Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Chuyên đề định hướng và giải pháp phát triển thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 38 trang )

Chương 1: TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI……………………………………….4
1.1 Mục đích , đối tượng………………………………………………………………..4
1.2 Cơ sở lý luận………………………………………………………………………..5
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN..5
2.1 Chứng khoán và thị trường chứng khoán………………………………………..5
2.1.1 Khái Niệm………………………………………………………………………...5
2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của cácTTCK trên thế giới…………………….5
2.1.3 Chức năng trò của TTCK…………………………………………………………6
2.2 Sự hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam………………………………7
2.2.1 Các bộ phận cấu thành nên thị trường chứng khoán……………………………...7
2.2.2 Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán………………………………………..8
2.2.3 Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán…………….9
2. 3.Tính tất yếu của việc hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam……...9
2.3.1 Do yêu cầu phát triển của nền kinh tế…………………………………………….9
2.3.2 Do yêu cầu của nhà nước………………………………………………………..11
2.4. Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam và vai trò với nền kinh tế……………...11
2.4.1 Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam…………………………………………..11
2.4.2 Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế…………………………………………..12
2.5.Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay……………………14
2.5.1 Thị trường chứng khoán Việt Nam còn yếu và đang trong giai đoạn phát triển..14
2.5.2 Các tác động ảnh hưởng đến Thị trường chứng khoán………………………….17
2.5.3 Thị trường UPCOM, OTC thực trạng và hiệu quả mang lại……………………17
2.5.4 Vai trò của các quỹ đầu tư hiện nay và sự tác động đến TTCK VN…………….19
2.6. Những vấn đề tồn tại và hạn chế………………………………………………..22
2.6.1 Độ tín nhiệm, bất cân xứng thông tin, tính minh bạch còn thấp………………...22
2.6.2 Cơ sở hàng hóa chưa đa dạng……………………………………………………23
2.6.3 Chất lượng niêm yết phát hành, sử dung vốn chưa cao………………………...24
2.6.4 Thị trường còn yếu, niềm tin nhà đâu tư thấp, nhiều biến động……………….25
2.6.5 Số lượng các tổ chức kinh doanh CK không đi đôi với chất lượng…………. …27
2.6.6 TTCK vẫn đang trong giai đoạn tái cấu trúc và xây dựng………………….......29
2.6.6.1 Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế……………………………………………...29


2.6.6.2 Quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu còn chậm chạp……..30
2.6.6.3 Quá trình tái cấu trúc TTCK còn chậm và chưa hiệu quả……………………..31

1


2.6.7 Bán khống (shortsell ) vẫn tràn lan……………………………………………...32
2.6.8 Các hạn chế khác………………………………………………………………...33
2.6.8.1 Quy trình thanh toán còn chậm…………………………………………..……33
2.6.8.2 Cạnh tranh không lành mạnh giữa các MMs…………………….....................33
2.6.8.3 Chưa có biện pháp bảo vệ nhà đầu tư………………………………………....33
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM……………………………………………………...34
3.1 Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam………………………34
3.2 Giải pháp để khắc phục những hạn chế giải quyết vấn đề về hàng hoá trên thị
trường chứng khoán…………………………………………………………………...35
Kết luận……………………………………………………………………………….37
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………38
Bảng danh mục các từ viết tắt
TTCK

Thị trường chứng khoán

NĐT

Nhà đầu tư

MMs

Market Makers


CTCK

Công ty chứng khoán

SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán

TTLKCK

Trung tâm lưu kí chứng khoán

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

CK

Chứng khoán

UBCKNN

Ủy ban chứng khoán Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

Danh mục các bảng biểu


2


Hình 2.4

Danh mục đầu tư của 2 quỹ VEIL và VGF của D.Capital

Hình 2.6

Danh sách cổ phiếu giá rẻ trên 2 sàn

Hình 2.8

Top 10 thị phần về môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ quý3

Hình 2.9
Hình 2.10

Top thị phần mô giới tại sàn Hà Nội (HNX) quý 3/2012
Mạng nhện sở hữu chéo giữa các ngân hàng
Danh mục các hình vẽ

Hình 2.1

VNINDEX đến 16/11/2012

Hình 2.2

HNXINDEX đến 16/11/2012


Hình 2.3

Diễn biến UPCOM index trong 6 tháng đầu năm 2012

Hình 2.5

Giao dịch nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2012

Hình 2.7

VNINDEX trải qua 2 đợt bán tháo chưa từng có vào ngày
21/8/2012 và ngày 2/11/2012

LỜI NÓI ĐẦU
Đường lối kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế của nước ta là "Đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở

3


thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa..." (trích Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và trình đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng) đòi hỏi phải có nguồn lực lớn mà cụ thể là huy
động được nguồn vốn lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước. Phát triển thị trường
chứng khoán, tìm ra các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán đã đáp ứng
được nhu cầu cấp bách về nguồn vốn hiện nay.
Chương 1: Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán việt nam mới ra đời đầu năm 2000, vì vậy thuật ngữ

“thị trường chứng khoán” còn khá mới mẽ đối với công chúng Việt Nam đầu tư vào thị
trường chứng khoán đã trở nên rất quan trọng đối với mọi người.Để tham gia đầu tư
vào thị trường chứng khoán thì mọi người phải có những hiểu biết và kiến thức nhất
định về thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển được khi
có sự tham gia ngày càng đông, niềm tin về thị trường của những người có đầy đủ kiến
thức và hiểu biết về thị trường chứng khoán được nâng dần lên. Do đó kiến thức của
mọi người dân về thị trường chứng khoán việt nam cân được nâng cao. Thị trường
chứng khoán có sự hấp dẩn vốn có của nó. Nó không chỉ quan trọng đối với nến kinh tế
của một quốc gia, mà nó còn quan trọng hấp dẩn lôi cuốn mọi ngưởi bởi khả năng đầu
tư sinh lời của nó. Vì vậy tùy theo điều kiện và khả năng của mình phải thích ứng và
tiếp cận thật nhanh đễ tham gia đầu tư có hiệu quả vào thị trường chứng khoán. Chính
các hoạt đông này sẻ góp phần đưa thị trường chứng khoàn phát triển mạnh và góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
1.1 Mục đích, đối tượng:
Lựa chọn chủ đề “thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam”, đề tài này đặt
ra 3 nhiệm vụ:
Một, nghiên cứu một cách có hệ thống nền tảng của chứng khoán và thị trường
chứng khoán, phân tích từng bước sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
để từ đó làm luận giải một cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn sự hình
thành thị trường chứng khoán Việt Nam
Hai, đánh giá thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó đưa ra được
những vấn đề còn tồn đọng, yếu kém hay những tiềm năng của thị trường nhằm đưa ra
phướng hướng phát triển trong tương lai
Ba là đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những thiếu sót cũng như phát
triển những điểm mạnh để thị trường chứng khoán Việt Nam là kênh huy động vốn

