Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 111 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

O C GIANG

Tội VI PHạM CáC QUY ĐịNH Về KHAI THáC Và BảO Vệ RừNG
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HOC

H NI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

O C GIANG

Tội VI PHạM CáC QUY ĐịNH Về KHAI THáC Và BảO Vệ RừNG
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HOC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS TRNG QUANG VINH

H NI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu thống kê, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính thực tiễn,
chính xác, trung thực và tin cậy. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác, tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học theo chương trình và thực hiện tất cả các nghĩa vụ về tài chính
theo quy định của Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Ngƣời cam đoan

Đào Đức Giang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM CÁC
QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ ................................................................................. 8
1.1.

Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội vi phạm các quy định

về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự ............................... 8
1.1.1. Khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ............ 8
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội Vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng ......................................................................................... 13
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng .................................................................................... 23
1.2.

Khái lƣợc sự hình thành và phát triển những quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng.................................................................. 27
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985 ............................................................................................ 27
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ............................................. 31
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999........................ 34
1.3.

Những quy định về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự một số nƣớc trên thế giới.... 35
1.3.1. Quy đinh
̣ của Bô ̣ luâ ̣t Hiǹ h sự nư ớc Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng .......... 35


1.3.2. Quy đinh
̣ của Bô ̣ luâ ̣t Hiǹ h sự Liên Bang Nga về t ội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng ................................................ 38
1.3.3. Quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t hiǹ h sự một số quốc gia Đông Nam Á về

tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ....................... 40
Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ TĨNH ......................................................................42
2.1.
Những quy định về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 .............. 42
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng................................................................ 42
2.1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng ....................................................... 52
2.1.3. Những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng so với Bộ luật Hình sự
năm 1999 ............................................................................................ 56
2.2.
Thực tiễn xét xử đối với tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ............................. 60
2.2.1. Khái lược chung các đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội của
tỉnh Hà Tĩnh........................................................................................ 60
2.2.2. Tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử đối với tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ....... 65
2.2.3. Một số tồn tại, vướng mắc và những nguyên nhân của thực
trạng này ............................................................................................ 77
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM CÁC
QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG .................... 81
3.1.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật

Hình sự Việt Nam về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng................................................................................... 81


3.2.

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm
2015 về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.... 85
3.2.1. Về đối tượng tác động của tô ̣i pha ̣m .................................................. 85
3.2.2. Về giá tri ̣tài sản pha ̣m pháp ............................................................... 86
3.2.3. Về pháp nhân thương mại phạm tội ................................................... 86
3.3.

3.3.1.
3.3.2.
3.3.3.
3.3.4.
3.3.5.
3.3.6.

Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng.................................................................. 87
Nâng cao chấ t lươ ̣ng nguồ n nhân lực ngành tư pháp......................... 87
Giải pháp về tổ chức........................................................................... 88
Nâng cao hiê ̣u quả tuyên truyề n pháp luâ ̣t về khai thác và bảo vê
ng̣ rư
...̀ 90
Thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và sinh kế cộng đồ ng các vùng
nông thôn, miề n núi............................................................................ 90

Nâng cao chấ t lươ ̣ng đô ̣i ngũ cán bô ̣ tuyên truyề n , phổ biế n giáo
dục pháp luâ ̣t ...................................................................................... 92
Tăng cường công tác phố i hơ ̣p liên ngành trong công tác bảo vê ̣
và phát triển rừng ............................................................................... 93

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99


DANH MỤC CÁC TƢ̀ VIẾT TẮT
BLHS:

Bô ̣ luâ ̣t Hiǹ h sự

BLTTHS:

Bô ̣ luâ ̣t Tố tu ̣ng hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

GRDP:

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh

PCCCR:

Phòng cháy chữa cháy rừng


QHXH:

Quan hệ xã hội

QLXDBV:

Quản lý xây dựng bảo vệ

TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

UBND:

Ủy ban nhân dân

VPPL:

Vi phạm pháp luật

VQG:

Vườn Quốc gia


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Diện tích rừng tự nhiên bị mất trong giai đoạn 1995-2014

