàn Formosa tại tỉnh Hà Tĩnh, Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 tại tỉnh Bình
Thuận, Công ty Vedan Việt Nam tại tỉnh Đồng Nai, Công ty đóng tàu Huyndai
Vinashin tại tỉnh Khánh Hòa… hay hoạt động chuyển nhượng vốn đầu tư trái phép
1

Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/04/2013 của Ban chấp hành trung ương hiện nay còn hiệu lực.

6


để trốn thuế của một số công ty của Trung Quốc đang đầu tư các Dự án thủy điện
tại các tỉnh Lào Cai, Điện Biên.
Gần đây, trong phiên trả lời chất vấn trước Quốc hội ngày 15/11/2016, Bộ
trưởng Công Thương đã nhấn mạnh một trong những nguyên nhân gây nên thiệt
hại về kinh tế nghiêm trọng tại các Dự án nghìn tỷ về sản xuất xi măng, nhiệt điện
là việc chuyển giao công nghệ lạc hậu, vi phạm các quy định về môi trường …
trong quá trình hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Các hệ lụy và vi
phạm này không chỉ gây ảnh hưởng thực tế trước mắt mà còn mang tính lâu dài cho
nền kinh tế, môi trường dân sinh tại Việt Nam và đang trở thành vấn đề thời sự thu
hút sự quan tâm của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề xử lý hậu quả và quy
trách nhiệm cho các sai phạm này đang gặp nhiều khó khăn, chưa thể giải quyết dứt
điểm đã tạo nên những dư luận không tốt trong xã hội, làm suy giảm niềm tin của
người dân đối với công tác điều hành, quản lý của Đảng và Nhà nước. Nguyên
nhân của những sai phạm nêu trên bắt nguồn từ sự hạn chế, bất cập của công tác
quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ các cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh những nguyên nhân về mặt con người (cán bộ quản lý năng lực kém,
buông lỏng quản lý vì tiêu cực, tham nhũng, quan liêu) thì những hạn chế, bất hợp
lý, chưa đủ tính răn đe trong các quy định pháp luật về quản lý đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo kẽ hở cho các sai phạm,

thất thoát từ hoạt động đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1987, trải qua 30
năm thực hiện, khu vực đầu tư nước ngoài đã không ngừng mở rộng và phát triển,
đóng góp đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đầu tư
nước ngoài đã trở thành một khu vực phát triển năng động, đóng góp tích cực vào
các thành tựu tăng trưởng, bổ sung nguồn vốn quan trọng trong tổng vốn xã hội,
khơi dậy và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần mở rộng thị trường,
tạo việc làm, thúc đẩy chuyển giao công nghệ cả về máy móc, thiết bị, tri thức và
kinh nghiệm quản lý, góp phần hội nhập kinh tế quốc tế.

7


Khi chủ trương tăng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư đã được pháp điển hóa
như hiện nay, thì vấn đề cấp bách đặt ra là cần phải xây dựng hành lang pháp lý hay
hoàn thiện pháp luật để: i. triển khai thực hiện trên thực tế; ii. bảo đảm quyền lợi
của nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài; và iii. quy định rõ
nghĩa vụ pháp lý khi nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào thị trường Việt
Nam để phòng ngừa thâu tóm, rút vốn ồ ạt hoặc các hệ quả khác ảnh hưởng đến thị
trường. Vì vậy, theo ý kiến chủ quan của tác giả luận văn, thì việc nghiên cứu pháp
luật về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam luôn là vấn đề được các
cơ quan có thẩm quyền cũng như thị trường dành nhiều sự quan tâm.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, việc nghiên cứu để hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là vô cùng cần thiết
nhằm góp phần xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh bền vững, hiệu quả cho
nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam góp phần phát triển nền kinh tế đồng thời bảo
vệ được các giá trị nội tại của quốc gia và bảo vệ tốt môi trường sống. Với mong
muốn góp phần vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam,
học viên lựa chọn đề tài: “Pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại

Việt Nam: thực trạng và giải pháp hoàn thiện” để làm đề tài luận văn thạc sĩ.
Kết quả nghiên cứu của đề tài dựa trên quá trình tổng hợp các quy định pháp
luật, tham khảo những công trình nghiên cứu với quy mô khác nhau của các học
giả, kinh nghiệm của bản thân học viên thông qua quá trình công tác thực tiễn khi
thực hiện dịch vụ tư vấn đầu tư cho các doanh nghiệp nước ngoài, qua đó nêu ra
thực trạng áp dụng pháp luật trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, các vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà
đề tài nghiên cứu, cụ thể là về pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, đã có không ít các công trình nghiên cứu có liên quan. Ví dụ một số
công trình nghiên cứu cụ thể sau đây: Luận văn thạc sĩ “Mối quan hệ giữa đầu tư
trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam” của