4


hiệu quả cho doanh nghiệp cũng như kênh đầu tư tối ưu cho nhà đầu tư trong và ngoài

nước.
1.2 Cơ sở lý luận :
Để hoàn thành đề tài này, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống
(duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, diễn dịch, quy nạp), đề tài còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp mô hình
hoá, phương pháp kinh tế lượng....
Chương 2: Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán
2.1.Chứng khoán và thị trường chứng khoán
2.1.1 Khái niệm :
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt
động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung
thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để
phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại
chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. do vậy
thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi.
2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới:
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất
phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu.
Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán Thế giới trải qua một sự phát triển
thăng trầm lúc lên, lúc xuống, vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán Thế
giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc đó,
nhưng rồi đến “ngày thứ năm đen tối” tức ngày 29/10/1929 đã làm cho thị trường
chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật Bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho mãi tới chiến
tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng hồi phục dần và phát
triển mạnh và rồi cho đến năm 1987 một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng
khoán thế giới điên đảo với “ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi
không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê gớm, mất lòng
tin và phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm
1929.

Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao
dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực

5


Đông nam Á phát triển vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như
Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980 - đầu năm
1990.
Có thể nói, Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu
được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những
nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.
2.1.3 Chức năng của thị trường chứng khoán bao gồm:
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi
của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản
xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy
động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế,
phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng:
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ
hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính
chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù
hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán:
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu
thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là
một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố
cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có
hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.

Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp:
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một
cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh
nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới,
cải tiến sản phẩm.
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén
và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế

6


tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền
kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ
quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK,
Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt
ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính
sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển
cân đối của nền kinh tế.
2.2. Sự hình thành của thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1 Các bộ phận cấu thành nên thị trường chứng khoán
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên
thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc
nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp.Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã
phát hành.
Sở Giao dịch Chứng khoán là một pháp nhân được thành lập theo quy định của
pháp luật thực hiện việc tổ chức giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán của tổ

chức phát hành đủ điều kiện niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán.
Theo tính chất tổ chức thị trường, Sở Giao dịch Chứng khoán là thị trường chứng
khoán tập trung; trong đó việc giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm
tập trung là sàn giao dịch hay qua hệ thống mạng thông tin máy tính điện tử do các
thành viên của Sở Giao dịch Chứng khoán thực hiện. Các chứng khoán được giao dịch
tại Sở Giao dịch Chứng khoán thông thường là chứng khoán của các công ty có uy tín,
công ty lớn đáp ứng đủ điều kiện hay tiêu chuẩn niêm yết. Gồm các chức năng cơ bản:
• Cung cấp, đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc giao dịch chứng khoán (địa
điểm và hệ thống giao dịch). Đảm bảo việc giao dịch chứng khoán được diễn ra
thông suốt, đúng pháp luật và công khai kể cả giá cả.
• Tổ chức niêm yết và giám sát các chứng khoán niêm yết, các tổ chức niêm yết.
• Tổ chức và giám sát chặt chẽ quá trình giao dịch chứng khoán.
• Giám sát chặt chẽ những người tham dự vào quá trình giao dịch.
Trên thế giới có 3 hình thức sở hữu sở giao dịch chứng khoán phổ biến là sở hữu
nhà nước, thành viên và công ty cổ phần. Riêng ở Việt Nam, sở giao dịch chứng khoán

7


là một tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật (Luật chứng khoán và luật
doanh nghiệp Việt Nam).
2.2.2 Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới
hình thức phát hành các chứng khoán.
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà
đầu tư có thể được chia thành 2 loại:
-Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên
TTCK với mục đích kiếm lời.
-Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với
số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau:

công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, Quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương
mại và các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản
lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh.
Các tổ chức có liên quan đến TTCK:
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam.
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành
những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với
các quy định của luật pháp và UBCK.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch
chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng
lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã
cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
Hàng hóa giao dịch trên Thị trường chứng khoán bao gồm: các cổ phiếu, trái
phiếu và một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm
2.2.3 Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán
Nguyên tắc cạnh tranh:
Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng
khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các
nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư,

8


các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên
thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi
nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.

Nguyên tắc công bằng:
Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những
qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các
hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
Nguyên tắc công khai:
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ
sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ
phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức
có liên quan.
Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông
qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu
tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên
thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng
khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với
nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
Nguyên tắc tập trung:
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC
dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
2.3.Tính tất yếu của việc hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam
2.3.1Do yêu cầu phát triển của nền kinh tế :
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán có tác động tích cực tới sự
phát triển của các quốc gia. Thực tế cho thấy thị trường chứng khoán đã thúc đẩy
phát triển kinh tế ở nhiều nước một cách có hiệu quả thông qua việc góp phần tạo ra
vốn khả dụng. Thực vậy, đa số các dự án đầu tư cần phải sử dụng vốn dài hạn thì
mới đạt hiệu quả cao trong khi các nhà tiết kiệm lại không muốn mất quyền kiểm
soát món tiết kiệm của họ trong thời gian dài. Thị trường chứng khoán hoạt động
trôi chảy sẽ cho phép khắc phục được mâu thuẫn này khiến cho các hoạt động đầu tư
trên thị trường hấp dẫn, thuận tiện và có lãi suất cao hơn so với gửi tiết kiệm vì

người tiết kiệm có thể mua một loại chứng khoán nào đó rồi lại đem bán một cách

9


nhanh chóng ít phí tổn khi cần tiền mặt hoặc để đầu tư vào một loại chứng khoán
khác mà họ thích. Việc trao đổi này diễn ra trên thị trường thứ cấp trong khi đó các
doanh nghiệp vẫn được sử dụng nguồn vốn dài hạn thường xuyên và ổn định. Như
vậy, thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản đầu tư dài hạn phát triển,
làm cho các khoản đầu tư sinh lợi nhiều hơn mà thị trường chứng khoán khuyến
khích được nhiều vốn hơn vào nền kinh tế góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Thị trường chứng khoán cũng hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong nhiều
lĩnh vực. Về cơ b ả n , t h ị trường chứng khoán bổ sung cho hệ thống ngân hàng
trong việc cung cấp vốn vay trung và dài hạn. Hệ thống ngân hàng với chức năng chủ
yếu là "tạm ứng" vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng, đầu tư .
Trong bối cảnh đó, thị trường chứng khoán là nơi bổ sung nguồn vốn trung
và dài hạn quan trọng cho các khoản đầu tư phát triển. Trên thị trường sơ cấp vốn
được chuyển trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn thông qua việc phát
hành lần đầu các loại chứng khoán. Trên thị trường thứ cấp sau đó, chứng khoán
đã phát hành có tác dụng như “gây tiếp sức” để người đầu tư mới tiếp sức cho
người đầu tư cũng thông qua việc mua bán lại chứng khoán.
Như vậy thị trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong việc
cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn góp phần làm giảm áp lực lạm phát, sự
phân tích ở trên đã chỉ ra rằng thị trường chứng khoán có vai trò tích cực và không
thể thiếu trong nền kinh tế. Thực tế cho thấy ở tất cả các nước có thị trường chứng
khoán, khi nền kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị
trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế thị trường đã phát triển ở mức độ
nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức
mạnh cho thị trường - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền
kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hoá phát triển làm nảy sinh thị trường chứng

khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực để thúc đẩy
nền kinh tế hàng hoá phát triển. "Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, chủ yếu mới có
hình thức giao lưu vốn giáp tiếp nên chưa huy động và thu hút có hiệu quả tối ưu
nguồn vốn còn khá tiềm tàng của đất nước. Do đó, cùng với sự phát triển, hoàn
thiện thị trường liên ngân hàng, nâng cao trình độ giao lưu vốn gián tiếp, cần phải
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hình thức giao lưu vốn trực tiếp" .
Giao lưu vốn trực tiếp là hình thức giao lưu vốn chủ yếu thông qua phương
thức thu hút vốn bằng phát hành các phương tiện tín dụng, như trái phiếu, cổ phiếu.

10


Phương thức giao lưu vốn trực tiếp có nhiều ưu điểm nổi bật hơn phương thức giao
lưu vốn gián tiếp. Do vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với việc hoàn
thiện tổ chức giao lưu vốn gián tiếp phải đồng thời phát triển mạnh giao lưu vốn
trực tiếp nhằm làm phong phú thị trường tiền vốn và đổi mới cơ chế giao lưu vốn
theo hướng hiện đại. Chỉ khi nào cả hai hình thức giao lưu vốn trên cùng tồn tại,
phát triển và bổ sung cho nhau thì thị trường tiền tệ - tín dụng mới từng bước được
cải tiến, thị trường chứng khoán mới xuất hiện và hoạt động có hiệu quả trong một
thị trường tiền tệ - tín dụng hoàn chỉnh, nhờ đó mà thu hút được mọi nguồn vốn
tiềm tàng trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
2.3.2 Do yêu cầu của nhà nước :
Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu
chủ yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà
nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách
phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành
này được thuận lợi hơn.
Như ở phần trên em đã trình bày, thị trường chứng khoán cũng có tác động
tích cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước ta đã có
chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp

quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường
chứng khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước diễn ra nhanh hơn.
Nhu cầu về một thị trường chứng khoán tại Việt Nam ngày càng trở nên bức
thiết do những lý do mà em đã nêu trên nên chắc chắn trong tương lai gần Việt
Nam sẽ có một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu
cầu của nền kinh tế.
2.4. Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam và vai trò với nền kinh tế :
2.4.1 Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam :
Thị trường chứng khoán tuy hoạt động 12 năm nhưng vẫn là ngành kinh doanh
mới, chứa đựng nhiều khó khăn, rủi ro. 12 năm nhìn lại, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã thực sự có sự trưởng thành sau khi nỗ lực vượt qua nhiều gian khó, qua đó đạt
được những thành tựu đáng khích lệ. Sự trưởng thành của thị trường được thể hiện sinh
động qua nhiều con số. So với cách đây 12 năm, quy mô thị trường hiện tăng trên 50
lần, vốn hoá năm đầu tiên dưới 1% GDP, nhưng cuối năm 2011 đạt gần 27%. Khối
lượng giao dịch cũng tăng 30- 40 lần so với năm đầu tiên giao dịch. Công ty niêm yết

11


trong năm đầu tiên thị trường hoạt động chỉ hơn 10 doanh nghiệp, nay tăng lên gần 800
doanh nghiệp.
Huy động vốn thực sự là điểm đáng chú ý hơn cả, với gần 700.000 tỷ đồng huy
động cho nền kinh tế qua 12 năm, đỉnh cao là năm 2007 đạt 127.000 tỷ đồng. Luồng
vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có thời điểm cao nhất lên đến 12 tỷ USD, nay khoảng
6,7 tỷ USD, góp phần cân bằng cán cân thanh toán, cũng như gia tăng sức hấp dẫn của
môi trường đầu tư Việt Nam trong con mắt nhà đầu tư quốc tế.
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán đã có những bước phát triển về quy mô,
mạng lưới công nghệ và trở thành một tổ chức trung gian phục vụ cho hoạt động tư
vấn, cổ phần hóa kết nối cung cầu trên thị trường chứng khoán.

Về số lượng tài khoản nhà đầu tư cũng ngày một gia tăng, khi mới có thị trường
chứng khoán chỉ có khoảng 3.000 tài khoản, nhưng đến hiện nay đã có 1,2 triệu tài
khoản. Lượng vốn huy động qua thị trường, đặc biệt là từ khối nhà đầu tư nước ngoài
đến nay danh mục của khối này khoảng 8 tỷ USD.
Các tổ chức thị trường như Sở, Trung tâm Lưu ký cũng ngày càng phát triển,
công nghệ thông tin đã được cải thiện, nhiều dịch vụ, nghiệp vụ, sản phẩm mới cũng đã
được triển khai đảm bảo cho hoạt động thị trường được thông suốt, không xảy ra đổ
vỡ. Khung pháp lý cho thị trường cũng ngày càng được hoàn thiện và từng bước tiếp
cận với tiêu chuẩn quốc tế.
Kết quả này có được là bởi ngay từ đầu thị trường chứng khoán đã có cơ quan
quản lý, có hệ thống luật pháp điều chỉnh tương đối đồng bộ và đặc biệt là sự quan tâm
chỉ đạo của Chính phủ. Trong đó, có sự đóng góp quan trọng của nhà đầu tư, họ đã bền
bỉ tham gia thị trường ngay vào những thời điểm khó khăn nhất.
2.4.2 Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế :
Thị trường chứng khoán đang đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền
kinh tế các nước trên thế giới nói chung và việt nam nói riêng. Khi nền kinh tế hàng
hóa thị trường phát triển đến một mức độ nhất định sẻ cần đến thị trường chứng khoán
để hổ trợ cho quá trình phát triển.
TTCK là một thành phần quan trong của thị trường tài chính, là nơi mà mọi
thành phần kinh tế - xả hội có thể tham gia đầu tư một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
vào hoạt động kinh doanh cảu doanh nghiệp, là nơi mà chính phủ có thể huy động vốn
cho nhu cầu đấu tư phát triển kinh tế. TTCK có thể xem là kênh dẩn vốn quan trọng
chuyển vốn từ khu vực tiết kiệm sang khu vực đầu tư, tăng cường minh bạch trong sản

12


xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng quản lý trong nền
kinh tế.
Góp phần phát triển Thị Trường Tài Chính (TTTC)