66

Bảng 2.2. Diện tích rừng bị suy thoái trong giai đoạn 1995-2014

67

Bảng 2.3. Tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh từ 2012-2016

68

Bảng 2.4. Hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
trên điạ bàn tỉnh Hà Tiñ h từ 2012-2016

69

Bảng 2.5. Số lươ ̣ng lâm s ản bị tịch thu trong các vụ án vi phạm
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh từ 2012-2016

70


Bảng 2.6. Số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh từ 2012 đến 2016

71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rừng là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển của xã hội loài người. Ngoài vai trò cân bằng hệ
sinh thái, ổn định và điều hòa khí hậu, giúp sự sống trên trái đất được duy trì
bền vững, rừng còn cung cấp nguồn lâm sản phục vụ nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội của con người.
Là một trong những quốc gia có tài nguyên rừng đa dạng và phong phú,
hiện nay, theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt
Nam có khoảng hơn 14 triệu ha rừng với độ che phủ khoảng 40,84 %. Trong
đó hơn 10 triệu ha là rừng tự nhiên, còn lại khoảng 3,8 triệu ha là rừng trồng
[6]. Đây là một trong những nhân tố quan trọng, đóng góp lớn cho sự phát
triển kinh tế của nước ta trong suốt lịch sử hình thành và phát triển. Trong đó,
chỉ tính riêng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản mỗi năm đã đóng góp tới
hơn 4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta. Nhận thức được tầm
quan trọng đó, nhiệm vụ bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng luôn được Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Ngoài các chủ trương, chính sách khuyến
khích hoạt động trồng và phát triển rừng, hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về khai thác và bảo vệ rừng cũng liên tục được đổi mới để phù hợp với
điều kiện thực tiễn. Bộ luật Hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X thông
qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 đã dành hẳn một điều luật quy định về tội vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Đây là nền tảng pháp lý quan
trọng thể hiện quyết tâm của nhà nước ta đối với việc trừng trị nghiêm khắc

tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Tuy vậy, những năm gần đây, dưới áp lực của sự phát triển kinh tế, tình
hình tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở nước ta

1


đang có chiều hướng gia tăng cả về quy mô và mức độ phạm tội. Sau hơn 15
năm thực thi Bộ luật hình sự 1999, các quy định về tội vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng đã và đang xuất hiện nhiều hạn chế. Số lượng các
vụ án hình sự đã được điều tra, truy tố và đưa ra xét xử chưa phản ánh hết
được thực trạng phá rừng, khai thác, vận chuyển và buôn bán gỗ trái phép;
mức hình phạt chưa đủ sức răn đe so với lợi ích từ việc khai thác rừng trái
phép; chủ thể và mức độ vi phạm trong các vụ án ngày càng nghiêm trọng...
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Duyên hải Bắc Trung bộ, có diê ṇ tić h tự
nhiên khoảng 5.997,3 km2, trong đó diện tích rừng chiếm đến 326.149ha, độ
che phủ đạt 52,6%. Hơn 2/3 diện tích rừng trên địa bàn Tỉnh là rừng tự nhiên
với giá trị sinh thái và kinh tế rất lớn. Những năm qua, công tác bảo vệ và phát
triển rừng trên địa bàn không ngừng được các cấp chính quyền và cả hệ thống
chính trị quan tâm. Tuy vậy, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm, chặt phá rừng,
vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép trên địa bàn Tỉnh những năm gần đây cũng
cho thấy sự phức tạp cả về tính chất và mức độ thiệt hại. Thực tiễn xử lý tội vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã đạt được nhiều kết quả đáng
ghi nhận. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại, hạn chế khiến cho việc đấu tranh,
phòng chống loại tội phạm này còn gặp vướng mắc trên thực tiễn. Đây là vấn
đề cần thiết phải nghiên cứu và tháo gỡ triệt để. Làm thế nào để đấu tranh,
phòng chống có hiệu quả đối với tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng? Thiết nghĩ cần phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ
thống về mặt lý luận đồng thời bám sát thực tiễn để tìm hiểu về thực trạng,
nguyên nhân, điều kiện của việc vi phạm, từ đó có những giải pháp cụ thể có