8


tác giả Lê Nguyễn Quỳnh Phương đã bảo vệ năm 2013; “Phương hướng hoàn thiện
pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của tác giả Vũ Huyền Bảo Linh được
thực hiện năm 2003 do PGS.TS. Vũ Chí Lộc hướng dẫn; Hoàng Văn Thứ (2009),
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, luận văn thạc
sĩ luật học; Lê Anh Tuấn (2010), Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực chứng khoán, kinh nghiệm quốc tế và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sĩ
luật học; “Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài” luận văn Thạc sĩ luật học của
Hoàng Cẩm Anh (bảo vệ năm 2015);“Ưu đãi về thuế và vấn đề thu hút đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Ánh Vân đăng trên tạp chí luật học số
35; “Những điểm mới của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của tác giả
Đỗ Nhất Hoàng được đăng trên Tạp chí luật học số 21; “Quản lý nhà nước đối với

hoạt động FDI tại Việt Nam” của tác giả Phan Thi Thúy đã bảo vệ năm 2010; sách
tham khảo “Những vấn đề cơ bản về pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”
của Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật xuất bản năm 2004; Báo cáo nghiên cứu về pháp luật
đầu tư của một số nước, báo cáo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2014;
“Quản lý môi trường tại các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam”
của tác giả Đinh Đức Trường đăng trên Tạp chí khoa học ĐHQGHN số 5, Tập 31
năm 2015… trong đó quy định pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam chỉ là một bộ phận của các nghiên cứu này, mặt khác nếu đặt phạm vi
nghiên cứu trong bối cảnh từ khi Luật đầu tư 2014 ra đời tới nay gắn với thực trạng
đầu tư tại Việt Nam hiện nay cho thấy có rất nhiều vấn đề cần được xem xét,
nghiên cứu và kiến nghị.
Nghiên cứu “Kỷ yếu 25 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của Bộ kế
hoạch và đầu tư được công bố năm 2013, học viên nhận thấy đây là một tài liệu đã
đánh giá khá toàn diện về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, tài liệu chỉ
tập trung vào các vấn đề mang tính vĩ mô hoặc chuyên biệt mà chưa xem xét đến
tầm quan trọng, tính hiệu quả và cấp thiết của các quy định pháp luật liên quan đến

9


công tác quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đặc biệt từ sau khi Luật đầu tư
2014 ra đời đến nay.
Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về
quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp hoàn
thiện” là cần thiết khách quan và luôn có tính mới. Vì vệc tập trung nghiên cứu
chuyên biệt về hệ thống pháp luật quốc tế nói chung và của Việt Nam nói riêng về
quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cần được nghiên cứu chuyên sâu
hơn, riêng biệt hơn là chỉ dừng ở việc khuyến khích. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề
tài này cũng nhằm đáp ứng yêu cầu cần thiết và cấp bách trong việc phát huy những
hiệu quả thiết thực trong việc thu hút nguồn lực đầu tư, quản lý môi trường đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế bền vững của
Đảng và Nhà nước đã đặt ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa nền kinh
tế hiện nay.
Xuất phát từ những nguyên nhân đã phân tích, học viên đã lựa chọn đề tài
nói trên để làm luận văn thạc sĩ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm
phục vụ chiến lược phát triển kinh tế đất nước thời kỳ hội nhập để phân tích làm
sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu pháp lý
truyền thống, như: phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, tổng hợp, phân tích, diễn
giải, quy nạp và so sánh pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiện cứu của luận văn là các quy định pháp luật về quản lý đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam và thực trạng việc thực thi các quy định này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực trạng việc thực thi pháp luật về
quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thông qua việc thực thi các quy định pháp

10


luật trong nước và các điều ước quốc tế đa phương, song phương trong lĩnh vực
đầu tư.
Về không gian, luận văn được nghiên cứu trên địa bàn cả nước, chú trọng
vào một số tỉnh tiêu biểu trong nước có nhà đầu tư nước ngoài hoạt động đầu tư.
Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu từ khi chính phủ Việt Nam ban
hành Luật đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 và các Nghị định, thông tư
hướng dẫn thi hành đến nay cùng các điều ước quốc tế về đầu tư mà Việt Nam đã

tham gia vẫn còn hiệu lực.
5. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài được học viên lựa chọn đề nghiên cứu nhằm các mục tiêu sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quản lý hoạt động đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam
- Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy định pháp luật về quản lý
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
- Nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia về quản lý hoạt
động đầu tư nước ngoài tại địa bàn nước sở tại;
- Tổng quan tình hình đầu tư và đánh giá những bất cập của pháp luật Việt
Nam hiện hành trong thực tiễn quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;

- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
và định hướng đàm phán ký kết các điều ước quốc tế của liên quan đến quản lý
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
6. Tính mới và ý nghĩa của đề tài
Luận văn có những đóng góp ít nhiều vào lý luận tổng quan về pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động quản lý đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
Luận văn đánh giá những hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam dẫn tới việc không đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý đầu tư nước ngoài
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia Việt Nam.