Sự phát triển của TTCK đã đóng góp vào sự phát triển chung của TTTC Việt
Nam, là hệ thống các loại hình định chế như NHTM (NHTM Nhà nước, NHTMCP,
ngân hàng liên doanh…), công ty tài chính, công ty đầu tư tài chính, công ty chứng
khoán.. Cho đến thời điểm giữa năm 2011, có thể nói, TTTC Việt Nam đã phát triển
khá sâu rộng và có sự hội nhập quốc tế. Số lượng các định chế tài chính đã tăng lên tới
con số hàng ngàn và tổng tài sản có gấp nhiều lần GDP Việt Nam.
TTCK là công cụ chỉ báo hữu hiệu cho nền kinh tế Việt Nam
Khi nền kinh tế phát triển tốt, công chúng đầu tư tin tưởng vào các doanh
nghiệp khu vực sản xuất, tin vào môi trường kinh doanh tốt... thì các dòng vốn sẽ chảy
vào nền kinh tế đó, do đó, giá chứng khoán sẽ cao, chỉ số chứng khoán sẽ tăng mạnh;
và ngược lại, TTCK sẽ giảm sút. Các diễn biến đó đã làm cho TTCK được coi là hàn
thử biểu của nền kinh tế và là chỉ báo quan trọng cho các nhà đầu tư và cho các nhà
điều hành chính sách có các điều chỉnh phù hợp. Đối với TTCK Việt Nam hiện nay, rõ
ràng, khi giá chứng khoán giảm liên tục, đang phản ánh tình hình kinh tế có biểu hiện
mất cân đối: ít nhất là lạm phát gia tăng, thâm hụt thương mại nhiều... hoạt động ngân
sách và khu vực DNNN yếu kém thất thoát nhiều.
TTCK tăng cường quản trị quản lý nền kinh tế vĩ mô và vi mô
TTCK Việt Nam góp phần tăng cường tính minh bạch quản trị điều hành kinh tế
(vĩ mô) và kinh doanh (vi mô). Đánh giá về đóng góp này, như đã nêu, các chỉ số
chứng khoán phản ánh rất nhanh tình hìnhkinh tế vĩ mô - phản ánh chất lượng, năng
lực điều hành kinh tế vĩ mô và cũng phản ánh chất lượng quản lý điều hành, kết quả
kinh doanh của các doanh nghiệp. Quá trình phát hành chứng khoán của Chính phủ
(trái phiếu) và của doanh nghiệp (cổ phiếu và trái phiếu công ty) và trong quá trình
niêm yết cũng phải thực hiện chế độ công bố thông tin hoạt động, tăng cường quản lý.
Tạo kênh huy động vốn đa dạng cho nền kinh tế, cho các doanh nghiệp
Số liệu về huy động vốn qua TTCK cho thấy, thị trường này đã cùng với hệ thống
NHTM tạo các kênh vốn đa dạng dài hạn và ngắn hạn cho nền kinh tế, mà nơi được
hưởng lợi trực tiếp là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng về vốn trung và dài
hạn. Số liệu về phát hành lần đầu (huy động vốn qua TTCK) ở Việt Nam vừa qua cho
thấy TTCK đã có tác động khơi thông vốn rất lớn cho TTTC Việt Nam và cũng như

khơi thông dòng vốn từ nước ngoài chảy vào Việt Nam. Nhìn lại những năm vừa qua,

13


thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển mạnh mẻ và đạt được những thành
công nhất định. Khởi với 2 doanh nghiệp niêm yết, hiện tại số lượng doanh nghiệp
niêm yết trên hai sàn là gần 700. Mức vốn hóa thị trường bắt đầu từ con số khá nhỏ
chưa đến 0,5% GDP, và đến năm 2010 đã xấp xĩ 40% GDP, và với GDP năm 2010 là
104,6 tỷ usd thì giá trị vốn hóa của TTCK 2010 xấp xĩ 41,84 tỷ usd, một con số khá ấn
tượng. khối lượng giao dịch tăng từ 55 tỉ đồng/phiên tăng lên gần 3000 tỉ đồng/phiên.
Và theo nhiều chuyên gia nhận định với tốc độ phát triển như vậy, giá trị hiện tại của
TTCK xấp xĩ 70% GDP, qua đó có thể thấy được tầm quan trọng của TTCK đối với
nền kinh tế.
2.5 Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay
2.5.1 Thị trường chứng khoán Việt Nam còn yếu và đang trong giai đoạn phát
triển
Trong 5 tháng đầu năm 2012, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự hồi
phục với khoảng 20%. Tuy nhiên, sau nhiều đợt điều chỉnh và cú sốc bán tháo “Bầu
Kiên” ngày 21/8/2012, thị trường đã đánh mất thành quả tăng điểm từ đầu năm và
đang trong giai đoạn lình xình, chưa rõ xu hướng trên cả 2 sàn, thanh khoản sụt giảm
mạnh .
Việc thị trường sụt giảm mạnh lần nữa vào ngày 2/11 sau thông tin xấu về Gia
đình Cựu chủ tịch STB Đặng Văn Thành đã một lần nữa đánh gục tâm lý nhà đầu tư.
Việc vi phạm về kinh tế ngày càng tăng, đặc biệt ở khối Ngân hàng vẩn chưa rõ ràng,
còn nhiều uẩn khúc khiến cho tâm lý thị trường hiện tại rất bi quan .
Thanh khoản đang dần cạn kiệt trên cả 2 sàn. Dòng tiền lớn đang rút dần ra khỏi
thị trường, nhất là trong những tháng cuối năm, càng khiến cho niềm tin thị trường bật
tăng trở lại trong ngắn hạn là khó xảy ra. Các chỉ báo kĩ thuật đều đi ngang hoặc giảm
nhẹ, cả 2 chỉ số vẫn giao dịch dưới mức kháng cự và chưa có dấu hiệu rõ ràng của

động lực tăng trưởng. Vì vậy, xác xuất thị trường sẽ tích lũy và biến động trong biên
độ hẹp xảy ra là rất cao, nhất là trên HOSE. Việc chờ đợi mọi chuyện trong hệ thống
tài chính sáng tỏ và đứng ngoài là việc nên làm. Quan điểm của nhóm là nên chờ đợi
và đứng ngoài thị trường khi rủi ro vẩn còn rất lớn trong giai đoạn hiện nay, thị
trường không phù hợp với nhà đầu tư lướt sóng tại thời điểm hiện tại.