tính khả thi nhằm đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này có hiệu quả. Với
những lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “Tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh)” để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu liên quan đến tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự đã được nhiều chuyên
gia, học giả nghiên cứu từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, qua đó đã gợi
mở nhiều vấn đề về cả mặt lý luận và thực tiễn. Trong đó:
Một số công trình đã nghiên cứu, phân tích tổng quát về bộ luật hình sự
Việt Nam như: “Giáo trình luật hình sự Việt nam - phần các tội phạm”
(2008) của tác giả Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; “Lý luận
chung về định tội danh” (2013) của tác giả Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội; “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung” (2014) của tác
giả Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; “Quyết định hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam” (1995) của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb
Chính trị quốc gia; “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm”
(1997) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, “Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam” (2000) của tác giả Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội...
Một số công trình khác cũng đã phân tích, đánh giá chung khía cạnh
pháp luật về bảo vệ rừng ở nước ta hiện nay như: Nguyễn Thanh Huyền
(2004) với đề tài “Một số vấn đề cơ bản về pháp luật bảo vệ rừng ở Việt Nam
hiện nay” (luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội);
Nguyễn Thị Dung (2012) với đề tài “Tội vi phạm các quy định về quản lý
rừng trong luật hình sự Việt Nam” (luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại

học quốc gia Hà Nội); Nguyễn Hải Âu (2001) với nghiên cứu “Pháp luật bảo
vệ môi trường rừng ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện”
(luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội)... các nghiên cứu này đã làm
rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật về bảo vệ rừng, qua đó đưa
ra một số đề xuất, giải pháp góp phần bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp
luật về bảo vệ rừng.
3


Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng cũng đã được đề
cập cụ thể trong một số sách chuyên khảo về pháp luật hình sự như: “Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 giáo trình luật hình sự
Việt Nam” (2001) của tác giả Uông Chu Lưu (chủ biên, nhà xuất bản Chính
trị quốc gia); “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam đã được sửa đổi
bổ sung năm 2009” (2009), do Trần Minh Hưởng chủ biên, nhà xuất bản Lao
động; “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - phần các tội phạm tập VII - Các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Bình luận chuyên sâu” (2006) của Đinh
Văn Quế, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh...
Bên cạnh đó, một số công trình cũng đã phân tích, đánh giá việc thực
thi các quy định về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
trong luật hình sự Việt Nam từ trước những năm 2010 như: Tác giả Nguyễn
Thị Hải (2009) với đề tài “Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (luận
văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội); Vũ Thị Hiền
(2010) với đề tài: “Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
trong luật hình sự Viê ̣t Nam” (luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học
quốc gia Hà Nội). Các tác giả đã nghiên cứu và phân tích lịch sử lập pháp về
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Phân tích và làm rõ khái niệm, những dấu
hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, đồng

thời phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác trong BLHS (176, 189,
191) nhằm áp dụng đúng đắn điều luật trong thực tiễn xét xử. Khái quát tình
hình tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và thực tiễn xét xử
tội phạm này trong giai đoạn 2005-2009. Qua đó, tác giả đã đề xuất một số
giải pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng ở nước ta một cách có hiệu quả [23, 33]. Tuy vậy, các nghiên
4


cứu này chủ yếu đã được thực hiện từ khá lâu, một số kết quả nhìn chung
không phù hợp với đặc điểm của loại hình tội phạm vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã phân tích sơ bộ về tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam
ở một số giai đoạn nhất định, có giá trị để tham khảo và kế thừa trong việc
nghiên cứu đề tài. Thực tế hiện nay với những thay đổi về tình hình kinh tế,
xã hội cũng như chính sách pháp luật đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết đối với loại hình tội phạm này. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách
nghiêm túc, có hệ thống, bám sát thực tiễn và những trường hợp cụ thể để làm
rõ hơn thực trạng áp dụng pháp luật hình sự trong việc xử lý tội vi phạm, qua
đó có những giải pháp cụ thể mang tính khả thi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Viê ̣t Nam, luận văn hướng tới mục
đích nghiên cứu những vấn đề liên quan trực tiếp đến vấn đề này. Cụ thể:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng; lịch sử lập pháp đối với loại hình tội phạm này ở Viê ̣t Nam.
- Nghiên cứu những quy định về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng trong Bộ luật Hình sự và thực tiễn xét xử đối với loại tội phạm