11


Luận văn sẽ đưa ra các đề xuất hoặc các khuyến nghị nhằm khắc phục những
hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam và kiến nghị một số định
hướng đàm phán ký kết các điều ước quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

7. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Nội dụng
luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia về lĩnh vực quản lý hoạt động đầu tư
nước ngoài;
Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý hoạt động đầu tư nước
ngoài;
Chương 3. Một số khuyến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

12


Chương 1.
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM, PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC
GIA VỀ LĨNH VỰC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. Quản lý đầu tư nước ngoài và vai trò của pháp luật trong quản lý hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1.1.1. Khái niệm quản lý đầu tư nước ngoài và giải quyết tranh chấp đầu tư nước
ngoài
Trước khi tìm hiểu thế nào là “quản lý đầu tư nước ngoài” chúng ta cần phải
làm rõ khái niệm “đầu tư”, “đầu tư nước ngoài”. Theo cách hiểu thông thường
trong ngôn ngữ Việt Nam thì đầu tư là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công
việc nào đó, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội”[1]. Dưới góc nhìn kinh tế
học, đầu tư được hiểu như là một hoạt động đưa vào sử dụng những nguồn lực đã
có để nhằm đạt được những kết quả lớn hơn cái đã có. Những kết quả lớn hơn này
được gọi là các lợi ích thu được từ đầu tư bao gồm sự lớn mạnh, tăng thêm về tài
sản vật chất, trí tuệ hay nguồn nhân lực cho xã hội. Dưới góc nhìn pháp lý, đầu tư

được hiểu là việc nhà đầu tư sử dụng vốn dưới hình thức được pháp luật cho phép
để tiến hành sản xuất, kinh doanh, trao đổi…. nhằm mục đích sinh lợi nhuận hoặc
đạt được các lợi ích kinh tế xã hội khác. Quá trình hình thành và phát triển pháp
luật về đầu tư tại Việt Nam (từ Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi ngày
20/5/1998 đến Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1996, 2000) đều chưa đưa ra
khái niệm về đầu tư mà mới chỉ đề cập đến khái niệm “đầu tư nước ngoài” và “đầu
tư trực tiếp nước ngoài”.
Bất cứ một quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nào muốn tiến hành
được đều phải có vốn đầu tư. Nó được hiểu là tài sản xã hội được bỏ vào đầu tư
nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Vốn đầu tư là yếu tố quyết định để kết hợp
các yếu tố khác trong sản xuất kinh doanh và là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu
đối với các dự án đầu tư. Chính vì vậy, làm sao có thể giải quyết được nguồn vốn

13


cho phát triển kinh tế là vấn đề cấp bách của mỗi quốc gia. Lịch sử đã chỉ ra chỉ có
hai con đường để giải quyết vấn đề trên, đó là:
- Huy động nguồn vốn trong nước
- Huy động nguồn vốn nước ngoài
Tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà lựa chọn nguồn vốn trong nước
hay ngoài nước cho thích hợp. Có thể lấy ví dụ về chính sách huy động vốn ở các
nước trên thế giới để minh họa cho điều này: Các nước Anh và Pháp tích lũy
nguyên thủy tư bản thông qua bóc lột thuộc địa, nước Nga tạo nguồn vốn đầu tư
bằng biện pháp đánh thuế cao, Nhật Bản có mức tiết kiệm cao trong một thời gian
dài do duy trì mức lương thấp trong khi năng suất lao động tăng nhanh, cho phí cho
quân sự thấp, hạn chế gắt gao chế độ phúc lợi xã hội và tinh giảm tối đa bộ máy
nhà nước, trong khi đó, các nước châu Á khác đều chú trọng đến chiến lược tạo vốn
hướng ngoại. Tuy chính sách tạo vốn hướng ngoại ở mỗi quốc gia châu Á cũng có
khác nhau song các nước ASEAN đều tập trung vào thu hút vốn FDI.

Huy động vốn đầu tư nước ngoài có thể được thực hiện dưới các hình thức:
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp (FDI) là loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ
sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng
vốn.
Đầu tư gián tiếp là lại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu
góp vốn nhưng không tham gia trực tiếp điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Trong hình thức đầu tư gián tiếp, ngoài đầu tư chứng khoán còn có tín dụng quốc
tế.Tín dụng quốc tế là hình thức đầu tư quốc tế dưới dạng cho vay vốn và kiếm lời
thông qua lãi suất tiền vay.
So với đầu tư gián tiếp, trong hình thức FDI, nước chủ nhà có nhiều cơ hội
tiếp thu nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước chủ đầu tư
nước ngoài. Mặt khác, các chủ đầu tư nước ngoài (ở một mức độ nhất định) có thể