14


(Hình:2.1 VNINDEX đến 16/11/2012)

(Hình 2.2 HNXINDEX đến 16/11/2012)
Theo nhóm, có thể xuất phát từ 5 nguyên nhân chính:

15


Thứ nhất: Các vụ vi phạm kinh tế xảy ra ngày càng nhiều, nhất là trong hệ thống
ngân hàng, đang gây ra bất ổn thực sự trong hệ thống tài chính vốn dĩ rất yếu của
chúng ta. Khi nào chưa giải quyết triệt để, minh bạch hơn các vấn đề trên thì TTCK
chưa thể có động lực tăng trở lại.
Thứ hai: Mặc dù kinh tế vĩ mô đã có nhiều cải thiện hơn, ngay báo cáo Chính
phủ cũng đã đề cập là kinh tế Việt Nam đã đi qua giai đoạn khó khăn nhất, lạm phát
giảm, thanh khoản ngân hàng có sự cải thiện, lãi suất có xu hướng giảm, dự trữ ngoại
tệ tăng lên. Nhưng đó chỉ là những mặt tích cực ,nền kinh tế nhìn chung vẫn còn rất
nhiều mảng tối, kinh tế vĩ mô vẫn còn rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, diễn biến thị
trường chứng khoán còn phụ thuộc rất lớn vào thực trạng hoạt động của doanh nghiệp
và dòng tiền. Thực trạng doanh nghiệp lại cho thấy doanh nghiệp hiện vẫn đang gặp rất
nhiều khó khăn đặc biệt là vấn đề hàng tồn kho, nợ xấu, đầu ra cho doanh nghiệp; chi
phí lãi vay tăng; số lượng doanh nghiệp niêm yết thua lỗ tăng hơn trước (cuối năm

2011 có 72 công ty thua lỗ, quý I-2012 là 113 công ty và quý 2 dự báo số lượng này sẽ
tăng lên), hơn 60 công ty chứng khoán thua lỗ. Con số trên cho thấy nền tảng doanh
nghiệp đang gặp nhiều khó khăn hơn là thời điểm trước.
Thứ ba: Tình hình quốc tế cũng đã tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đầu năm 2012 thì vấn
đề nợ châu Âu rất căng thẳng và đến tháng 6 này tiếp tục căng thẳng; dự báo tăng
trưởng toàn cầu cũng giảm; các chỉ số niềm tin, sản xuất tại Mỹ, châu Âu, Nhật Bản
đều sụt giảm...Diễn biến đó khiến cho dòng tiền cũng có sự điều chỉnh. Dòng tiền đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng qua thấp hơn nhiều nếu so với con số của năm
2011 (năm 2011 có 240 triệu USD, 2010 là 1 tỷ USD, trong khi 6 tháng khoảng 50-60
triệu USD).
Trong tháng 5 thì dòng tiền lại có xu hướng rút ra. Rõ ràng, khi kinh tế châu Âu
và toàn cầu có khó khăn thì tái cơ cấu lại danh mục đầu tư xảy ra và dòng tiền có sự
điều chỉnh, ảnh hưởng đến tâm lý thị trường. Gần đây thị trường không tăng mạnh như
những tháng đầu năm mà có xu hướng giảm, đi ngang. Điều này cũng là phù hợp với
thực tế đang diễn ra.
Thứ tư: Lãi suất tuy giảm nhưng tiếp cận vốn ngân hàng khó khăn, tín dụng ra 6
tháng đầu năm ở mức thấp nên dòng tiền cho thị trường cũng còn những điểm hạn chế.
Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp cho vấn đề này nhưng các giải pháp cũng cần phải
có thời gian. Các biện pháp hỗ trợ thị trường cũng đã được đưa ra như xây dựng chỉ số,
kéo dài thời gian giao dịch, đưa lệnh thị trường vào, tính toán điều chỉnh biên độ để cải

16


thiện thanh khoản. Tuy nhiên, những biện pháp đó chỉ mang tính nghiệp vụ, kỹ thuật
thôi còn cái chính vẫn là nền tảng kinh tế vĩ mô.
Thứ năm: Cái quý giá nhất là niềm tin vào thị trường đã bị sụt giảm một cách
trầm trọng ,TTCK không là sân chơi bình đẳng mà trở nên thiếu công bằng đối với các
nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nhỏ lẻ.
2.5.2 Các tác động ảnh hưởng đến TTCK

Các yếu tố ảnh hưởng ngắn hạn:
Trong ngắn hạn, TTCK lên xuống do những sự kiện hàng ngày, các thông tin
cập nhật về doanh nghiệp, kể cả do những tin đồn gây nên. Trạng thái tâm lý trên thị
trường cũng góp phần khiến giá chứng khoán lên xuống. Đôi khi nhà đầu tư phản ánh
một cách hốt hoảng, thái quá, ngược với mọi logic thường nhật hay các luận cứ kinh tế.
Điều này có thể dẫn đến thị trường tăng giảm vô căn cứ. Một ví dụ rõ nhất là sự ảnh
hưởng mạnh vào ngày 21/8/2012 khi tin Bầu Kiên, một trong những nhân vật trong
ngành tài chính bị bắt, kéo theo đó TTCK bị một đợt bán tháo mạnh của các nhà đầu tư
, bất kể cổ phiếu tốt hay xấu đều giảm sàn hết biên độ.
Các yếu tố ảnh hưởng trung hạn:
Yếu tố lãi suất đóng vai trò quan trọng. Việc tăng hay giảm lãi suất của hệ thống
tổ chức tín dụng đôi khi còn phát huy tác dụng lên TTCK, vượt trước tác động vào nền
kinh tế một thời gian.
Tiền và tâm lý cũng là những yếu tố có tính quyết định đến xu hướng thị trường
trong trung hạn .Nếu chỉ có một trong hai yếu tố tích cực, còn yếu tố kia không có thì
thị trường vẫn chưa thể đi lên. Một khi tiền cộng với tâm lý phấn khích, TTCK sẽ theo
xu hướng đi lên, phát triển nhanh một cách bùng nổ.
Các yếu tố ảnh hưởng dài hạn :
Quá trình phát triển nền kinh tế, tình hình chính trị, các chính sách vĩ mô, chính
sách tín dụng, tiền tệ, tài khóa luôn rất quan trọng và tác động mạnh tới thị trường
chứng khoán. Quá trình kinh doanh của các ngành cũng như từng doanh nghiệp, triển
vọng sinh lời của chúng là những yếu tố ảnh hưởng tới TTCK trong một khoảng thời
gian dài.Ngoài ra, vấn đề đối nội, đối ngoại, chủ trương phát triển kinh tế của nhà
nước, sự phát triển thị trường bất động sản, thị trường vàng, thị trường tiền tệ,… cũng
có ảnh hưởng trực tiếp đến TTCK.
2.5.3 Thị trường UPCoM, OTC thực trạng và hiệu quả mang lại
Thị Trường UPCoM :