này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
- Làm rõ một số tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân dẫn đến hạn chế
trong xử lý tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong thực tế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trên địa bàn.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích thì luận văn sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ khái niệm, ý nghĩa và đặc điểm của tội vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng;
- Nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng;
- Khẳng định được mức độ nguy hiểm của tội phạm để có cách nhìn
đúng đắn về tình hình VPPL về khai thác và bảo vệ rừng cũng như đánh giá
đầy đủ những yếu tố làm cho tình hình tội Vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng đang diễn biến ngày càng phức tạp với hậu quả gây ra cho xã
hội ngày càng lớn, qua đó nhằm đưa ra một số giải pháp khả thi, góp phần đấu
tranh phòng, chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một
cách có hiệu quả.
- Nghiên cứu thực tiễn xét xử tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Về cơ bản, đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật cũng như
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng:
- Phương pháp luận phép biện chứng duy vật: Quan điểm lịch sử cụ thể

luôn được quán triệt trong quá trình nghiên cứ,uđánh giá, phân tích tình hình thực
tiễn. Mục đích nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam về
quản lý và bảo vệ rừng nên cần phải có cái nhìn toàn diện, lịch sử và phát triển.
- Phương pháp phân tích - so sánh: Luận văn nghiên cứu, phân tích,
các quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý và bảo vệ rừng qua từng thời
kỳ lịch sử. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật học
truyền thống như phương phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,

6


phương pháp lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm
làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng
tỏ về mặt lý luận cấu thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của luận văn dùng làm tài liệu nghiên cứu,
tham khảo cho các nhà nghiên cứu khoa học luật hình sự, các nhà lập pháp, cho
các học viên, sinh viên. Bên cạnh đó, luận văn góp phần hoàn thiện pháp luật hình
sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở nước ta hiện nay.
6. Điểm mới khoa học của luận văn
- Phân tích một cách sâu sắc khái niệm và những dấu hiệu pháp lý tội
Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
- Khái quát tình hình tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng và thực tiễn xét xử tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong 5 năm
từ 2012-2016.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tội Vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một cách có hiệu quả.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng.
Chương 2: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong
luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng
các quy định của pháp luật hình sự đối với tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng.

7


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự
1.1.1. Khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Theo Từ điể n luâ ̣t ho ̣c (2006), vi pha ̣m pháp lu ật là “hành vi trái pháp
luật, có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí xâm hại tới quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ” [56, tr. 852].
Các dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật:
- Là hành vi của con người gồ m hành vi hành đô ̣ng và hành vi không
hành động;
- Là hành vi trái quy định của pháp luật . Tính pháp luật của hành vi thể
hiê ̣n ở chỗ làm không đúng điề u pháp luâ ̣t cho phé,pkhông làm hoă ̣c làm không
đầ y đủ điề u pháp luât ̣ bắ t buô ̣c phải làm hoă ̣clàm điều mà pháp luật cấm;
- Là hành vi có chứa đựng lỗi của c hủ thể - trạng thái tâm l ý thể hiện

thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi của mình ở thời điểm chủ thể thực
hiê ̣n hành vi trái pháp luâ ̣t;
- Là hành vi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện (nế u
chủ thể hành vi trái pháp luật là cá nhân thì người đó phải đến độ tuổi chịu
trách nhiệm pháp lí theo luật định, không mắ c cá c bê ̣nh tâm thầ n , có khả năng
nhâ ̣n thức đươ ̣c hâ ̣u quả nguy hiể m cho xã hô ̣i của hành vi của miǹ h và hâ ̣u
quả pháp lí của nó).
Tùy thuộc vào tính chất của vi phạm pháp luật , vào hậu quả có hại và
mức đô ̣ nguy hiể m cho xã hô ̣i của hành vi cũng như tiń h chấ t của chế tài có