14


tham gia điều hành quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đưa ra
những quyết định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà họ bỏ ra.Ngoài ra, một số nước
muốn huy động vốn thông qua đầu tư trực tiếp (mà cụ thể là thông qua hình thức
tín dụng quốc tế) sẽ dễ bị trục lợi về chính trị, dễ bị trói buộc vào vòng ảnh hưởng
của các nước cho vay hơn so với việc huy động vốn thông qua hình thức đầu tư
trực tiếp.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp cũng sẽ không mang lại hiệu quả cao nếu nước
chủ nhà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể mà để đầu tư tràn lan, kém hiệu quả,
tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột và phải gánh chịu những công nghệ độc hại, lạc
hậu do những nước xuất khẩu vốn chuyển sang.
Chính vì những điều lợi hại đã phân tích ở trên mà đa số các nước đang phát
triển đều coi đầu tư trực tiếp là chìa khóa đề mở cánh cửa cho phát triển kinh tế.
Đặc biệt, đối với giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường chứng khoán – công cụ

thu hút vốn đầu tư gián tiếp chưa hoàn thiện thì đầu tư trực tiếp càng chiếm một vị
trị quan trọng.
Luật Đầu tư năm 2005 ra đời điều chỉnh chung hoạt động đầu tư đã đưa ra
một định nghĩa về đầu tư: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản
hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”[2], tuy
nhiên định nghĩa này chưa thực sự rõ ràng và phù hợp với thực tế. Luật đầu tư 2014
(khoản 3 điều 3) lại đưa ra cách hiểu khác hơn về đầu tư thông qua định nghĩa về
“đầu tư kinh doanh”. Theo đó, đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư
để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư
góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp
đồng[4, 5, 6, 7] hoặc thực hiện dự án đầu tư [8]. Định nghĩa này có xu hướng giống
với cách định nghĩa trong các hiệp định đầu tư quốc tế, cụ thể tại điều 1 chương 4
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, đầu tư được hiểu là mọi hình thức đầu
tư trên lãnh thổ của một bên nước này do các công dân hoặc công ty của nước bên
kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, bao gồm các hình thức như một

15


công ty hoặc một doanh nghiệp, cổ phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác,
trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi đối với các khoản nợ dưới các hình thức
khác trong công ty; các quyền trong hợp đồng1[9].
Nhìn chung lại, có thể khái quát rằng đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ các nguồn
lực như vốn, tài sản, trí tuệ … theo các hình thức khác nhau phù hợp với các quy
định pháp luật để thực hiện các hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập các
tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn mua cổ phần, phần vốn góp của các tổ chức kinh tế;
hoặc tiến hành đầu tư theo các hình thức hợp đồng hoặc thực hiện các dự án đầu tư
nhằm mục đích sinh lời.
Đầu tư có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên từng tiêu
chí2[10]: Đầu tư vào khu vực tư nhân và đầu tư vào khu vực nhà nước (căn cứ theo

khu vực kinh tế tiếp nhận vốn đầu tư); đầu tư phi lợi nhuận và đầu tư có lợi nhuận
(căn cứ theo mục đích đầu tư); đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp (căn cứ theo tính
chất quản lý hoặc quyền kiểm soát hoạt động đầu tư); đầu tư vào sản xuất, thương
mại hoặc dịch vụ (căn cứ vào lĩnh vực đầu tư). Bên cạnh đó, nếu căn cứ vào nguồn
gốc vốn đầu tư thì đầu tư có thể được chia thành đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Như vậy, đầu tư nước ngoài là một hình thức của hoạt động đầu tư.
Khoản 3 điều 12 Luật Đầu tư năm 2005 đã đưa ra định nghĩa về đầu tư nước
ngoài khá chi tiết, theo đó đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu
tư, trong đó khái niệmnhà đầu tư nước ngoài được giải thích tại khoản 4 điều 3 Luật
Đầu tư năm 2014 là những cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức được thành lập
theo pháp luật nước ngoài thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Như vậy,đầu tư nước ngoài có thể hiểu một cách khái quát nhất là sự di chuyển
vốn, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào khác từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận
đầu tư để tiến hành hoạt động đầu tư (như đã nêu trên) nhằm mục đích thu được lợi
nhuận.
1

Điều 1, Chương 4 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ.
Chương XVIII - Luật Kinh tế quốc tế, Giáo trình Công pháp quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013 tr.722746 (Nguyễn Bá Diến chủ biên).
2