17



Hình 2.3 : Nguồn (Vietstock.vn)
Ngày 24/6/2009, cùng với việc Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội (HNX)
chính thức đi vào hoạt động, thị trường UPCom cũng bắt đầu mở cửa. Trong bối cảnh
giao dịch tự do bùng phát mạnh và tiềm ẩn rủi ro hệ thống, UPCom đã được xây dựng
với mục tiêu tăng cường thị trường có tổ chức và quản lý nhà nước. Bản chất sàn
UPCom là trạm trung chuyển của các cổ phiếu trước khi niêm yết tại sàn HNX và
HOSE .
UPCoM áp dụng hai hình thức giao dịch là thỏa thuận thông thường và thỏa
thuận điện tử với mục tiêu biến các công ty chứng khoán trở thành các nhà tạo lập thị
trường. Đến tháng 7/2010, HNX đã thay đổi phương thức giao dịch trên thị trường
UPCoM và chuyển sang áp dụng 2 phương thức giao dịch là khớp lệnh liên tục và thỏa
thuận, tương tự như đối với thị trường cổ phiếu niêm yết. Sau 3 năm ra đời, thị trường
UPCoM có hơn 130 doanh nghiệp đăng ký giao dịch.
Các thông tin liên quan đến báo cáo tài chính quý, năm của doanh nghiệp đều
không có nên nhà đầu tư phải tự tìm kiếm và đó chính là điều nhà đầu tư cần phải cân
nhắc thật kĩ trước quyết định đầu tư dài hạn. Đây là thị trường tập dượt cho doanh
nghiệp về quản trị công ty, công bố thông tin, từng bước hạn chế phát triển, ngăn chặn
được nguy cơ lừa đảo, vỡ nợ trên thị trường tự do.

18


Thị Trường OTC :
Thị trường OTC hay còn gọi là thị trường phi tập trung, là thị trường được tổ
chức không dựa vào một mặt bằng cố định như thị trường sàn giao dịch (thị trường
giao dịch tập trung), mà dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá tập trung
và thương lượng thông qua sự giúp đỡ của phương tiện thông tin. Thị trường OTC
không có một không gian giao dịch tập trung. Thị trường này thường được các công ty
chứng khoán cùng nhau duy trì, việc giao dịch và thông tin được dựa vào hệ thống điện

thoại và internet với sự giúp đỡ của các thiết bị đầu cuối.
Hàng hóa của thị trường là các loại cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần, có
triển vọng phát triển, chuẩn bị niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung hoặc có
những lợi thế thương mại riêng biệt. Tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên
thị trường OTC thường thấp hơn trên thị trường tập trung chứa đựng nhiều rủi ro hơn,
song cũng có thể đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Thị trường OTC mang lại nhiều rủi ro
cho nhà đầu tư như: tranh chấp, thiệt hại về quyền mua cổ phiếu mới, thiệt hại tranh
chấp về cổ tức, rủi ro mua bán cổ phiếu chưa được chuyển nhượng, rủi ro trong giao
dịch chuyển nhượng quyền mua.
Thực trạng và hiệu quả mang lại :
Thị trường UPCoM, sân chơi an toàn đúng nghĩa! UPCoM giúp ngăn chặn
nguy cơ lừa đảo, vỡ nợ trên thị trường tự do, tập cho doanh nghiệp cách thức quản trị
công ty, công bố thông tin trước khi niêm yết.
Thị trường UPCOM cần tiếp tục phát triển hơn nữa để thu hẹp thị trường tự do.
Sự hiện diện của thị trường UPCOM đã góp phần không nhỏ trong những thay đổi tích
cực của thị trường chứng khoán Việt Nam. Những chợ OTC tự phát gần như biến mất,
quy mô, mức độ hoạt đông và tính chất phức tạp của thị trường tự do đã được kiểm
soát. Tuy nhiên xu hướng niêm yết vẫn là lựa chọn chính và UPCOM chỉ là thứ yếu đổi
với đại bộ phận doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tín hiệu chưa thực sự mạnh mẽ, quyết liệt
từ các cơ quan quản lý và việc các công ty đại chúng vẫn hy vọng có phương án xây
dựng thị trường thứ tư cho chuyển nhượng cổ phiếu cũng là một trở ngại cho UPCOM
trong hành trình “xóa sổ chợ OTC”
2.5.4 Vai trò của các quỹ đầu tư hiện nay và sự tác động đến TTCK VN
Hiện tại Việt Nam đang có 32 quỹ đầu tư tên tuổi đang đăng kí kinh doanh và
hoạt động, ngoài ra còn nhiều quỹ khác đang phân tích và tìm kiếm cơ hội. Mặc dù đã
có mặt ở Việt Nam từ khá lâu nhưng chỉ đến khi TTCK sôi động, các quỹ đầu tư, nhất
là các quỹ đầu tư nước ngoài mới ồ ạt đổ bộ vào Việt Nam. Lớn nhất hiện nay phải kể

19



đến 3 quỹ đầu tư trên TTCK: Dragon Capital, Vina Capital và Indochina Capital đang
nắm giữ gần 4 tỷ USD….

(Hình 2.4: Danh mục đầu tư của 2 quỹ VEIL và VGF của Dragon Capital)
Ngoài ra còn các quỹ đầu tư khác với số tương đối lớn là: VEIL (190 triệu USD)
và VGF (90 triệu USD) JF Vietnam Opportunities (100 triệu USD), Mekong Capital
cũng đẩy mạnh đầu tư với số vốn 18.5 triệu USD của Mekong Enterprise Fund vào các
doanh nghiệp cổ phần. Việc 2 quỹ lớn của Dragon Capital là VEIL và VGF được gia
hạn hoạt động 2 đến 5 năm là một tín hiệu tích cực cho TTCK của chúng ta.
Vai Trò to lớn của FII:
FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng
cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý
nhà nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối
quan hệ kinh tế .Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần
hóa nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập WTO.
Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các kênh huy
động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK) ). Lợi ích của hội nhập không
những được đánh giá thông qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng hàng hóa,
dòng người mà còn có cả dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu tư FII sẽ có tác động
mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt
động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách

20


chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động “phi thị trường” và góp phần giải quyết
một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…).
Tại Việt Nam, cửa đã mở cho quỹ hoán đổi danh mục (ETF), thay vì quỹ đóng

như trước đây. Với dự thảo “Thông tư hướng dẫn thành lập quỹ ETF, khung pháp ly
cho loại hình quỹ đầu tư mới, vốn đã và đang rất phát triển tại các thị trường chứng
khoán quốc tế trong hơn 10 năm qua, đang được cơ quan quản lý và các thành viên thị
trường xúc tiến rất tích cực. Khác với quỹ đóng, quỹ ETF mới chỉ cần hoán đổi chứng
khoán cơ cấu lấy chứng chỉ quỹ hoặc ngược lai, dẫn tới toàn bộ vốn huy động đều
được đầu tư vào chứng khoán, khác với quỹ đóng luôn cần phải duy trì một lượng tiền
mặt nhất định .
ETF rất hữu ích, công dụng đầu tư của ETF rất đa dạng giúp cho việc xử lý vấn
đề nợ xấu của ngân hàng và các sở hữu chéo giữa các tập đoàn khá hiệu quả và đã từng
thành công ở Nhật Bản hơn 10 năm qua. Vì vậy có thể tin ETF sẽ mang lại giá trị gia
tăng cũng như sự phát triển tổng thể của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương
lai.
Sự tác động đến Thị trường chứng khoán Việt Nam , ETF- Chỉ báo thị trường
Thực tế, đánh giá một cách chính xác ảnh hưởng của các quỹ đầu tư nước ngoài
đối với TTCK hiện tại là điều chưa thể thực hiện bởi chưa có số liệu chính xác về số
lượng và giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu. Với cổ phiếu trên sàn, một cái nhìn bao quát
cho thấy tỷ lệ cổ phiếu do các quỹ đầu tư nắm giữ là không nhỏ, phần nhiều đều được
sở hữu từ 20 - 49%.