8


thể đươ ̣c áp du ̣ng đố i với hành vi mà các vi pha ̣m pháp luâ ̣t đươ ̣c chia thành
hai loa ̣i , là tội phạm và vi phạm , trong đó vi pha ̣m có thể là vi pha ̣m hành
chính, vi pha ̣m dân sự, vi pha ̣m kỷ luâ ̣t nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm tội phạm
Theo Từ điể n luâ ̣t ho ̣c (2006), tô ̣i pha ̣m là “hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội, có lỗi, được quy đi ̣nh trong Bộ luật hình sự 1999 và phải chịu hình
phạt” [56, tr. 787]. Như vâ ̣y , tội phạm, trước hết phải là hành vi của con
người. Đây là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự - Nguyên tắc hành vi. Theo
đó, luật hình sự Việt Nam không truy cứu trách nhiệm hình sự con người về
tư tưởng của họ mà chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi của con
người khi hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu được quy định trong luật.
Dấu hiệu “nguy hiểm cho xã hội” có nghĩa hành vi phải gây ra hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
người thực hiện hành vi gây thiệt hại đó phải có lỗi. Như vậy, tính nguy hiểm
cho xã hội bao hàm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi thuộc về
chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, tính có lỗi được tách ra thành một dấu hiệu
riêng của tội phạm nhằm nhấn mạnh nguyên tắc có lỗi trong luâ ̣t hình s ự.

Hành vi gây thiệt hại bị coi là có lỗi nếu chủ thể đã lựa chọn, quyết định thực
hiện hành vi đó khi có đủ điều kiện lựa chọn và quyết định xử sự khác không
có hại cho xã hội. Luật hình sự đòi hỏi tội phạm phải có dấu hiệu này là nhằm
đảm bảo mục đích giáo dục của trách nhiệm hình sự. Mục đích này chỉ có thể
có khả năng đạt được khi áp dụng trách nhiệm hình sự cho người có lỗi.
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào các yếu tố khác
nhau như tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất và
mức độ hậu quả, tính chất và mức độ lỗi, tính chất của động cơ, mục đích,
tính chất của thủ đoạn, phương tiện cũng như hoàn cảnh thực hiện hành vi,
các đặc điểm về nhân thân của chủ thể... Để đánh giá hành vi có tính nguy

9


hiểm đáng kể của tội phạm hay không và nguy hiểm đến mức độ nào cầ n xem
xét đánh giá tất cả các yếu tố này đặt trong mối liên hệ tổng hợp với nhau.
Dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” đòi hỏi hành vi bị coi là
tội phạm phải được quy định trong luật hình sự hay nói cách khác, chỉ hành vi
được quy định trong luật hình sự mới có thể là tội phạm. Điều này cũng có
nghĩa là cấm áp dụng nguyên tắc tương tự. Trong sự so sánh với hai dấu hiệu
trên, dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” là dấu hiệu mang tính hình
thức pháp lí, được quy định bởi d ấu hiệu nội dung là tính nguy hiểm cho xã
hội và tính có lỗi.
Khi đã thỏa mãn dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội, dấu hiệu có lỗi và dấu
hiệu được quy đinh
̣ trong luật hình sự thì hành vi bị coi là tội phạm và có dấu
hiệu thứ tư - bị đe dọa phải chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc
nhất là hình phạt.
Bên ca ̣nh đó , theo Lê Cảm (2003), tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu bao gồm ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: trên

bình diện khách quan, “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội”; trên bình
diện pháp lý, “tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự”; trên bình diện chủ
quan, “tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi” [8].
Về phân loa ̣i tô ̣i pha ̣m, theo nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và
để có cơ sở cá thể hóa hình phạt trong áp dụng, có thể phân loại tội phạm thành
bốn nhóm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sự phân loại thành bốn nhóm
tội phạm một mặt, biểu hiện cơ bản của việc phân hóa trách nhiệm hình sự, mặt
khác là cơ sở thống nhất cho sự phân hóa trách nhiệm hình sự qua các quy định
khác... Đây cách phân loại dựa trên mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm và nhằm mục đích tạo cơ sở thống nhất cho việc phân hoá trách