16


Quản lý đầu tư nước ngoài trong phạm vi một quốc gia có thể hiểu là công
tác quản lý của nhà nước, chính quyền sở tại đối với hoạt động đầu tư nước ngoài
trên lãnh thổ quốc gia tiếp nhận đầu tư. Để tìm hiểu khái niệm quản lý đầu tư nước
ngoài trước hết ta cần phân tích khái niệm về quản lý đầu tư. Quản lý nói chung là
sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các đối tượng quản lý để điều

khiển đối tượng nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Quản lý đầu tư chính là sự
tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng quá trình đầu tư (bao gồm công tác
chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý
tài sản do đầu tư tạo ra) và các yếu tố đầu tư bằng một hệ thống đồng bộ các biện
pháp về pháp luật, kinh tế - xã hội , tổ chức kĩ thuật và các biện pháp khác nhằm
đạt được kết quả, hiệu quả đầu tư, hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất trong điều
kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật kinh tế khách
quan nói chung và quy luật vận động đặc thù của đầu tư nói riêng.
Quản lý đầu tư nước ngoài là một bộ phận của quản lý đầu tư nói chung
nhưng có nội hàm “hẹp” hơn, đối tượng của quản lý đầu tư nước ngoài chỉ bao gồm
các hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài trong phạm vi địa bàn nước sở
tại (bao gồm các hoạt động đầu tư độc lập của nhà đầu tư nước ngoài và các hoạt
động đầu tư có sự liên kết, hợp tác với nhà đầu tư nước sở tại). Do đó, chúng ta có
thể khái quát về khái niệm quản lý đầu tư nước ngoài trong phạm vi một quốc gia
như sau:
Quản lý đầu tư nước ngoài trong phạm vi một quốc gia là sự tác động liên
tục, có tổ chức, có định hướng của cơ quan có thầm quyền nước tiếp nhận đầu tư
vào quá trình đầu tư (bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận
hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra) và các yếu tố đầu
tư của nhà đầu tư nước ngoài tại nước tiếp nhận đầu tư bằng một hệ thống đồng bộ
các biện pháp về pháp luật, kinh tế - xã hội , tổ chức kĩ thuật và các biện pháp khác
nhằm đạt được kết quả, hiệu quả đầu tư, hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất trong
điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật kinh tế
khách quan và quy luật vận động đặc thù của hoạt động đầu tư.

17


Những thành tố của quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong phạm vi một
quốc gia bao gồm các yếu tố sau:

Về chủ thể: Chủ thể của quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong phạm vi
một quốc gia là hệ thống chính quyền nhà nước được phân cấp chức năng, nhiệm
vụ về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Tùy theo mô hình chính trị, địa giói
hành chính của mỗi quốc gia; tùy theo các loại hình, quy mô và lĩnh vực đầu tư của
nhà đầu tư nước ngoài thì chủ thể quản lý có thể bao gồm một hoặc nhiều cơ quan
phân cấp theo các tiêu chí này để thực hiện việc quản lý hoạt động đầu tư nước
ngoài. Tại Việt Nam, căn cứ trên lĩnh vực, quy mô đầu tư theo quy định tại Luật
đầu tư 2014 thì chủ thể quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài bao gồm: Quốc hội,
Chính phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư, các Sở kế hoạch và đầu tư trực thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân các tỉnh, huyện và các sở ngành liên quan, Ban
quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Về đối tượng: Đối tượng của quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong
phạm vi một quốc gia bao gồm nhà đầu tư nước ngoài (là cá nhân có quốc tịch
nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài) và tổ chức kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài (là tổ chức kinh tế, pháp nhân có nhà đầu tư nước ngoài là thành
viên hoặc cổ đông góp vốn) thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước sở tại.
Về phạm vi: Phạm vi quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong một quốc
gia được thực hiện trong phạm vi từ khâu xin cấp phép đầu tư, triển khai hoạt động
đầu tư, sử dụng vốn đầu tư, chuyển lợi nhuận về nước, chuyển nhượng dự án đầu
tư, điều chỉnh nội dung đăng ký đầu tư cho đến việc kết thúc hoạt động đầu tư trong
thời hạn được cấp phép hoặc xin giãn tiến độ đầu tư, kéo dài thời hạn đầu tư tại địa
bàn nước sở tại.
Về hình thức thể hiện: Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong phạm vi
một quốc gia được thể hiện dưới hình thức ban hành và tổ chức thực hiện các quy
định pháp luật, chính sách, kế hoạch về các hoạt động thẩm tra, cấp phép, kiểm tra,
giám sát, thanh tra, đánh giá toàn diện các hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài
trong thời gian đầu tư tại nước sở tại trong phạm vi nêu trên.