(Hình 2.5-Nguồn: Vietstock.vn)

21


Mỗi đợt cơ cấu danh mục của quỹ ETF vào mỗi quý sẽ gia tăng thanh khoản rất
tốt cho thị trường, nhưng sau khi các quỹ ETF ổn định danh mục thì sẽ là giai đoạn khó
khăn với nhiều nhà đầu tư bởi mất phương hướng. ETF thường đẩy giá cổ phiếu nhằm
làm đẹp báo cáo, thời điểm đó thường được các nhà đầu tư cá nhân cũng như tổ chức
thoát hàng, thoái vốn. Tuy nhiên phần lớn các quỹ đều tuyên bố họ đầu tư lâu dài và
cam kết nắm giữ cổ phiếu trong một thời gian nhất định với các doanh nghiệp mà họ sở

hữu trên 10% cổ phần.
Như vậy, ảnh hưởng của các quỹ đến cổ phiếu niêm yết là tương đối lớn. Nhiều
phiên, sự mua vào bán ra của các quỹ đã quyết định chiều hướng lên, xuống của thị
trường. Hiện tượng “xanh vỏ đỏ lòng“ cũng thường xuyên xảy ra trên thị trường khi thị
trường chuyển biến xấu nhằm giữ nhịp thị trường và giữ giá của một số cổ phiếu chủ
chốt vốn hóa lớn như VNM, GAS, MSN, BVH, VIC. Ngoài ra, việc làm đẹp danh mục
báo cáo, làm tăng giá trị tài sản ròng (NAV, Net Asset Value) vào cuối năm của các quỹ
thường là giai đoạn thị trường được nâng đỡ nhất .
2.6 Những vấn đề còn tồn tại và hạn chế
2.6.1 Độ tín nhiệm, bất cân xứng thông tin, tính minh bạch còn thấp
Có lẽ chưa bao giờ chúng ta nói nhiều đến chuyện rò rỉ thông tin, chuyện cạnh
tranh thiếu lành mạnh... của một bộ phận tham gia thị trường chứng khoán như hiện
nay. Một quy chuẩn đạo đức tin cậy cho thị trường chứng khoán tại Việt Nam đang
được giới đầu tư mong đợi. Dường như luôn có những con sóng ngầm trước mỗi biến
động của bảng điện hàng ngày …
Vi phạm công bố thông tin của các DN ngày càng nghiêm trọng, làm mất lòng
tin của nhà đầu tư với thị trường. Rò rỉ thông tin được coi là một trong những vấn đề
nguy hại nhất trên thị trường chứng khoán. Nó thường bắt nguồn từ những người có
trách nhiệm trong các công ty niêm yết, công ty chứng khoán và cả nhân viên làm việc
trên sàn chứng khoán. Không ít người, đặc biệt là những người giữ trọng trách tại các
công ty niêm yết, thông qua một buổi tiệc ăn nhậu có thế tiết lộ cho những nhà đầu tư
quen biết, thân cận trên thị trường chứng khoán về kế hoạch kinh doanh trong quý,
tháng và cả những vấn đề nội bộ trong doanh nghiệp chưa công bố. Hoặc khi các nhân
viên của các công ty chứng khoán nắm được thông tin trước các nhà đầu tư, họ có thể
mua bán trước làm lợi cho cá nhân hoặc báo cho người thân quen mua dưới nhiều hình
thức (vì nhân viên công ty chứng khoán không được phép mua bán ngắn hạn).

22



Tính minh bạch của các doanh nghiệp và cá nhân tham gia là sự sống còn của
thị trường chứng khoán, nhưng hiện nó đang bị coi nhẹ. Giới đầu tư cũng chỉ biết bất
bình khi có công ty giải thích lý do chậm nộp báo cáo quyết toán là “hỏng máy tính”.
Khi kết thúc năm 2012, Việt Nam sẽ bắt đầu các cam kết mở cửa thị trường
chứng khoán của mình khi gia nhập WTO, nhưng kệ thống các bộ luật về chứng khoán
vẫn chưa được hoàn thành. Ngoài ra, những lỗ hổng trong luật chứng khoán đã góm
phần làm tăng khó khăn trong khâu quản lý nhà nước, gây nên tình trạng lũng đoạn thị
trường của giới đầu cơ cũng như những nhóm người tham gia làm “giá” cổ phiếu, đội
lái ... làm giảm tính minh bạch và sự tín nhiệm của giới đầu tư trong lẫn ngoài nước.
Ngoài ra, hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực vốn mạnh của mình mua
ào ạt nhằm đẩy giá lên cao sau đó lại rút ra đột ngột nên các loại bong bóng tài sản đã
gây thiệt hại không nhỏ đến những nhà đầu tư và cả đối với nền kinh tế của chúng ta.
Tất cả những điều trên đang làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam ngày
càng mất đi sự “công bằng” vốn có của mình và biến thị trường thành sân chơi thiếu
tính chuyên nghiệp chỉ dành cho nhóm nhà đầu tư và đầu cơ có tiềm lực vốn mạnh.
2.6.2 Cơ sở hàng hóa chưa đa dạng
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn thiếu Thị trường phái sinh và các
công cụ của nó. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu bởi sự phát triển
sâu rộng, đa dạng của thị trường tài chính, và thị trường chứng khoán không phải ngoại
lệ. Sự biến động khó lường của giá chứng khoán và các loại sản phẩm tài chính khác
mang lại rủi ro cho nhà đầu tư. Đa dạng hóa sản phẩm của thị trường, thêm nhiều sản
phẩm phái sinh là điều cần thiết để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch của nguồn vốn nói chung và các loại
giấy tờ có giá nói riêng. Tại Việt Nam, khi nhắc đến thị trường chứng khoán, những
nhà đầu tư mới bắt đầu tìm hiểu hay đã tham gia nhưng chưa tìm hiểu kĩ sẽ mặc định
nghĩ ngay rằng đây là nơi giao dịch cổ phiếu của các công ty cổ phần. Có thể nói
nguyên nhân của suy nghĩ này nằm ở việc thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn
mới sơ khai, việc đưa ra nhiều loại hàng hóa khác với cổ phiếu, trái phiếu sẽ gây loãng
cho thị trường khi mà chưa đánh giá hết nhu cầu của nhà đầu tư. Tất nhiên, việc đa
dạng hàng hóa là việc phải làm trong tương lai nhưng cần phải đánh giá hiệu quả của

từng loại hàng hóa nhằm đón đầu thị trường, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế chung
đang gặp nhiều bất ổn. Việc sở giao dịch chứng khoán Hà Nội dự kiến sẽ đưa vào giao
dịch một sản phẩm phái sinh đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam là chứng
chỉ quỹ ETF (mô phỏng chứng chỉ quỹ ETF HNX 30-là loại quỹ cho phép nhà đầu tư