10


nhiệm hình sự. Ngoài cách phân loại này, còn có thể phân loại tội phạm theo
các tiêu chí khác. Ví dụ: căn cứ vào tính chất của lỗi có thể phân tội phạm
thành tội cố ý và tội vô ý; căn cứ vào tính chất của khách thể bị xâm hại có thể
phân tội phạm thành các nhóm tội khác nhau như các tội xâm phạm an ninh
quốc gia, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm nhân thân...; căn cứ vào
đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm có thể phân tội phạm thành các tội có
cấu thành tội phạm hình thức và các tội có cấu thành tội phạm vật chất;...
1.1.1.3. Khái niệm khai thác và bảo vệ rừng
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật
rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây
gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của
tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng
sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng. Dưới khiá ca ̣nh kinh tế , rừng
là một phần của tài nguyên thiên nhiên, thuộc loại tài nguyên tái tạo được có

tầ m quan tro ̣ng đố i với sự phát triể n của con người . Tuy là tài nguyên tái ta ̣o
nhưng nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên rừng có thể bị suy thoái không
thể tái tạo lại. Tài nguyên rừng bao gồm tài nguyên thực vật, động vật, côn
trùng, nấm, vi sinh vật... chứa đựng trong hê ̣ sinh thái rừng.
Về khái niê ̣m khai thác và bảo vệ rừng, hiê ̣n nay vẫn chưa có nghiên
cứu nào đề câ ̣p đế n vấ n đề này . Theo quan điể m của tác giả, “khai thác rừng”
là “hoạt động thu lấy những nguồn lợi từ tài nguyên rừng nhằ m phục vụ mục
đích sinh tồ n và phát triển kinh tế , xã hội của con người”. “Bảo vệ rừng ” là
“hoạt động áp dụng các quy đi ̣nh pháp luật nhằ m ngăn chặn các hành vi khai
thác trái phép tài nguyên rừng

đảm bảo sự tồ n tại và phát triển

của tài

nguyên rừng”.
1.1.1.4. Khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là khái niê ̣m

11


đươ ̣c sử du ̣ng lầ n đầ u tiên ở nước ta trong BLHS

1999 trên cơ sở khái niê ̣m

tội phạm được tách từ tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng tại
Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985. Do nhu cầu của việc đấu tranh phòng
chống tội phạm nên nhà làm luật cấu tạo lại thành hai tội danh khác nhau ,
phân loa ̣i t ội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là mô ̣t tô ̣i

danh riêng so với tô ̣i vi phạm các quy định về quản lý rừng.
Tổ ng kế t những quan điể m về khái niê ̣m “tô ̣i pha ̣m” và quy đinh
̣ của
BLHS 1999, mô ̣t số tác giả đã đề xuấ t các khái niê ̣m về tô ̣i vi pha ̣m các quy
đinh
̣ về khai thác và bảo vê ̣ rừng

. Chẳ ng ha ̣n , theo tác giả Vũ Thị Huyền

(2010), tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng “là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm những quy định của Nhà
nước về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng cũng như xâm phạm các quy định
của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý kinh tế nói chung” [33, tr. 25].
Theo tác giả Đinh Văn Quế (2006), Vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng là “hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác
vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng hoặc vận
chuyển, buôn bán gỗ trái phép” [40, tr. 160-164].
Theo tác giả Nguyễn Thi ̣Hải (2009), tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng “là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự của
người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS xâm hại đến các quy định của
Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, vận chuyển, buôn bán gỗ” [24, tr. 23].
Theo quan điể m của tác giả , tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng phải gắ n với tấ t cả các hoa ̣t đô ̣ng trái phép xâm pha ̣m đế n tài
nguyên rừng , bao gồ m cả hành vi vi pha ̣m của cá nhân và pháp nhân

. Theo

đó, tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là “hành vi xâm
phạm những quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng được quy