18



Về vấn đề giải quyết tranh chấp đầu tư. Các tranh chấp trong lĩnh vực đầu
tư nước ngoài có thể bao gồm:
Một là, tranh chấp liên quan hoạt động đầu tư giữa nhà nước tiếp nhận
đầu tư và nhà đầu tư từ quốc gia khác (bao gồm cá nhân và pháp nhân) phát sinh
trên cơ sở điều ước quốc tế, thỏa thuận về đầu tư;
Hai là, tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước về hoạt
động đầu tư phát sinh trên cơ sở hợp đồng, thỏa thuận hay pháp luật của nước tiếp
nhận đầu tư;
Ba là, tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến giải thích, thực
hiện các điều ước quốc tế về đầu tư. Tùy thuộc vào quy định của điều ước quốc
tế hoặc thỏa thuận của các bên, tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư quốc tế được
giải quyết tại trọng tài quốc tế hoặc cơ quan tài phán quốc tế khác hay tại tòa án,
trọng tài của quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Do đó, vấn đề giải quyết các tranh chấp nói trên có thể được hiểu là một hệ
thống gồm toàn bộ các yếu tố có liên quan chặt chẽ với quá trình đầu tư nước
ngoài, ví dụ: các bên tranh chấp, bên liên quan, thiết chế giải quyết tranh chấp
được vận hành, hoạt động dựa trên cơ sở quy định pháp luật, quy tắc pháp lý liên
quan để giải quyết một tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài (ICI).
Việc giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài có thể được giải quyết theo các
cơ chế khác nhau, trong đó có thể áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc
tế (ICSID) theo Công ước năm 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc
gia và công dân của các quốc gia khác.
Trong phạm vi đề tài luận văn này, học viên chỉ nghiên cứu vấn đề quản lý
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới góc độ pháp luật; phân tích, đánh giá thực
trạng, hiệu quả và những hạn chế của công tác quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam trong khoảng thời gian từ khi Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực đến nay. Qua
đó, học viên xin đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các
quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác quản lý đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam.


19


1.1.2. Ý nghĩa và vai trò quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Đầu tư nước ngoài chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thị
trường Việt Nam. Hiện nay, vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành nhân tố quy định
bản chất các quan hệ kinh tế, quốc tế, bổ sung nguồn vốn quan trọng; thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế; thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chuyển giao công
nghệ. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, thu hút số lượng lớn lao động trực tiếp
và lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên
quan; góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ tay
nghề, chuyên môn, tiếp thu công nghệ hiện đại, trình độ quản lý và mở rộng thị
trường.
Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế
- xã hội của một quốc gia, nó tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống, kinh tế xã hội và chính trị của nước tiếp nhận đầu tư. Về mặt kinh tế, vốn đầu tư nước
ngoài tác động đến tốc độ tăng của GDP, cán cân thanh toán, phúc lợi xã hội, thu
nhập người lao động và các chỉ tiêu kinh tế khác. Về mặt xã hội, vốn đầu tư nước
ngoài có tác động đến văn hoá, đạo đức của nước nhận vốn. Nhìn một cách tổng
quát, đầu tư nước ngoài có các vai trò quan trọng sau:
Góp phần tăng nguồn vốn cho phát triển kinh tế: đầu tư nước ngoài là nguồn
vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư góp phần tạo ra động lực cho sự
tăng trưởng và phát triển. Đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc tiếp
nhận nhiều vốn đầu tư nước ngoài sẽ vừa tác động đến tổng cầu (về sản lượng và
thu nhập ngắn hạn), vừa tác động đến tổng cung (tổng cung dài hạn tăng lên, kéo
theo sản lượng tiềm năng tăng theo, do đó giá cả sản phẩm giảm xuống) của nền
kinh tế. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng từ đó kích thích sản
xuất phát triển mạnh hơn. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy,
phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống xã

hội.

20


Thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu: vốn đầu tư nước ngoài sẽ tác
động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, loại bỏ các yếu tố làm hạn chế quy mô đầu tư,
đổi mới kỹ thuật; tận dụng được các lợi thế so sánh của quốc gia qua đó phát huy
và tăng cường nội lực của đất nước. Mặt khác, vốn đầu tư nước ngoài cũng làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và
dịch vụ, góp phần giải quyết sự mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ,
đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Bên canh đó, phát
huy được những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị, … Từ đó,
cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ
được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng tốt hớn các nhu cầu phát triển
kinh tế – xã hội của nước tiếp nhận đầu tư.
Thúc đẩy chuyển giao công nghệ: khi tiến hành đầu tư, nhà đầu tư nước
ngoài không chỉ chuyển vốn dưới dạng tiền mà còn chuyển vốn dưới dạng máy
móc, thiết bị, bí quyết công nghệ, kinh nghiệm quản lý... qua đó sẽ làm tăng cường
trình độ khả năng khoa học công nghệ của quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Khuyến khích năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, thương nhân trong
nước: Với sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường nước tiếp
nhận đầu tư, những ưu thế về chiếm giữ thị phần lớn theo kiểu độc quyền của các
nhà đầu tư trong nước sẽ không còn được kéo dài khi ưu thế về nguồn lực của nhà
đầu tư nước ngoài có sự vượt trội hơn. Điều này sẽ buộc các nhà đầu tư trong nước
phải đổi mới quá trình sản xuất từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ bằng việc cải
tiến công nghệ và phương pháp quản lý để có thể cạnh tranh với các nhà đầu tư
nước ngoài trên chính thị trường đó. Đó chính là một trong những thử thách tất yếu
cũng đồng thời là động lực tích cực của nền kinh tế thị trường đối với các nhà sản
xuất trong nước của các quốc gia đang phát triển.