23


nắm giữ danh mục tài sản cơ cấu và giao dịch chứng chỉ quỹ trên sở giao dịch chứng
khoán) là tín hiệu đáng mừng cho việc đưa ra công chúng những sản phẩm mới khác
trong tương lai.
Tuy nhiên, bên cạnh lộ trình xây dựng và thực hiện khá khẩn trương của từ các
cơ quan chức năng, thì phía các thành viên tham gia vào hoạt động giao dịch, như các
công ty quản lý quỹ đóng vai trò tổ chức phát hành, các công ty chứng khoán đảm nhận
công việc tổ chức lập quỹ, tổ chức môi giới, nhà tạo lập thanh khoản... lại chưa thấy có
những động tĩnh đón chờ cơ hội mới này. Việc nhà đầu tư có đón nhận ETF hay những
sản phẩm mới trong tương lai thế nào là điều khó đoán trước, nhưng trong giai đoạn
trầm lắng của thị trường vốn hiện tại thì động thái này của sở giao dịch chứng khoán
Hà Nội có thể xem là bước thử nghiệm cho sự phát triển của thị trường vốn trong
tương lai.
2.6.3 Chất lượng niêm yết phát hành , sử dụng vốn chưa cao
TTCK Việt Nam sụt giảm sâu và kéo dài không chỉ bởi tác động từ khủng hoảng
kinh tế thế giới, cộng với những khó khăn kinh tế trong nước. Các nhà phân tích cho
rằng, nguyên nhân còn nằm ở nội tại thị trường, trong đó có quy định tiêu chí về chất
lượng phát hành và niêm yết chứng khoán của các công ty chưa cao.
Nhận định này hoàn toàn có cơ sở, bởi theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) chỉ trong năm 2011, đã có 3 công ty bị hủy niêm yết do liên tiếp vi phạm
quy định về công bố thông tin. Bên cạnh đó, có 28 công ty bị đưa vào diện cảnh báo,
14 công ty trong diện bị kiểm soát, 3 công ty bị tạm ngừng giao dịch, 4 công ty bị cảnh
cáo, có 575 công ty bị nhắc nhở bằng văn bản cũng do vi phạm quy định về công bố

thông tin. Những con số trên cho thấy hành vi vi phạm này xem ra khá trầm trọng, và
dường như đang thách thức niềm tin của nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường.
Hiện tại trên 2 sàn HXN và HOSE có hàng trăm mã chứng khoán dưới mệnh giá
phát hành, la liệt những cổ phiếu giá rẻ hơn bó rau , bó hành ngoài chợ như THV(800
đồng), DDM( 1100 đồng) ,VIG( 1600 đồng )…Ngoài ra, một vài mã trụ cột trên HNX
30 đang ở mức giá quá thấp như DCS( 3100 đồng ), PVX(4200 đồng), SCR(4200
đồng) ( Dữ liệu được lấy giá đóng cửa ngày 16/11/2012 )
Đã có nhiều công ty phải hủy niêm yết bắt buộc do lỗ lũy kế 2 năm liên tiếp và
âm VCSH như TRI, BBT, AGC. Trong tương lai, rất nhiều doanh nghiệp đang đặt
trong tình trạng báo động như DDM, SHN, VSG, SBS…và cả doanh nghiệp có nền
tảng cơ bản tốt hoặc nổi tiếng như LAF, PVX, VCG…Đây cũng đã phản ánh phần nào
những khó khăn chung của nền kinh tế tác động tới các DN niêm yết trên sàn

24


(Hình 2.6-Nguồn:cafef.vn)
Nhìn vào chất lượng chứng khoán trên thị trường nhiều nhà đầu tư cũng không
còn mặn mà lắm bởi ngay cả cơ quan quản lý cũng tỏ ra bi quan khi cho rằng, số lượng
chứng khoán nhiều nhưng chất lượng còn thấp. Đa số các công ty niêm yết là những
công ty vừa và nhỏ. Trong hơn 700 công ty đăng kỳ niêm yết thì có hơn 342 công ty có
vốn điều lệ dưới 100 tỷ đồng. Chưa kể hiệu quả hoạt động chưa cao, năng lực quản lý
và tính minh bạch còn nhiều bất cập
Việc giá của cổ phiếu quá thấp cũng thể hiện phần nào kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp, những doanh nghiệp này thua lỗ quá nhiều, thậm chí âm cả VCSH. Một
phần nguyên nhân đến từ khó khăn chung của nền kinh tế nhưng một phần cũng đến từ
nội tại của doanh nghiệp. Rất nhiều cổ phiếu thuộc loại này đến từ sàn HNX chứng tỏ
chất lượng niêm yết trên sàn Hà Nội vẫn còn rất thấp, chủ yếu cho các doanh nghiệp
vốn hóa vừa và nhỏ. Vì vậy đề án sáp nhập 2 sàn HNX và HOSE đang được đưa ra,
đồng thời việc nâng chuẩn niêm yết của tổ chức phát hành đang được nghiên cứu sẽ

giúp cải thiện được tình hình.
2.6.4 Thị trường còn yếu, niềm tin nhà đầu tư thấp, nhiều biến động
Thi trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu hình thành từ năm 2000, qua suốt 12
năm phát triển, những biến động không ngừng của thị trường đã phần nào cho thấy sự
tác động từ yếu tố tâm lý nhà đầu tư là khá lớn. Khi thông tin ngày càng dễ tiếp cận bởi
sự phát triển của công nghệ thì càng nhiều nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi lượng thông tin
đến quyết định đầu tư của mình. Tất nhiên, tâm lý là yếu tố quyết định đến việc mua
hay bán của nhà đầu tư. Nếu ở các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới, khi nhận
được thông tin có thể ảnh hưởng đến lợi ích của bản thân thì tự mỗi nhà đầu tư sẽ suy
xét đến tương lai hơn là những gì thông tin đó tác động đến hiện tại. Riêng ở Việt Nam,

25


×