12


định trong BLHS, do cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách có lỗi, gây nguy hiểm cho xã hội”.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội Vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế, các quan hệ xã
hội bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân mà cụ thể
là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng. Hành
vi phạm tội đã xâm hại đến các quan hệ này thông qua việc vi phạm các quy
định của Nhà nước trong quản lý kinh tế và qua đó gây thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Sự gây thiệt hại cho khách thế, dù ở hình thức cụ thể nào, cũng luôn
luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội tác động vào đối tượng tác động, làm
biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động. Đối tượng tác động
mà hành vi phạm tội hướng đến trong tội Vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng đó chính là sự vật cụ thể bao gồm rừng và các sản phẩm của
rừng như gỗ và các lâm thổ sản khác. Thông qua sự tác động trái phép vào
các đối tượng này, hành vi phạm tội đã xâm hại đến các quy định của Nhà
nước trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng, gây thiệt hại cho Nhà nước.
Đối tượng tác động của tội phạm này là tài nguyên r ừng và các sản
phẩm của rừng như gỗ và các lâm thổ sản khác. Định nghĩa rõ ràng và nhất
quán về “những gì tạo thành một khu rừng” sẽ là căn cứ quan trọng để xác
định hành vi phạm tội có xâm hại đến khách thể nói trên hay không? Các
quốc gia và tổ chức trên thế giới thường có những định nghĩa về rừng rất khác
nhau do sự đa dạng và phong phú của các loại rừng trên thế giới, sự khác biệt
về văn hóa và sử dụng rừng, cũng như bối cảnh phát triển xã hội của mỗi

quốc gia. Định nghĩa về một khu rừng nói chung có thể phù hợp với một

13


trong ba tiêu chí sau: là một đơn vị hành chính hoặc pháp lý (những khu đất
được công bố là “rừng” một cách hợp pháp); độ che phủ của mặt đất và mục
đích sử dụng của đất (đất được sử dụng như thế nào?).
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 tại Điều 3 khoản 2 đã định
nghĩa như sau:
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng,
động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường
khác, trong đó cây gỗ, tre nứa, thực vật hoặc hệ thực vật đặc trưng
là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng
gồm: rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng
phòng hộ, đất rừng đặc dụng [45, Điề u 3].
Như vâ ̣y, đố i tươ ̣ng tác đô ̣ng cu ̣ thể của tô ̣i pha ̣m này đã đươ ̣c rấ t nhiề u các
nghiên cứu làm rõ và cũng đã quy đinh
̣ cu ̣ thể trong hê ̣ thố ng pháp luâ ̣t nươ.́ c ta
Bảo vệ rừng với tính chất là đối tượng tác động đồng nghĩa với việc
bảo vệ các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng và qua đó bảo
vệ trật tự quản lý kinh tế. Các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được Nhà
nước xác lập, muốn tồn tại và phát triển được đòi hỏi phải có sự bảo đảm tình
trạng rừng không bị tác động trái phép. Tuy nhiên, rừng với tư cách là đối
tượng tác động bị tội phạm làm biến đổi tình trạng nêu trên cũng có thể đồng
thời là đối tượng tác động của QHXH khác (hủy hoại môi trường…). Vì vậy,
cần phải căn cứ vào tính chất quan trọng của QHXH, mức độ gây thiệt hại,
mục đích chủ quan của kẻ phạm tội để xác định đầy đủ bản chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, từ đó xác định được khách thể của tội phạm.
Giữa khách thể và đối tượng tác động của tội phạm mà điều luật điều

chỉnh là hai khái niệm cần phân biệt, tránh nhầm lẫn và cho rằng đó là một.
Theo Các Mác - Angen, tuyển tập, tập 4 của Nxb . Khoa học xã hội: “Bản
chất phạm tội của hành vi không phải là việc xâm hại đến rừng cây với tính

14


cách như là một thứ vật chất mà là việc xâm hại đến hệ thần kinh của Nhà
nước, đến quyền sở hữu” [48, tr. 82]. Do vậy, trong quá trình áp dụng luật cần
nắm vững sự khác biệt này để đánh giá chính xác bản chất giai cấp của tội
phạm, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, xác định đúng khách thể mà điều
luật điều chỉnh.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Theo Nguyễn Thi ̣Hải (2009), một tội phạm được nhận biết bởi những
dấu hiệu nhất định của chúng được biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan. Thông qua những biểu hiện đó mà con người có thể trực tiếp nhận biết
được tội phạm[24, tr. 27]. Đó là:
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả;
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ,
phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm…).
Đối với tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, khi
nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm cũng tập trung ở hành vi vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Theo Đinh Văn Quế (2006), mă ̣t
khách quan của tội phạm bao gồm:
* Hành vi khách quan
Người phạm tội có thể thực hiện một trong các hành vi sau:
- Khai thác trái phép cây rừng;
- Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép;

- Vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng.
Về mặt lý luận, có thể khẳng định rằng, trong yếu tố mặt khách quan
của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội Vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng là biểu hiện cơ bản nhất và có ý nghĩa quan trọng.