Tăng cơ hội tiếp cận với thị trường nước ngoài: Việc được tiếp cận nhiều hơn với
các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước tiếp nhận đầu tư sẽ nhận
thấy rất nhiều nơi (nhiều quốc gia) cần cái họ đang có, cái họ đang cần thì ở nơi đối tác
lại có. Từ đó vấn đề tăng cường hợp tác, tăng xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho nước tiếp

21


nhận đầu tư đồng thời nhập khẩu các loại mặt hàng trong nước đang cần sẽ được các
bên tích cực thúc đẩy, qua đó thúc đẩy việc hợp tác đầu tư giữa các nước. Bởi vậy quá
trình đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế là một quá trình luôn thúc đẩy nhau,
tương trợ nhau cùng phát triển.
Góp phần tạo việc làm cho người dân, tăng thu nhập cho người lao động: giải
quyết việc làm cho người dân là vấn đề mà bất cứ quốc gia nào cũng phải chú trọng
quan tâm vì nó là một trong những nhân tố góp phần làm cho xã hội phát triển. Giải
quyết việc làm sẽ làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống, giảm các tệ nạn xã
hội. Mặt khác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường chi trả mức tiền
công thường cao hơn mức bình quân trung bình tại nước tiếp nhận đầu tư giúp
người lao động có thu nhập cao hơn, kéo theo mức tiêu dùng và tiết kiệm lớn hơn
so với người lao động làm việc trong các khu vực khác. Điều này góp phần thúc
đẩy mặt bằng tiền công trong nước tiếp nhận đầu tư tăng lên, tạo điều kiện cho các
ngành khác phát triển.
Từ ý nghĩa và vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài nêu trên cho thấy, để
đánh giá ý nghĩa và vai trò của công tác quản lý đầu tư nước ngoài đối với nền kinh
tế Việt Nam chúng ta cần làm rõ sự cần thiết phải có sự quản lý của nhà nước đối
với đầu tư nước ngoài. Hiện nay, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể khái quát
dưới 02 hình thức dự án: dự án dân lập (các dự án do nhà đầu tư nước ngoài hợp tác
với các doanh nghiệp tư của Việt Nam) và dự án có vốn nhà nước. Yêu cầu cần
thiết phải có sự quản lý nhà nước đối với các dự án này được thể hiện như sau:
Đối với các dự án dân lập

Thứ nhất, đầu ra của các dự án: bên cạnh các sản phẩm, dịch vụ còn có các
loại chất thải, các loại chất thải này phần lớn sẽ có tác hại cho môi trường và sức
khỏe của cộng đồng, có thể gây ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống về lâu dài và
làm suy kiệt nòi giống. Những sản phẩm hoặc dịch vụ được tạo ra từ các dự án này
cũng không đương nhiên và đơn thuần chỉ có lợi cho cộng đồng mà vẫn có thể gây
hại nếu không được quản lý, sử dụng đúng quy trình. Vì vậy, nhà nước cần phải

22


quản lí các dự án dân lập để ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực của đầu ra từ các dự
án có thể gây nên.
Thứ hai, đầu vào của dự án: bao gồm các yếu tố sẽ được sử dụng để hoạt
động, vận hành dự án như tài nguyên, lao động, máy móc, thiết bị. Việc sử dụng
các yếu tố này sẽ gây tác động ảnh hưởng đến cộng đồng về nhiều mặt. Do đó, nhà
nước cần phải quản lý các dự án dân lập để cân đối các nguồn lực, tránh tình trạng
rối loạn, mất cân bằng trong nền kinh tế.
Thứ ba, các đặc tính của mỗi công trình do dự án tạo ra như các chỉ tiêu về
kiến trúc, kết cấu, địa điểm phân bố… có ý nghĩa quan trọng đối với chính trị, kinh
tế, xã hội, quốc phòng, an ninh ở từng địa phương và cả nước. Vì vậy, nhà nước
cũng phải quản lí các dự án dân lập trên các mặt khác về quy hoạch, xây dựng,
phân bổ nguồn lực, phân bổ lao động …
Thứ tư, nhà nước quản lí dự án dân lập để ngăn ngừa các hiện tượng áp bức,
bóc lột, bất công, độc quyền xảy ra trong quá trình triển khai, vận hành các dự án
này.
Đối với các dự án có vốn nhà nước
Dự án có vốn nhà nước trong trường hợp này là những dự án sử dụng vốn
nhà nước để hợp tác đầu tư với nhà đầu tư nước ngoài, do đó các dự án dạng này
luôn có một Ban quản lý dự án kèm theo. Các ban này có thể là lâm thời tồn tại
cùng dự án hoặc thường nhiệm tồn tại ngay cả khi không có dự án nào hoặc cùng