15


Những biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Không thể nói đến hậu quả của tội phạm cũng như biểu hiện
khách quan khác như công cụ, phương tiện, địa điểm, thời gian phạm tội
v.v… khi không có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ thông qua hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà QHXH mới bị tác động bởi một chủ thể nào đó.
Hành vi khách quan là cầu nối giữa khách thể và chủ thể. Còn các nội
dung biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ được phản ánh trong một số
CTTP nhất định như CTTP tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Việc xác định dấu hiệu
hành vi thuộc mặt khách quan của CTTP cơ bản và một số nội dung khác
trong những trường hợp nhất định là bắt buộc, có ý nghĩa trong việc định tội.
Trong nhiều trường hợp, bên cạnh ý nghĩa định tội, mặt khách quan của tội
phạm còn có ý nghĩa trong việc xác định khung hình phạt (hậu quả, công cụ,
phương tiện…) hoặc trong việc xác định mức độ trách nhiệm khi lượng hình
(CTTP tăng nặng, giảm nhẹ…) đồng thời qua đó xác định lỗi và mức độ lỗi.
Xét về tính biểu hiện của hành vi, tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng là loại tội phạm vừa có thể được thực hiện bằng hành động
vừa có thể được thực hiện bằng không hành động. Làm một việc cũng như
không làm một việc đều có thể dẫn đến sự thay đổi tình trạng bình thường của
đối tượng tác động và qua đó gây thiệt hại cho QHXH được luật hình sự bảo
vệ. Đó là hai hình thức khác nhau của hành vi nguy hiểm cho xã hội, hình
thức hành động nguy hiểm cho xã hội và hình thức không hành động nguy
hiểm cho xã hội.

- Đối với dạng hành động: Đây là hình thức của hành vi nguy hiểm cho xã
hội làm biến đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác động qua việc chủ thể
thực hiện “xử sự tích cực” bị luật hình sự ngăn cấm như: khai thác rừng, phát đốt
rừng, chăn thả trái phép gia súc, săn bắt trái phép động vật rừng…
- Đối với dạng không hành động: Tội phạm cũng có thể được thực hiện

16


dưới dạng không hành động nguy hiểm cho xã hội là hình thức của hành vi
nguy hiểm cho xã hội, làm biến đổi tình trạng bình thường của rừng, thông
qua việc chủ thể không thực hiện “xử sự tích cực” cần thiết cho xã hội và xử
sự đó có tính bắt buộc đối với chủ thể như: vi pha ̣m các quy định về phòng trừ
sâu bệnh, vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng… Hành vi
không hành động nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở việc chủ thể đã không thực
hiện nghĩa vụ pháp lý của mình mặc dù có đủ điều kiện để thực hiện.
Như vâ ̣y, hành vi khách quan của tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng bao gồ m cả hành đ ộng nguy hiểm cho xã hội và không hành
động nguy hiểm cho xã hội. Đây đều là “biểu hiện” của con người ra bên
ngoài, được ý thức kiểm soát, ý chí điều khiển và đều có khả năng làm biến
đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại về lợi ích
kinh tế cho Nhà nước, tổ chức hoặc công dân được Luật Hình sự bảo vệ.
* Hậu quả
Theo tác giả Đinh Văn Quế (2006), đối với tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng:
Hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành
tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng phải là người
đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này chưa xoá án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách

nhiệm hình sự [40, tr. 160-164].
Như vâ ̣y, hậu quả gây ra bởi t ội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng được xác định bởi tính chất và mức độ biến đổi của đối tượng tác
động đế n tài nguyên r ừng và các sản phẩm phổ biế n nh ư gỗ và các lâm thổ
sản khác. Căn cứ vào tính chất và sự biến đổi của rừng, về đặc điểm (về chất
và lượng) của chính đối tượng tác động (rừng và các sản phẩm của rừng như

17


×