lúc quản lý nhiều dự án tùy thuộc vào quy mô, tính chất và tầm quan trọng của từng
dự án. Tuy nhiên, sự quản lý của các Ban này là chưa đầy đủ và vẫn cần phải chịu
sự quản lý của nhà nước, bởi vì:
Một là, Ban quản lý dự án chỉ thực hiện chức năng quản lý với tư cách là chủ
đầu tư, là người đại diện cho nhà nước về mặt vốn đầu tư, có nhiệm vụ quản lý,
giám sát việc sử dụng vốn theo quy định để đạt được các mục tiêu đầu tư. Các vấn
đề gây tác động, ảnh hưởng khác của dự án không được họ quan tâm hoặc không
có trách nhiệm và không đủ khả năng quan tâm. Do đó, nếu không có sự quản lý
của nhà nước cùng với sự quản lý của các Ban này thì các dự án có vốn nhà nước

23


trong khi theo đuổi các mục đích chuyên ngành, lợi nhuận có thể sẽ làm tổn hại đến
các lĩnh vực khác của quốc gia.
Hai là, thực tiễn cho thấy, bản thân các Ban quản lý dự án cũng không thực
hiện trọn vẹn và đầy đủ trách nhiệm đại diện sở hữu vốn hoặc họ không đủ thẩm
quyền, chuyên môn để đánh giá, quản lý tổng thể các vấn đề liên quan dẫn tới việc
sử dụng vốn nhà nước sai mục đích, kém hiệu quả, thậm chí sử dụng để mưu cầu
lợi ích tư.
Do đó, việc nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong quản lý đầu tư nước ngoài là
rất cần thiết. Nói cách khác, vai trò chủ đạo, quan trọng của nhà nước Việt Nam
trong quản lý đầu tư nước ngoài cũng chính là vai trò, tầm quan trọng của công tác
quản lý đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam. Công tác quản lý đầu tư
nước ngoài góp phần tạo nên một môi trường đầu tư, kinh doanh ổn định, minh
bạch và bình đẳng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước của một quốc gia.
1.1.3. Nội dung quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay bao gồm đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI).
FDI là một loại hình đầu tư có sự di chuyển vốn giữa các quốc gia, trong đó

người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động
sử dụng vốn đầu tư. FDI có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, là loại hình chu chuyển vốn quốc tế, chủ sở hữu vốn tiến hành hoạt
động đầu tư ở nước ngoài (doanh nghiệp tiếp nhận vốn FDI không thuộc quốc gia
của nhà đầu tư).
Thứ hai, là loại hình đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư nước ngoài có quyền điều
hành doanh nghiệp tiếp nhận vốn. Quyền này phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà
đầu tư vào vốn pháp định. Trong trường hợp góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu
tư có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả sản xuất
kinh doanh, phân chia lãi, lỗ giữa các nhà đầu tư theo tỷ lệ góp vốn góp.

24


Thứ tư, FDI ít chịu sự chi phối của Chính phủ hơn các hình thức đầu tư khác,
ít phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa Việt Nam với nước đầu tư. Nhà đầu tư
phải tuân thủ các quy định pháp luật của Việt Nam đối với doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Thứ năm, FDI là loại đầu tư dài hạn và trực tiếp, vốn FDI là một loại vốn dài
hạn tương đối ổn định và không phải là vốn vay nên Việt Nam sẽ có được một
nguồn vốn dài hạn bổ sung cho vốn đầu tư trong nước mà không phải trả nợ lãi.
Ngoài ra, FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu mà còn có vốn bổ sung trong
quá trình đầu tư của các bên nước ngoài.
Thứ sáu, các nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định pháp luật của Việt Nam
đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ bảy, FDI phần lớn tập trung vào những lĩnh vực có thể mang lại lợi
nhuận cao.
Thứ tám, về hình thức, các nhà đầu tư có thể thực hiện FDI theo các phương
thức như bỏ vốn thành lập doanh nghiệp mới tại Việt Nam hoặc mua lại một phần

hay toàn bộ các doanh nghiệp có sẵn hoặc mua cổ phiếu tiến tới thôn tính, sáp
nhập.
Thứ chín, xu hướng đa cực, đa biên và đa hình thức trong FDI ngày càng rõ
nét, thường nhiều bên cùng tham gia với tỷ lệ vốn góp khác nhau và với các hình
thức khác nhau như nhà nước và tư nhân cùng tham gia hoặc tư nhân với tư nhân
(Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; doanh nghiệp liên doanh; đầu tư theo hình
thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh; đầu tư theo hình thức đầu tư theo hợp đồng đối
tác công tư).
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên
giới, được hiểu là các hoạt động mua tài sản nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức
đầu tư này không kèm việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của
doanh nghiệp như hình thức đầu tư FDI. FPI có các đặc điểm sau:
i) Nhà đầu tư nước ngoài không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp;

25


×